|
THÁNG MƯỜI MỘT | |||||||||||||
| ||||||||||||||
CÁC THÁNH NAM NỮ Trước hết đây là lễ các Thánh tử đạo. Vào đầu thế kỷ V, Đức giáo hoàng Bonifaciô IV đă nhận từ tay hoàng đế một đền thờ ngoại giáo, đền Panthéon. Được dựng để tôn vinh các thần. Ngài đă biến thành đền thờ dâng kính Đức Trinh Nữ Maria và các thánh tử đạo. Xác các thánh an nghỉ trong các hang toại đạo được chuyển về nhà thờ trong một cuộc lễ huy hoàng. Mỗi năm các tu viện đều nhắc lại kỷ niệm này. 400 năm sau, Đức Giáo hoàng Grêgôriô IV quyết định rằng việc tôn kính long trọng này phải hướng về các thánh nam nữ đă được tôn phong hay chưa được biết đến v́ không có sự đặc biệt nào của các Ngài chói sáng trên trần thế, nhưng ư chí và việc làm lành thánh của các Ngài được Thiên Chúa thấu suốt cơi ḷng biết đến. Trong thánh lễ hôm nay, Phúc âm kể ra những người chiếm hữu được hạnh phúc chân thật, những người có tinh thần nghèo khó hiền lành biết thương xót, có ḷng trong sạch ăn ở thuận ḥa, sẵn sàng bách hại v́ sự công chính. Tất cả đều vui sướng v́ phần thưởng bội hậu chời đón họ trên trời. Lễ các thánh là lễ của người muốn nên lành thánh. * LỊCH SỬ Lễ các thánh nam nữ đă có từ thế kỷ thứ IV. Thánh Ephraim người Syrie và thánh Gioan Kim Khẩu đều biết đến một ngày lễ mừng các thánh tử đạo vào ngày 13.5 hằng năm. hay rơ hơn là Chúa Nhật thứ nhất sau lễ Chúa Thánh Thần iện xuống. Lễ này vẫn c̣n trong lịch sử phụng vụ của Giáo Hội Hy Lạp và được gọi là Chúa nhật chư thánh. Trong Giáo Hội Tây Phương cũng có một thánh lễ từ thế kỷ thứ VII, lễ toàn thể các thánh tử đạo mừng vào ngày 13.5. Đó là ngày lễ thánh hiến đền Panthéon của Rôma, để Kính Đức Trinh Nữ Maria và toàn thể các thánh tử đạo vào ngày 13.5.609. Lễ chư thánh (toàn thể các thánh, chứ không dành riêng cho các thánh tử đạo) được mừng vào ngày 1.11 hằng năm, chỉ xuất hiện từ thế kỷ thứ VIII do các thầy Ḍng Irland, và Anh Quốc, khi sang truyền giáo ở Âu Châu đă đem theo và trong thời gian ngắn đă phổ biến rộng khắp Âu Châu. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh) Thánh MARTINÔ PORRES 1579 là niên biểu ghi nhớ ngày sinh ra của Martinô ở Lima, Pêru con của một người mẹ da đen và của một người cha hiệp sĩ và 1639 là niên biểu ghi nhớ ngày qua đời của thánh nhân. Sáu mươi năm giữa hai niên biểu này là khoảng thời gian Martinô tiến tới miền ánh sáng, trong sự khiêm tốn và hiến ḿnh trọn vẹn để phục vụ các bệnh nhân. Cuộc t́nh của cha mẹ Ngài không suông sẻ lắm, v́ màu da của mẹ Ngài đă đưa đến những hất hủi không những cho bà mẹ mà c̣n cho cả những đứa con xấu số của bà nữa. Nhưng hoàn cảnh đen tối ấy, Martinô lại coi như nén bạc trao tay để Ngài sinh lời, thành bông hoa khiêm tốn tuyệt vời. Hồi c̣n là một thiếu niên, Martinô đă chứng tỏ ḷng bác ái đầy khiêm tốn phục vụ của ḿnh. Hôm ấy khi theo chị mang thức ăn cho gia đ́nh, Ngài nghe thấy tiếng rên rỉ của một bà lăo người da đỏ. Dừng lại Ngài kinh hăi khi thấy một người lính Tây Ban Nha đang hành hạ lăo. Đầy thương cảm, cậu thiếu niên Martinô cúi xuống lăo già người da đỏ. Nhưng ông thù ghét cự tuyệt: Thằng nô lệ... mày đen đủi. Bọn da đen tụi mày là kẻ thù của dân da đỏ. Nhưng người thiếu niên da đen này đă không bỏ cậu đi. Cậu nói chuyện với lăo già da đỏ cách dịu dàng đến nỗi lăo đă thú nhận là ba ngày rồi không ăn thứ ǵ vào bụng lại chẳng có con cháu ǵ cả. Martinô đă khóc và đưa tất cả thực phẩm cả ngày đă mua được cho lăo già. Vào thời đó, chỉ cần học một chút nghề cạo gió, cắt lể như Martinô đă học th́ đă được coi là đủ để chữa nhiều loại bệnh, như Martinô đă săn sóc các bệnh nhân. Và các con bệnh có thể là loài người hay loài vật, bởi v́ mọi loài đau khổ đều có quyền được người bạn da đen này khiêm tốn tận t́nh săn sóc. Ngài đă chữa lành một con gà tây gẫy gị. Người ta c̣n nói rằng: Ngài đă làm cho nhiều con vật sống lại. Vào tuổi 15, Ngài nhập ḍng Daminh như một thày ḍng ba. Thày thích làm những việc khiêm tốn đến độ đă được biệt danh là "thày chổi". Tại nhà ḍng Đức bà Mân Côi, Ngài vẫn tiếp tục nghề thuốc của ḿnh với một đức ái nhẫn nại vô bờ, như là một y tá của nhà ḍng. Ngài kín múc sức mạnh trong kinh nguyện và khổ hạnh, vừa dấu ḿnh làm việc và lần hạt Mân côi, thức đêm để cầu nguyện rồi ngủ trên cái cáng dùng khiêng xác chết. Trong ḍng Ngài cũng vẫn tiếp tục lấy t́nh yêu để đáp lại những bất công. Một bệnh nhân giận dữ với Martinô, nhưng Ngài đă êm ái nói với họ: - Anh giận dữ phải lẽ lắm, nhưng cơn giận có thể gia tăng cơn bệnh của anh. Hăy dùng món ăn anh thích này đi và tôi thoa bóp chân cho anh. Ngài không hề bất nhân, nhưng lại càng lo lắng săn sóc nhiều hơn cho những người tỏ ra độc ác bất công như Ngài. Martinô đă từ chối không lănh chức linh mục để có thể tiếp tục làm đày tớ mọi người. Để thưởng ḷng trong trắng, đức bác ái và sự khiêm tốn, Thiên Chúa đă ban cho Ngài ơn chữa bệnh, nói tiên tri và làm nhiều phép lạ. Ngài qua đời trong hương thơm thánh thiện năm 1639. Cuộc điều tra phong thánh cho Ngài đă sớm khởi sự từ năm 1657, nhưng măi 200 năm sau, năm 1837, Đức Giáo hoàng Grêgôriô XVI mới phong Ngài lên hàng chân phước và 100 năm sau nữa, ngày 6 tháng 5 năm 1962, Đức giáo hoàng Gioan XXIII phong Ngài lên bậc hiển thánh. Hương thơm thánh thiện của Ngài quả là không thể tan loăng theo thời gian. Thánh CARÔLÔ BORRÔMÊÔ Xuất thân từ ḍng họ quí phái Lombardo, thánh Carôlô Borrômêô sinh tại Arôna ngày 2 tháng 10 năm 1538, là con thứ trong gia đ́nh, tuổi trẻ đạo đức đă sớm định hứơng cuộc đời Ngài để phục vụ Giáo hội, Ngài đạt bằng tiến sĩ luật ở Paris năm 1559, nhưng tháng giêng năm sau đă triệu vời về Roma. Ở đó Ngài được đặt ngay làm Hồng Y với những trách và cao trọng trong Giáo hội gồm cả chức vụ Tổng Giám mục Milan, và dù c̣n trẻ cũng đă được trao cho trách nhiệm làm quốc vụ khanh ṭa thánh. Trong quyền hạn này, Ngài kiểm soát mọi giao dịch chính thức của Đức Giáo hoàng, bao gồm nhiều cuộc đám phán khó khăn liên quan đến việc hoàn thành công đồng Tridentinô từ năm 1560-1564. Công đồng kết thúc, Ngài c̣n phải lo lắng tới những công chuyện c̣n sót lại và măi tới tháng 9 năm 1565 Ngài mới được đức giáo hoàng cho phép về ở tại nhiệm sở của ḿnh. Khó khăn lắm mới được trở về Milan, Ngài lại bị triệu hồi để giúp cậu Ngài bên giường bệnh, và sau đó góp phần chọn lựa đấng kế vị là Đức Giáo hoàng Piô V. Ngài trở lại Milan vào tháng 4.1566. Kể từ lúc đó cho đến khi qua đời, ngày 3.10. 1584, cuộc đời của thánh Carôlô được dành trọn cho giáo phận với tư cách của một Tổng giám mục. Việc canh tân khẩn thiết nhất trong mục vụ của vị giám mục tập chú vào sơ đồ canh tân công đồng Tridentinô để ra. Thánh Carôlô đă trở thành giám mục "kiểu mới" của công đồng Tridentinô, Ngài đă thành công đến nỗi trở thành gương mẫu và gợi hứng cho toàn thể Giáo hội. Có lẽ hơn bất cứ một cá nhân nào khác Ngài đă chuyển các sắc lệnh của cộng đồng ra hành động trong Giáo hội công giáo, Ngài đă thực hiện cuộc canh tân, tổ chức lại hàng giáo sĩ và đời sống thiêng liêng trong cả địa phận lẫn tỉnh Milan. Nhưng nỗ lực này được ghi lại đầy đủ chi tiết qua một số qui luật do sáu hội nghị giáo tỉnh và mười một hội nghị giáo nhận. Ngài kiên tŕ viếng thăm toàn giáo phận rộng răi bao la được giảng dạy, ban các phép bí tích tới những làng mạc xa xôi nhất và những vùng thung lũng núi Alpels. Cuộc hồi sinh đạo công giáo tại Thụy sĩ mà nhiều phần nằm trong quyền hạn của Ngài đă là ảnh hưởng quyết định của Ngài, Ngài đă thiết lập nhiều học viện và chủng viện, Ngài là người bạn của ḍng tên, ḍng thánh Barnaba và nhiều ḍng mới thời đó. Chính Ngài cũng đă thiết lập ḍng cho những tu sĩ thánh Ambrôsiô (bây giờ là thánh Carôlô) để đặc biệt giúp đỡ Ngài. Ngài c̣n liên hệ một cách chủ động tới cuộc canh tân ḍng cổ. Có một nhóm bất măn ḍng Umiliati là Ngài muốn canh tân và sau này đă biến mất, đă t́m cách sát hại khi Ngài đang cầu nguyện năm 1569. Ngài đă khích lệ những hội đạo đức và tổ chức lại các trường công giáo. Ngài cố gắng bảo tồn nghi thức thánh Ambrôsiô cho Milan khi nghi thức này bị đe dọa và cố gắng theo gương thánh Ambrôsiô. Nhưng sự cương quyết không chịu thoả hiệp và sự nghiêm khắc về những nguyên tắc luân lư đă không khỏi gây nên những chống dối. Sức chống đối không chỉ từ vài nhóm giáo sĩ và c̣n từ phía uy quyền thế tục đại diện bởi những nhà cầm quyền Tây Ban Nha và nghị viện thành phố nữa. Dầu vậy, như một thánh nhân và một nhà canh tân, thánh Borrômêô không đ̣i những người khác điều ǵ mà chính Ngài đă thi hành. Đời sống cầu nguyện và bỏ ḿnh của Ngài c̣n tân tiến với những nỗ lực mục vụ. Tai họa dịch hạch năm 1576 đến 1578 cho thấy sự hy sinh xả kỷ tột cùng của Ngài, Ngài đă hiến ḿnh làm hiến tế, bô thí tất cả những ǵ Ngài có như động sản, áo quần; lột bỏ những màn trướng để phủ che những người bất hạnh, chính Ngài cũng ngủ trên sàn nhà, Ngài gọi các linh mục và tu sĩ đến, chỉ định cho họ những ngả đường để giải tội cho nhưng bênh nhân, an ủi và chuẩn bị cho họ chết lành. Để những người hấp hối có thể tham dự thánh lễ, Ngài cho dựng những bàn thờ nơi các ngă tư. Thánh giá mọc lên khắp nơi cho mọi người nh́n thấy. Chuông nhà thờ reo vang, những bản thánh ca được hát lớn trong mỗi gia đ́nh vào giờ nhất định. Như thế, bệnh nhân được tham dự vào đời sống cộng đoàn, thành phố thoát khỏi cảnh tang thương vô vọng để sống như trong một tu viện. Đức tổng giám mục đến với người bị dịch hạch, những trẻ em lăn lóc bên xác mẹ, Ngài cuốn áo choàng mang về nhà. Người ta tổ chức những cuộc đi chân không theo đám rước tay cầm chặt thánh giá. Cuối cùng khi tai họa chấm dứt, Đức Hồng y đă xác tín rằng: dù cho có bao nhiêu nạn nhân, đoàn chiên Ngài phải cảm ơn Thiên Chúa v́ cơn thử thách đă đổi mới các tâm hồn. Nhiều dịp khác cũng cho thấy sáng kiến và ḷng tận tâm của thánh nhân, Milan nhiều lần bị nạn đói, thánh Carôlô cho trồng bắp, tổ chức những bữa cháo nghèo, lập các nhà từ thiện. Nhờ Ngài, những người giàu có nên quảng đại hơn. Thánh nhân đă không t́m nghĩ ngơi sau những nỗ lực không ngừng cho công việc bác ái và mục vụ. Mỗi lúc đêm về người ta c̣n thấy Ngài tiến vào nhà nguyện để đọc kinh suy gẫm. Tới cuối đời, Ngài c̣n t́m ṭi học hỏi, không lăng quên sách thánh, Ngài thích đọc sách cổ, sách thuốc và sách chiêm tinh Ả Rập. Ngài rất ưa thích nghệ thuật và nếu phải bán bộ sưu tầm của Ngài đi, th́ đây là một hy sinh lớn lao cho Ngài. Không nghỉ ngơi, thánh Carôlô Borrômêô giống như một người nghèo không bao giờ biết đến nghỉ ngơi. Cơn bệnh đến, thánh nhân bất động, mắt nhắm nghiền. Vài người nói: "Ḱa cơn mê của giám mục thánh Modène". Vào những ngày cuối đời, nhắm mắt lại để người ta tưởng Ngài ngủ và như thế có thể hồi tâm cầu nguyện mà không bị lo ra, Ngài cười khi người ta khuyên Ngài đừng sợ chết. Rồi sau khi lănh nhận các bí tích sau hết, Ngài lịm vào trong sự tôn thờ. Tin loan báo cái chết của thánh Carôlô Borrômêô đă làmcho cả Milan đau đớn. Sủ gia viết truyện đời Ngài nói: "Đêm ấy, ít có ai ngủ được". Đức Phaolô V đă phong thánh cho Ngài ngày 10 tháng 11 năm 1610. THÁNH LEO CẢ Người ta không biết được thánh Lêo sinh ra ngày nào và cả nơi sinh của Ngài cũng không được biết chắc. Có lẽ Ngài là người Roma. Chúng ta chỉ biết được rằng: Ngài là một phó tế góp phần cai quản dưới hai triều Giáo hoàng Cêlestinô I và Sixtô III và được bầu làm giáo hoàng năm 440. Được chọn làm giám mục Roma, phải đợi 40 ngày sau Ngài mới được trở về. Trước trách nhiệm chất đầy, Ngài đă sợ: - Lạy Chúa, có sự cân xứng nào giữa gánh nặng Chúa trao và sự yếu hèn của con, giữa sự cất nhắc và sự hư không của con ? Và Ngài tiếp : - Chúa đă đặt gánh nặng cho con, xin Chúa gánh với con, xin Chúa hăy là người hướng dẫn và nâng đỡ con. Công cuộc Ngài làm thật lớn lao và đa diện khó có thể tóm kết lại được mà không bất công. Dầu vậy, có thể nói công cuộc này qui về 4 h́nh thái chính: kiểm soát lạc giáo bên Tây phương, can thiệp về giáo thuyết quan trọng bên Đông phương, bảo vệ Roma khỏi cuộc tấn công của dân rợ và những nỗ lực của một mục tử và một nhà giáo dục. Thánh Lêô đă phải có biện pháp đối với không dưới ba lạc giáo. Không c̣n dễ dăi cho những người theo Pêlagiô được hiệp thông nữa và đ̣i phải công khai tuyên xưng đức tin trước khi được nhận là phần tử đầy đủ của Giáo hội. Những người trốn thoát cuộc tấn công của Valda Phi Châu đă mang thuyết Manichêô đến Roma. Thánh Lêô thấy rằng: cộng đoàn bí mật này phải được công khai đưa ra ánh sáng. Ngài cũng nhiệt liệt ủng hộ các giám mục Tây Ban Nha và Phi Châu chống lại thuyết Priscillanô, những cuộc tranh luận về giáo thuyết tại Giáo hội bên Đông phương liên quan tới chính bản tính của Chúa. Hai nhà tiền phong của cuộc tranh luận là Eutiches, một tu viện trưởng ở Constantinople và thánh Plavianê, thượng phụ giáo chủ Constantinople là người trong cuộc chiến đă bị những người theo Eutiches hành hạ cho đến chết. Năm 451, một cộng đồng qui tụ trên 600 giám mục về Chalcedonia. Thánh Lêô đă viết lá thư danh tiếng gởi Plavianô, tŕnh bày giáo thuyết về ngôi vị và bản tính của Chúa Giêsu Kitô. Ngài đă đặt bức thư này trên mộ thánh Phêrô, vị thủ lănh tiên khởi của Giáo hội và ăn chay cầu nguyện suốt 40 ngày. Bức thư được đọc tại công đồng và đă được nhận như một bản tuyên xưng đức tin. Quyền tối thượng của Đức giáo hoàng tỏ hiện khi giám mục đồng thanh kêu lớn : - Chính thánh Phêrô đă nói qua Lêô. Như thế đứng đầu các giám mục không mấy quan tâm tới quyền tối thượng của Roma. Ngài đă cất giữ được sự hiệp nhất Giáo hội. Ngài đă viết: "Đức tin của Phêrô đă được chính Thiên Chúa mặc cho sự kiện vững không thể lay chuyển nổi. Dù cho sự cúng ḷng của các lạc giáo hay sư man rợ của lương dân cũng sẽ không bao giờ đảo lộn được đức tin này". Trong số các quyết định, Ngài đă tạo được sự đồng ư giữa Đông Tây cử hành lễ phục sinh vào cùng một ngày ở khắp nơi. Một cuộc chiến khác chờ đón Đức Giáo hoàng Attila và rợ Hung Nô vơ trang hùng hậu, gieo rắc những khủng khiếp chiến tranh và tàn phá. Người ta nói rằng: những người man di này khi sinh ra là mẹ họ nghiền mặt đi cho hợp với nón sắt, và chính họ xẻ má cho râu hết mọc nổi. Họ thờ thanh gươm khắc sâu vào bàn thờ, tưới máu các tù nhân trên đó và làm một thiết đồ bằng đầu các địch thủ. Năm 452, họ đổ vào miền Bắc Italia gieo rắc tàn phá trên đường tiến quân. Không một đoàn quân nào có sức bảo vệ Roma. Các tướng lănh và hoàng đế Valentinô III run sợ chỉ biết đặt niềm tin tưởng vào Đức giáo hoàng. Thánh Lêô sau 3 ngày cầu nguyện chay tịnh đă ra đón người gieo văi kinh sợ trên thế gian. Và điều ǵ đă xảy ra ? Người ta có thể tưởng tượng được một Attila hùng hổ với đoàn quân đông đảo đối diện với người cha chung của các Kitô hữu mặc phẩm phục giáo hoàng và chỉ có t́nh yêu trong ḷng làm khí giới. Attila tiến đến Roma với những dự tính đẫm máu, nhưng Đức Lêô đă đổi ḷng hắn. Vương quốc được b́nh an với lễ vật triều cống hàng năm. dân Hung Nô trở lại Pannonnia. Đức Giáo hoàng nói với nhà vua: - Hăy tạ ơn Chúa v́ Ngài đă cứu chúng ta khỏi tai họa khủng khiếp. Đối với dân chúng vui mừng sung sướng, Ngài truyền cho họ phải cảm tạ Chúa. Nhưng ḷng nhiệt thành và biết ơn ban đầu đă không tồn tại được lâu. Dân chúng vô ơn và sa đọa, khi nỗi sợ qua rồi họ quên rằng ḷng thương xót họ đă cứu vương quốc và họ lao ḿnh vào các cuộc chơi bời phóng đăng. Cả đến nhà vua Valentinô cũng làm gương xấu cho dân chúng. Những lời trách cứ của đức giáo hoàng không được đến xiả tới. Và ba năm sau, những rợ Vandales dưới quyền vua Ghenséric kéo quân tới. Các nhân vật lớn chạy trốn, cửa thành bỏ ngơ và Đức giáo hoàng một ḿnh ở lại với dân Roma. Ngài một lần nữa ra đón quân xâm lăng. Lần này họ ít bị khắc phục hơn lần trước. Dầu vậy, ảnh hưởng của thánh Lêô cũng đáng đủ để kiềm chế bớt cuộc chém giết và sự tàn phá, các nhà thờ được tôn trọng. Trái với lời hứa hẹn, nhiều dân thành vẫn bị bắt. Đức giáo hoàng đă chuyển đồ cứu tế cho họ, sai các linh mục tới nâng đỡ họ và c̣n mua chuộc lại một số lớn các tù nhân. Những năm cuối đời Ngài dành sửa sang lại các tai họa do các cuộc xâm lăng gây nên, xây dựng lại các tu viện mà với cảm quan về nghệ thuật, Ngài đă làm giàu thêm bao nhiêu là họa phẩm. Ngài để lai nhiều bài giảng, nhiều thư từ rất quan trọng, ngày nay chúng ta c̣n đọc được. Thánh Lêô từ trần năm 461. Ngài xứng đáng được mệnh danh là người đầu tiên được chôn cất trong đại vương cung thánh đường thánh Phêrô. Đức giáo hoàng Sergiô I ghi trên bia mộ của Ngài: "Tôi canh chừng kẻo lang sói luôn ŕnh ṃ phá phách đoàn chiên".
Đây là lời thánh Lêô để lại : - "Các con được thấm nhập vào Chúa". Năm 1754, Ngài được suy tôn lên bậc thánh tiến sĩ trong Giáo hội. Thánh MARTINÔ Thành Turinô Chúng ta biết được thánh Martinô nhờ Sulpicô Sêvêrê, thân hữu và nhà chép sử của Ngài. Nhiều phép lạ động trời ông kể lại tuy khó tin nhưng đầy sống động và xác tín khiến các phép lạ chỉ c̣n khó tin đối với những ai chối bỏ thế giới thiêng liêng. Một cách chính yếu chúng ta có thể tin vào Sulpiciê được. Martinô sinh ra khoảng năm 315 ở Sabaria... miền Pannonia (hay là Hungaria) là con của một sĩ quan. Cha mẹ Ngài đều là lương dân, nhưng c̣n trẻ Ngài đă ghi tên làm dự ṭng. Lúc 15 tuổi, Martinô nhập ngũ và sớm được phái sang miền Gaule ngoại đạo (nước Pháp ngày nay). Các binh sĩ trong trại sống không gương mẫu ǵ, nhưng Martinô tin vào Chúa Kitô nên sống như một Kitô hữu. Ngài phân phát một phần tiền lương cho người nghèo và có những hành vi bác ái ít gặp thấy, chẳng hạn đảo ngược vai tṛ để đánh giày cho người hầu. Ơ cửa thành Amiens một ngày mùa đông, chàng hiệp sĩ sẽ trẻ gặp người ăn xin dường như trần truồng. Martinô nói: - Tôi chỉ có áo quần và khí giới. Rồi rút kiếm ra, Ngài xẻ đi chiếc áo cho người ăn xin. Câu chuyện kết thúc với giấc mơ trong đó Martinô thấy Chúa Kitô hiện ra mặc nửa chiếc áo và nói với các thiên thần. - Chính Martinô đă mặc cho Ta đây. Sau đó ít lâu vào khoảng 20 tuổi, Martinô lănh nhận phép rửa tội, nhưng vẫn phải miễn cưỡng ở lại trong quân đội hai năm sau khi quân rợ xâm lăng Gaule, Martinô xin cấp chỉ huy, có lẽ là Constantinô để được từ nhiệm: - Tôi là binh sĩ Chúa Kitô, thật sái phép nếu tôi phải phục vụ trong quân ngũ. Bị coi là hèn nhát, Ngài bị giải pháp trong hành tiền quân tại chiến điạ. Tuy nhiên, quân rợ đă bao vậy nhưng không động binh. Martinô được giải ngũ có lẽ năm 339. Danh tiếng của thánh Hilariô giám mục Poitier đă thu hút Martinô trở thành môn đệ của Ngài. Nhưng ao ước cho cha mẹ trở lại đạo, Martinô đă trở về sinh quán ở Pannonia. Khi qua núi Alple, Ngài bị bọn cướp vây bắt. Martinô đă nói với người sắp dùng búa giết Ngài: - Một người Kiô hữu không sợ ǵ, nhưng chính anh lại phải sợ tất cả. Anh sẽ trả lời thế nào với Chúa khi anh phải trả lẽ cho đời sống đầy tội ác của anh ? Ngài đă được tên cướp giải phóng và đưa hắn trở về với Chúa. Tương truyền rằng: bên ngoài Milan, thánh Martinô gặp qui và satan tuyên cáo rằng : - Đi đâu mày cũng sẽ phải gặp tao. Đáp lại, thánh Martinô hứa hẹn với qủi một cuộc chiến cam go : - Cả hai bên đều phải giữ lời nhé. Thánh Martinô được hạnh phúc thấy mẹ trở lại nhưng người cha không muốn nghe ǵ hết. Bị bắt bớ và bị người đồng hương đánh đ̣n, thánh Martinô đi Gaule. Nhưng Ngài biết rằng: thánh Hilariô đă bị những người theo Kitô bắt đi đày. Ngài rút vào một tu viện gần Milan, nhưng bị những người theo lạc giáo săn đuổi và chạy ẩn vào một hoang đảo gần Ghênes, sống bằng cây cỏ. Ngày kia, Ngài bị trúng độc và như sắp chết. Theo thói quen, Ngài chống lại bệnh tật bằng lời cầu nguyện và cơn bệnh biến mất, Ngài gặp lại thánh Hilariô trên đường lưu đày trở về và xây dựng ở Lihugné. Gần Poitiers một nơi ẩn tu mà chẳng bao lâu đă trở thành cộng đoàn của các nhà ẩn tu. Ngài được chọn làm giám mục thành Tour v́ danh tiếng và sự thánh thiện của Ngài. Nhưng để đưa được Ngài ra khỏi tu viện, người ta phải kiếm cớ là có bệnh nhân ở Tours cần được chữa khỏi. Thày ḍng vội vă ra đi nhưng chĩ gặp và một số giám mục đến tấn phong cho Ngài ngày 4 tháng 7 năm 371. Trong khi đó những người quí phái và lănh Chúa chống lại "một người ăn mặc bẩn thỉu và đầu tóc rối bù". Vị tân giám mục vẫn giữ được chiếc áo len thô, ngai ṭa Ngài là một chiếc ghế đẩu bằng gỗ. Càng nặng trách nhiệm Ngài càng cảm thấy cần hồi tâm. Ngài lập tu viện Marmoutiers với chủng viện và nhà trường. Các linh mục được đào tạo tại đó để nâng hàng giáo sĩ buông thả lên. Marmuotiers sắp sinh ra trường công lập đầu tiên là mẹ đại học Oparis. Công cuộc truyền giáo của thánh Martinô mở rộng khác thường. Đời sống luân lư của dân quê thật khắc khổ. Có những Kitô hữu hợp nhau với lương dân để mừng kính thần Jupiter, tập hợp quanh những ḍng nước, nhưng cây cổ thụ. Vị giám mục truyền giáo không dừng lại ở giáo phận Ngài, nhưng đi khắp nơi t́m kiếm các linh hồn. Ở mỗi sào huyệt của ngẫu tượng, Ngài dừng lại giảng dạy cải hóa thay thế đền miếu bằng một thánh đường, và đặt linh mục Marmoutiers dẫn dắt. Thế là một giáo xứ thành h́nh. Thiên Chúa luôn giúp đỡ Ngài. Ở Ambroisé có một ngôi đền vĩ đại thờ thần Mars. Không ai dám nghĩ đến việc phá đổ. Martinô cầu nguyện suốt đêm. Hôm sau một cơn băo lớn nổi lên phá đổ ngẫu tượng. Một nhà thờ được dựng lên và thế là giáo xứ Ambroise được thành lập. Trong một thị trấn nhỏ, vị tông đồ truyền chặt bỏ cây cổ thụ được thần thánh hóa. Những người thờ ngẫu tượng nói: - Nếu Thiên Chúa ông thờ quyên phép như ông nói, ông hăy nằm dưới chỗ cây đổ xuống, nếu ông thoát nạn, chúng tôi sẽ tin Thiên Chúa. Martinô nhận lời, cây bị đốn lung lay ngă xuống... sắp nghiền nát Đức giám mục... nhưng Ngài bỉnh tĩnh làm dấu thánh giá và cây bỗng quay ngược về phía đối diện. Ở Apris Ngài chữa lành một người cùi, ở Treves Ngài làm phép dầu để chữa lành một cô bé bất toại, trên đường về Ngài phục sinh đứa con duy nhất Chúa một phụ nữ và toàn dân ḥ vang niềm tin vào Thiên Chúa. Tới gần Vandome tái diễn phép lạ: sau bài giảng làm động lương tâm người nghe, một phụ nữ đưa tới cho Ngài một em bé đă chết, quỳ xuống cầu nguyện và trả đứa bé sống lại cho mẹ nó. Đây là một giai thoại đẹp về chiếc áo thánh Martinô mặc, biến thành áo choàng sáng láng. Các Vua Chúa nhận lời thề của các chư hầu trên "chiếc áo choàng thánh Martinô này" và người ta có lẽ đă hay gọi nơi giữ áo choàng này là nguyện đường (tiếng Pháp là Capelle hay Chapelle). Aix, nơi Charlemanghe ở trẻ thành Aix-la-chapelle, và tên chapelle này lan rộng để chỉ mọi nơi người ta đến cầu nguyện. Tới 80 tuổi, thánh Martinô vẫn truyền giáo không mệt mỏi. Ngài c̣n chuộc các tù nhân, tham dự các cộng đồng. Ngài chỉ nghỉ ngơi đôi chút nơi các tu sĩ của ḿnh, ở Marmoutiers để lại ra đi bằng bất cứ phương tiện nào dùng được cho việc truyền giáo. Trong một sứ vụ cuối tại địa phận, khi thấy cái chết tới gần, thánh Martinô báo cho môn đệ biết, nhưng vẫn dâng lao lực của ḿnh cho Chúa. - "Lạy Chúa, nếu dân Chúa c̣n cần đến con, con không từ chối đau khổ và công việc nào, nguyện cho ư Chúa được thực hiện". Nằm trên tro như Ngài muốn. Thân thể lên cơn sốt, Đức giám mục vẫn đưa tay ngước mắt lên trời. Các tu sĩ xin Ngài xuôi tay, Ngài nói: - "Các anh để tôi nh́n trời hơn là nh́n thế gian để hồn tôi theo đường ngay mà tới Chúa". Quỉ dữ tấn công Ngài lần chót, người ta nghe tiếng người hấp hối nói: - "Đồ súc vật độc ác, mầy làm ǵ đó ? mầy không t́m được nơi tao điều ǵ đâu, đồ bị chúc dữ ! Chính ḷng Abraham sẽ đón nhận tao". Đó là những lời sau cùng trước khi Ngài chết vào ngày 8 tháng 11 năm 379. Ba ngày sau ngày được mai táng ở Tours. Ngài là vị thánh đầu tiên không phải là tử đạo hay lừng danh v́ cuộc tử đạo. Mộ của Ngài ở Tours là thành tŕ vững chắc chống lại dân man di. Toàn dân Pháp và các vị thánh của nước này suốt nhiều thế kỷ vẫn hành hương để khấn cầu vị cải hóa Gaule che chở. Thánh GIOSAPHAT Thánh Giosaphat sinh năm 1580 (vài tác giả nói là 1584), ở Vladimir, thủ đô của Volynia miền Ukraine, rồi sau là một tỉnh của Balan dầu cha mẹ Ngài thuộc ḍng quí phái, nhưng họ đă nhập thương trường với vài thành công và cha Ngài đă trở thành nghị viên thành phố. Giosaphat (tên rửa tội là Gioan) trước hết đă học nghề với một thương gia ở Vilna miền Lithuania và làm việc với ông tới năm 1604 khi Ngài trở thành một tu sĩ nhà ḍng Basiliô ở Vilna. Các Kitô hữu Ruthenia và Ukraina phần lớn theo nghi thức Byzantine bị phân rẽ sâu xa kể từ khi một số đông các giám mục của họ năm 1596 tuyên bố ở Brest- Litovsk hiệp nhất với Giáo hội Roma. Thượng phụ giáo chủ ở Constantinople đă cố gắng ngăn cản sự chia cắt này khỏi giáo hội chính thống và đă đặt một vị nhiếp chính cho Ruthenia v́ mục đích này. Điều này chẳng quen thuộc với các bậc vị vọng địa phương v́ họ coi đó như một đe dọa cho sự tự chủ của họ, nhưng lại được vương quốc Balan và chính quyền trung ương ủng hộ hoàn toàn. Dầu vậy suốt cuộc đời, thánh Giosaphat luôn trung thành với Thánh nhân, viễn quan thiêng liêng và phụng vụ của Ngài theo nghi thức Byzantine. Ngài đă học thuộc ḷng toàn sách các phép bằng tiếng Slave như một đứa trẻ, nắm giữ nghiêm nhặt việc ăn chay theo lịch Byzantine c̣n nhặt nhiệm hơn lịch chay tịnh của Roma nhiều, và kinh nguyện Ngài cũng dùng nhiều nhất là "Kinh nguyện Chúa Giêsu", ḷng sùng kính được nhiều nhà khổ hạnh và thần trí Kitô giáo Đông phương ưa thích. Nhưng lư lẽ của nhưng người theo Chính thống hay giáo hoàng, và những thúc đẩy đưa tới đối nghịch chính trị đều vô nghĩa đối với thánh Giosaphat, Ngài không thể tin được rằng những việc sùng mộ và phong tục của dân tộc Ngài và dĩ nhiên của toàn thế giới lại không ḥa được với sự trung thành đối với Giáo hội hiệp nhất dưới thánh nhan. Ngài sớm nổi tiếng với những khắc khổ nhiệm nhặt và với kiến thức của Ngài. Ngài được tấn phong linh mục năm 1609 và sớm nổi tiếng như là vị hứơng dẫn thiêng liêng. Ngài cũng viết nhiều sách tranh luận về thời này (về phép tửa của thánh Vladimir, về sự gải mạo của các sách tiếng Slave). Năm 1617, Ngài được thánh hiến làm giám mục Vitebsk với quyền kế vị Đức Tổng giám mục Pskov. Ngài đă làm tổng giám mục Pskov năm 1618. Được dân chúng kính trọng, Ngài lại cương quyết với những người ly khai, không chấp nhận cả những nhượng bộ chính quyền trung ương Balan định làm. Năm 1623 khi đang viếng Vitebsk, Ngài bị một đám đông theo tinh thần quốc gia quá khích tấn công chặt đầu và bắn chết. Xác Ngài được đưa về Pskov và trên đường về này đă được nhiều người tôn kính gồm cả những người thủ địch của Ngài nữa. Cuộc tử đạo của Ngài đă bảo đảm sự hồi sinh của Giáo hội công giáo Slave. Họ khác về phong tục, kỷ luật, phụng vụ và ngôn ngữ với người Balan theo công giáo Roma, trong khi đó họ vẫn độc lập với Maxcơva và người Nga v́ sự liên kết của họ với Roma. Bởi đó họ trở thành một trung tâm quan trọng của phong trào quốc gia Ruthania. Đức giáo hoàng Urbanô VIII năm 1628 đă khởi đầu cuộc án phong thánh cho Giosaphat khi mở mộ ra và thấy xác Ngài c̣n nguyên vẹn. Ngài được phong chân phước năm 1643 và được phong thánh năm 1867. THÁNH ALBERTÔ CẢ Thánh Albertô là một người thuộc thế hệ đầu của ḍng Đaminh, Ḍng được thành lập năm 1216. Ngài góp phần lớn trong những tiến triển quan trọng về trí thức trong thế kỷ XIII và Đức giáo hoàng Piô XII năm1941 đă đặt Ngài làm thánh bảo trợ cho những ai say mê nghiên cứu các khoa học tự nhiên. Ngài sinh ra tại Swabia có lẽ vào năm 1206, là con trưởng thuộc một gia đ́nh quí phái trong binh nghiệp. Điều người ta biết rơ về người thiếu niên Đức này là ḷng yêu thích nghiên cứu học hành và thiên nhiên. Khi th́ Ngài học với các thầy ḍng Benedictô, khi th́ Ngài lạc lơng trong miền quê, say mê quan sát cây cỏ khám phá các loại cây và để cho năng khiếu chín mùi trước cảnh sắc của tạo hóa. Cuối cùng Albertô đă bỏ rơi truyền thống hiệp sĩ của gia đ́nh. Một người cậu đă dẫn Albertô tới Bologne để hoàn tất việc học hành. Ngài nghe một bài giảng của chân phước Giocdano (Jordain) miền Saxe thuộc ḍng Đaminh và cảm thấy được Chúa gọi, Nhưng lại ngập ngừng v́ mới 16 tuổi. Ông cậu muốn Albertô quên đi ư tưởng này. Nhưng ở Padua, Albertô gặp lại chân phước Giocđanô và sau một cuộc đàm thoại đă nói với Ngài :- Thưa thày ai đă tỏ lộ ḷng con cho Ngài ? Từ đây không ai ngăn cản nổi ơn kêu gọi của Albertô nữa. Ngài vào nhà tập ḍng anh em giảng thuyết. Lời cầu nguyện của Ngài diễn tả một ước muốn sống tự thoát: - "Lạy Chúa Giêsu Kitô, con kêu lên Chúa, xin Chúa đừng để con bị quyến rũ bởi những lời hăo huyền về danh giá gia đ́nh, về uy thế của ḍng tu, về sự lôi cuốn của khoa học". Dưới ánh sáng chân lư Ngài đă tuân theo, Albertô nhiệt thành nghiên cứu khoa học và trở thành tu sĩ thánh thiện, nhà tư tưởng lớn, giáo sư siêu việt, nhà sưu tầm bách khoa tài ba. Ngài có sự hiểu biết uyên bác đặc biệt như một số những nhà trí thức lớn thời Trung cổ. Luôn luôn t́m gia tăng những hiểu biết, Albertô rảo qua khắp nước Đức, thu thập những ư niệm về các loại súc vật cây cỏ, trước tác những tác phẩm về khoa học tự nhiên. Ngài quan tâm tới các thuyết của Aristote và t́m cách Kitô hóa các lư thuyết đó. Ngài lần lượt dạy học tại Cvologne, Pribourg, Ratisbonne, Strasbourg, Ngài sẽ ảnh hửơng trọng yếu tới người học tṛ thiên phú này là "ḅ câm", Ngài tiên báo rằng: tiếng rống của con ḅ này sẽ vang dội khắp nơi. Khoảng năm 1240, Ngài tới Paris giữ ghế giáo sư tại đây. Các lớp học quá nhỏ không đủ để dung nạp hết các thính giả của Ngài, Ngài phải dạy họ tại công trường nay vẫn c̣n giữ tên Ngài: công trường Maubert hay Albertô cả. Lời Ngài có uy tín đến nỗi để chấm dứt cuộc tranh luận chỉ cần nói: "Thày Albertô đă nói vậy". Tài năng Ngài lan rộng tại đại học Paris, đạihọc danh tiếng nhất thế giới. Ngài trú ngụ tại nhà ḍng thánh Giacobê, viết nhiều tác phẩm về nhiều đề tài khác nhau: thần học, toán học, luân lư, chính trị, triết học, h́nh học, điạ chất học. Người ta kể rằng: ngày kia một thày ḍng Đaminh vô danh đến trước mặt thánh Albertô, tội nghiệp cho sự lao lực của Ngài và khuyên Ngài nghỉ ngơi lo lắng tới sức khỏe. Đây lại chẳng phải là một thần dữ mặc lốt thày ḍng sao ? Để trả lời, thánh làm dấu thánh giá. Thế là hết các cám dỗ, satan trốn mất. Vua thánh Luy (Louis) tỏ t́nh nghĩa với thày ḍng thời danh này và trao cho Ngài nhiều kỷ vật quí báu trước khi nghe về Đức, bởi v́ thánh Albertô được đặt làm giám tỉnh. Vâng lệnh đức giáo hoàng , Ngài giă từ căn pḥng sách vở và học tṛ, suốt ba năm Ngài đi bộ, không tiền của, ăn xin để thăm các nhà ḍng và lập nhiều nhà mới. Roma kêu mời Ngài để làm sáng tỏ cuộc tranh căi giữa các giáo sĩ. Albertô được một thời an b́nh trong ḍng để dạy học và viết lại những quan sát và suy tư của ḿnh. Nhưng Đức giáo hoàng buộc Ngài nhậm chức Đức giám mục Ratisbonne, một trách vụ năng nề. Trong trung tâm giàu có phồn thịnh này, người ta kể lại rằng: Đức giám mục không có lấy "một đồng tiền trong két, một giọt rượu trong hầm, một nhúm bột trong vựa". Dầy vậy, thánh ALBERTO vẫn trả hết nợ và xây dựng một nhà thương. Khi đă hoàn thành công cuộc hết sưc có thể, Ngài xin từ chức để trở lại đời sống một tu sĩ đơn giản. Năm 1623 theo lệnh Đức giáo hoàng, Ngài đi kêu gọi nghĩa binh trong các làng quê nước Đức. Một năm sau Đức giáo hoàng qua đời và Ngài ngừng công việc lại. Thánh Albertô thấy cần được hồi tâm. Ngài lui về tu viện Surtzbourg và đắm ḿnh vào cuộc nghiên cứu và chỉ đi sửa lại những cuộc tranh luận căi. Một lần nữa lại được rảo gọi qua các đô thị lớn nước Đức, Ngài thánh hiến các thánh đường, truyền chứa cho các giáo sĩ. Năm 1270 Ngài đến dạy tại Cologne. Ơ Công đồng Lyon, Ngài bênh vực Rodolphe I miền Habbsourg. Bảy năm sau, tức năm 1277, dầu đă già Ngài buộc phải đi Paris để bênh vực cho giáo thuyết học tṛ ḿnh là Tôma Aqunô. Albertô hoàn toàn già nua, Ngài chọn cho ḿnh một phần mộ trong ḍng và mỗi ngày đến đọc kinh nhật tụng cầu cho kẻ chết, để cầu cho chính ḿnh. Dần dần Ngài đâm ra lú lẫn. Một lần có du khách hỏi thăm Ngài trả lời chắc nịch: - "Albertô không c̣n ở đây nữa, ông ta ..." Ngài qua đời êm ái tại pḥng riêng giữa các anh em đầy chung quanh, Ngài được phong làm tiến sĩ Hội Thánh năm 1931. Thánh GERTRUĐÊ Thánh GERTRUDÊ sinh ra vào ngày lễ Hiển linh năm 1256. Người ta không biết ǵ về cha mẹ Ngài, nhưng chắc hắn cha Ngài đă có ḷng đạo đức sâu xa và đă dâng con gái 5 tuổi của ḿnh làm tu sĩ tu viện Helfia theo luật ḍng thánh Benedictô. Chẳng may Ngài lại trùng tên với vi tu viện trưởng. Ngài lớn lên xa mọi thú vui thế gian và sớm chứng kiến hoạt động trí thức lớn mạnh. Trong bầu khí chiến tranh, nhà ḍng trốn về Rossdorf, rồi v́ thiếu nước lại trở về Helfta. Thánh Mechtilde chị của tu viện trưởng Gertrudê đứng trường. Người nữ tu trẻ GERTRUDÊ say mê quên bỏ đời sống cầu nguyện. Việc trau dồi văn chương nghệ thuật thu hút Ngài đến nỗi Ngài nói rằng vào thời đó "Ngài lo lắng cho tâm hồn chỉ bằng lo lắng cho đôi chân của ḿnh thôi". Vào lúc 25 tuổi, trong một thị kiến, Chúa Kitô đă trách móc Ngài là đă bỏ Chúa mà lo học hành. Thế là đảo lộn tất cả: "Mọi bồng bột tuổi trẻ đối với con bắt đầu xem ra lạt lẽo vô vị. Lạy Chúa, Chúa là chân lư trong suốt hơn mọi ánh sáng, nhưng sâu thẳm hơn mọi bí mật. Chúa đă quyết phá tan những bóng đêm đậm đặc của con". Và thị kiến kết thúc bằng một cuộc trở lại. Ngài đă kể lại và nói: "Trong một niềm vui của tinh thần mới, tôi bắt đầu tiến tới". Gertrudê chỉ c̣n muốn học và suy gẫm thánh kinh, các giáo phụ và các nhà thần học. Ngài kiềm chế tính hiếu động bằng việc hăm ḿnh dữ dằn và sống trong sự kết hiệp liên lỉ với Chúa. Đáp lại việc hiến thân hoàn toàn ấy, Ngài được nhiều ơn thần bí phi thường. Ngài được mạc khải nhiều lần trong khi hát kinh nhật tụng viết lại những mạc khải này trong cuộc khảo luận. Cùng với thánh nữ Mechtilde, Ngài là người đầu tiên tỏ bày ḷng tôn sùng Trái Tim Chúa. Lúc đó Gertrudê 35 tuổi. Sức khỏe Ngài không cho phép Ngài giữ những nhiệm vụ quan trọng nữa, Ngài chỉ c̣n là phó ca trưởng. Nghi ngờ nhiều, Ngài chỉ thấy sự thấp kém và hư không của ḿnh mà chạy đến với ư kiến của thánh Mechtilde là ca trưởng. Chúa đă tỏ cho thánh Mechtilde: "Cuộc đời của Gertrude là một thánh ca liên tục ca ngợi vinh quang Cha. Trên trần gian này, sau bí tích Thánh Thể, Cha chỉ cư ngụ cách đặc biệt trong ḷng Gertrudê". Thánh nhân được ơn những dấu đinh vô h́nh và một vết thương trong ḷng. Các sách của Ngài chỉ được phổ biến 200 năm sau, cho thấy đời sống nội tâm nồng nhiệt của Ngài, Ngài liên kết say mê với phụng vụ cố gắng đồng nhất đời ḿnh với những mầu nhiệm mà chu kỳ phụng vụ nhắc lại. Ngài muốn chịu khổ v́ phần rỗi anh em và t́m những lời nồng cháy để cải hoá các tội nhân và đổ ra nhiều nước mắt v́ những đau khổ gây nên cho Chúa. Năm tháng cuối đời, thánh nữ nằm bệnh bất động với những đau đớn dữ dằn. Ngài không c̣n nói được nữa, nhưng vẫn giữ được sự b́nh thản. Ngài biết giờ vinh quang sắp tới. Ngày 17 tháng 10 năm 1031 hay là 1032 thánh nữ từ trần. Tương truyền rằng: lúc chết Ngài thấy Chúa Giêsu và đức trinh nữ với đoàn người trên trời đến dẫn Ngài vào thiên đàng trong khi quỉ dữ khóc ṛng. Để kết thúc, nhà chép sử ghi lại mạc khải của một nữ tu thấy linh hồn thánh Gertrudê bay thẳng như một cánh chim vào ḷng Chúa Giêsu đang mở rộng đón tiếp Ngài vào t́nh yêu vô cùng của Ngài. Không được chính thức tôn phong làm thánh, nhưng lễ kính Ngài có trong lịch chung theo nghi thức Roma. Thánh MAGARITA SCOTIA Thánh Magarita sinh ra khoảng năm 1045. Cha Ngài là hoàng tử Edward người Anh, bị lưu đày và cưới một nữ công chúa người Đức, có lẽ là cháu của hoàng hậu vua thánh Stephanô nước Hungaria. Magarita lớn lên trong triều đ́nh Hungari và đă gặp được sự công chính và thánh thiện để làm nên dấu thánh thiện của chính ḿnh. Khoảng 12 tuổi trở lại nước Anh, thánh nữ sống trong triều đ́nh của vua thánh Edward. Trong cuộc chinh phục Norman năm 1066, Magarita cùng với mẹ và anh chị em Ngài bị lưu đày một lần nưă. Họ trốn sang Scotia, dầu lúc ấy đang có chiến tranh giữa hai nước, vua Scotia là Malcola Cannore cũng đă nhân ái tiếp nhận những kẻ lưu đày. Malcolm Cannore mà tên gọi có nghĩa là "nhà cai trị vĩ đại" là một vị vua uy quyền có khả năng. Ông yêu Magarita, c̣n Magarita th́ có ư định đi tu ḍng. Nhưng ông đă khuyên Magarita lập gia đ́nh với ông. Cuộc sống chung của họ được mô tả với vài chi tiết trong một tập hồi kư có lẽ do cha giải tội của Ngài là Turgot, sau là giám mục viết. Đây là một câu chuyện thích thú về sự gặp gỡ giữa một người đàn bà trẻ khôn ngoan và thánh thiện với người chồng hung hăng ít được giáo dục nhưng hứơng chiều về sự thánh thiện của vợ ḿnh. Cuộc hoà hợp nhân duyên này mang lại cho họ sáu người con trai và hai người con gái. Hoàng hậu chỉ chấp nhận cho những gương lành tới gần các tâm hồn trẻ thơ này và không một người xấu nào dám tới triều đ́nh. Những hoàng tử công chúa này lớn lên và tham gia vào các công cuộc của người mẹ thánh thiện và của người cha đă trở thành vị vua gương mẫu. Thánh Magarita dùng nhiều th́ giờ và tiền của cho các công cuộc bác ái, chính Ngài hầu hạ người nghèo khó, già cả, côi cút và yếu đau. Ngài khám phá ra mọi h́nh thức khổ cực, giúp đỡ các gia đ́nh phá sản phục hồi, chuộc lại các tù nhân, xây dựng nhà thương, nhà văng lai cho du khách. Người lạ biết rằng: họ có thể luôn t́m được chỗ trú ngụ nơi Ngài khi ra khỏi nhà. Cả đoàn người bất hạnh vây quanh Ngài và đây mới là triều đ́nh thật của Ngài. Khi trở về nhà, Ngài chỉ muốn ngồi vào bàn ăn sau khi đă hầu bàn cho 300 người nghèo ngồi đầy một pḥng ăn lớn. Scotia đă được cải hoá từ lâu, nhưng sự man rợ c̣n tồn tại ở đó trở thành mẹ của một vương quốc, thánh Magarita biến nó thành một gia đ́nh rộng lớn và dẫn tới Thiên Chúa, Ngài trao cho những quan liêm chính tái lập trật tự, sai các nhà giảng thuyết đi loan báo Tin Mừng để Chúa Giêsu được yêu mến khắp nơi. Ngài giải quyết vấn đề Giáo hội ở Scotia thời Ngài gặp phải. Bị cắt đứt liên lạc do cuộc xâm lăng của người ngoại, Giáo hội Celt đă khác biệt nhiều điểm với Roma và chính thánh Magarita đă hoà giải những yếu tố tranh chấp và đưa Giáo hội Celt ở Scotia về qui phục. Ngài làm việc này mà vẫn tránh được sự phân ly đau đớn. Cũng thế những cố gắng đưa văn hóa Âu Châu vào Scotia của Ngài rất thành công. Trong khi bên Anh, cuộc chinh phục Norman đă để lại một di sản cay đắng th́ ở Scotia dưới ảnh hưởng của Magarita và các con của Ngài, việc lan tràn văn hóa Trung Cổ đă mang lại cho Scotia một thời đại hoàng kim kéo dài cả 2000 năm sau khi thánh nữ qua đời. Thánh Magarita qua đời năm 1093 tại lâu đài Ediburgh như rất nhiều vị thánh, vào lúc mà mọi công tŕnh xem ra tiêu tan hết. Vua nước Anh xâm chiếm một pháo đài. Malcoln và hai người con cả đi tái chiếm. Thánh nữ cảm thấy âu lo. Ngày kia Edgar con Ngài trở về, thánh nữ hiểu ngay thực tế khủng khiếp là vua và người con kia đă chết. Đau đớn, thánh nữ chỉ biết nói: - Lạy Chúa toàn năng, Chúa đă gửi cho con sự đau đớn lớn lao này để thanh tẩy tâm hồn con, con xin chúc tung Chúa . Ngài không than trách, đức tin và ḷng dũng cảm không rung chuyển, nhưng sáu tháng sau Ngài đă qua đời. Ba người con của Ngài tiếp tục cai trị trên ngai vàng, công cuộc của người mẹ được tăng cường và đi tới hoàn thành. Thánh Magarita được phong thánh năm 1250. Thánh ELISABETH Nước Hungaria Em bé 4 tuổi mặc ái nhung đeo vàng, người ta dẫn tới Thuringia, là con vua Hungaria. Tên Ngài là Elisabeth và vừa được đính hôn với hoàng tử Luy (Louis) mười một tuổi con của Landgrave miền Thuringia, và theo thói thường Ngài lớn lên tại cung điện Thuringia. Elisabeth xem ra đă được tiền định với niềm vui, được cầu nguyện hăm ḿnh và mỗi ngày hy sinh một điều thích thú. Nếu trong cuộc chơi mà thành công rực rỡ, Ngài không quá vui và ngừng lại. Một phần những cái người ta cho Ngài thường là tới tay người nghèo. Nhưng Ngài sớm thấy một đau khổ khác, không phải mọi người đều vui ḷng khi thấy Ngài lớn lên trong đạo đức, tốt lành và quảng đại như vậy. Công chúa Sophia, mẹ của Luy tức giận v́ sự hoàn thiện này. Khi bà dẫn Elisabeth với cô con gái ḿnh tới nhà thờ, cả hai trang điểm như công chúa th́ Elisabeth lại cởi vương miện bằng đá ra mà nói không muốn mang nó đến trước Thiên Chúa phải đội măo gai. Thế là công chúa và con ḿnh khinh bỉ và tuyên bố rằng: Ngài bất xứng để làm vợ của bá tước. Nhưng khi Luy đă trở lại triều đ́nh chàng ngây ngất v́ vị hôn thê trẻ của ḿnh. Chàng chọn làm châm ngôn những đức tính : đạo đức, trong sạch và công b́nh. Chàng đă cử hành hôn phối sớm hết sức có thể, lúc chàng 20 và nàng 14. Năm sau họ có con đầu ḷng và 2 năm sau nữa sinh con thứ. Các đày tớ của thánh nữ nói về Ngài: "Bà kêu đến Chúa trong mọi hành vi, bà sống khiêm tốn, rất bác ái và say mê cầu nguyện". Ngày sống của nữ bá tước được phân phối cho công việc cầu nguyện, làm việc bác ái, cùng với các phụ nữ dệt len cho người nghèo. Rảo quanh các làng quê phân phát các đồ cứu trợ. Luy, một hiệp sĩ hào hùng, rất lịch thiệp, là bạn trung thành nâng đỡ Elisabeth trong đường thánh thiện Ngài đeo đuổi. Ông yêu vợ có khuôn mặt và tâm hồn dịu hiền của ḿnh. Người ta thích kể lại một huyền thoại làm đẹp cuộc đời thánh nữ như sau: Vào một ngày mùa đông. Luy đi săn về gặp vợ cong ḿnh xuống dưới sức nặng các đồ ăn giấu trong vạt áo. Ông hỏi : - Em mang ǵ đó ? Vạch áo ra ông chỉ thấy những bó hoa hồng trắng rất đẹp không mùa xuân nào có được. Vị bá tước xúc động v́ phép lạ, Ngài ưu ái người vợ lư tưởng của ḿnh hơn nữa. C̣n chính thánh nữ th́ tăng gấp việc bác ái. Ngài săn sóc các bệnh nhân nghèo, cấp đồ ăn cho họ, băng bó các vết thương. Vào một ngày thứ năm tuần thánh, Ngài đă hôn chân các người cùi Ngài tập hợp lại. Dưới những chiếc áo sang trọng, Ngài dấu một chiếc áo nhặm. Không ai nghi ngờ sự khắc khổ của Ngài. Isentrude, người đày tớ theo Ngài và có nhiệm vụ đánh thức Ngài ban đêm để cầu nguyện làm chứng : "Ngài hoàn thành những công tŕnh bác ái trong tâm hồn vui tươi và không đổi nét mặt". Chính Elisabeth đă nói về những người nhân đức mà mặt mày ủ dột : "Họ có vẻ muốn làm khiếp đảm Thiên Chúa nhân lành. Trong khi Ngài yêu thích những kẻ cho một cách vui tươi". Luy phải ra trận. Đây là lúc nữ bá tước đau đớn nhất và tăng gấp lời cầu nguyện và đánh tội. Thánh nữ vẫn thường bối rối lo sợ có những bất công mà lănh Chúa thường gặp phải. Gặp buổi đói ăn, thánh nữ nhiệt thành nâng dỡ người nghèo. Phân phát hết lúa gạo dự trữ, Ngài hy sinh cả nữ trang và đá quí, Ngài thiết lập những nhà thương. Dân chúng gọi Ngài là "mẹ". Khi chồng trở về, thánh nữ thường cười nói: - Em đă dâng cho Thiên Chúa cái thuộc về Ngài bảo vệ của cải của chúng ta, Nhưng đă đến lúc những thử thách lớn lao đưa Elisabeth tới đỉnh cao thánh thiện. Luy tham gia đoàn quân thánh giá và vong mạng năm 1227. Vài ngày sau thánh nữ sinh hạ người con thứ ba. Ngài như điên lên v́ đau đớn, nhưng đă chứng tỏ ḷng đai độ từ bỏ thánh nữ đă có từ buổi thiếu thời. H́nh ảnh cổ truyền c̣n diễn tả thánh nữ, bị người em bất xứng của Luy xua đuổi và cấm dân chúng không được cho trú ngụ, khóc lóc ôm con nhỏ đi vào đường ṃn sỏi đá giữa mùa đông lạnh lẽo với hai người con níu bên tay... Thực tế là người em rể đă một thời không cho Ngài được thừa hưởng của cải của chồng Ngài. Elisabeth từ chối mọi thỏa hiệp với ông ta và không muốn nhận được cấp dưỡng bằng cái Ngài coi là của cắp của dân nghèo. Ngài thích được rẫy bỏ hơn và tự kiếm kế sinh nhai. Như thế với lương tâm Kitô giáo Ngài đă chọn được nên nghèo khó. Thực vậy, Ngài đă phải trú ngụ trong một chuồng heo cũ và đă biết khốn cực là ǵ. Người đày tớ theo Ngài kể rằng: - "Bị bắt bớ bởi những chư hầu của chồng, thiếu mọi thứ của cải và v́ thiếu thốn, Ngài đă phải gửi con đến những miền xa để chúng được nuôi dưỡng ở đó. Dầu vậy, Ngài vẫn cảm tạ Chúa và đă bóc lột Ngài như thế, và trong một nguyện đường các anh em hèn mọn Ngài đă đặt tay lên bàn thờ thề hứa từ bỏ tất cả. Cậu của Ngài là giám mục miền Bamberg rất muốn Ngài tái giá và c̣n gọi Ngài tới lâu đài Haute Francoine nơi đặt các xương cốt của chồng Ngài. Nhận xương cốt, Ngài nguyện vâng phục và tạ ơn Thiên Chúa. "Lạy Chúa, con yêu biết bao. Nhưng Chúa biết con không hối tiếc việc hy sinh người yêu của con cho Chúa. Anh đă tự hiến ḿnh cho Chúa, con cũng hiến dâng anh con cho Chúa để yểm trợ thánh địa. Nếu được con cho cả thế giới để đổi lấy anh, rồi chúng con cùng đi ăn xin với nhau. Nhưng con xin chứng tỏ rằng: nếu trái với ư Chúa, con sẽ không muốn chuộc lại sự sống của anh, cả đến sợi tóc đi nữa... Nguyện ư Chúa thành sự trong chúng con". Người góa phụ trẻ không muốn có phần ǵ đối với vinh hoa trần thế nữa, đă mặc áo ḍng ba Phanxicô và dùng tiền của chồng để lại để điều hành một nhà thương là nơi bà ngồi ăn chung với các bệnh nhân nghèo khó. Sau cùng Ngài ở trong một ngôi nhà bằng cây vách đất. Ngài dệt vải để nuôi thân và chịu những hy sinh cực khổ hơn nữa. Cha giải tội của Ngài là Conrad thấy sự diụ hiền của Ngài có vẻ tạo nên cảm t́nh của hai người bạn từ hồi trẻ và nay theo Ngài, nên không cho Ngài giữ họ gần ḿnh nữa. Thay vào đó là một đứa trẻ vô giáo dục và một bà điếc lác khó chịu. Elisabeth đối xử với họ cách âu yếm như với bạn bè và dành lấy những công việc gớm ghiếc nhất. Một đứa trẻ bất toại Ngài săn sóc bắt Ngài thức dậy mỗi đêm sáu lần và chính Ngài giặt giũ áo quần hôi hám của nó. Khi đứa trẻ chết, Ngài thayvào đó một dứa trẻ phong cùi và nói: - Tôi không đang cởi giây giầy cho em. Đối với tôi Chúa Giêsu đang ở vào đại vị của em. Đứa trẻ chết, lại một người bị bịnh trứng tóc sống bên Ngài. Vị hướng dẫn c̣n dùng đến những cư xử nghiệt ngă lạ lùng. Nhà chép sử nói rằng: "ông ta có thể đánh vào mặt Ngài, nhưng thánh nữ đủ mạnh để chịu dựng như một người đang chiêm niệm. Ngài qua những giờ ngây ngất và nét mặt trở bên rực sáng. Nhưng Elisabeth yếu dần và qua đời lúc mới 24 tuổi, vào ngày 19 tháng 10 năm 1231. Từng đoàn người lũ lượt hành hương kính viếng mộ Ngài và đă có rất nhiều phép lạ xảy ra tại đó. Bốn năm sau Đức giáo hoàng Gregoriô IX đă tôn phong Ngài lên bậc hiển thánh. Lễ Đức Mẹ dâng ḿnh vào đền thánh Nói về lễ Đức Mẹ dâng ḿnh vào đền thánh, đức giáo hoàng Phaolô VI viết : "Những lễ dựa trên lời truyền khẩu, nhưng có giá trị gương mẫu cao và đươc Giáo hội Đông phương đặc biệt mừng kính từ xa xưa, đó là lễ Đức Maria dâng ḿnh và đền thánh" Việc Đức Mẹ dâng ḿnh và đền thánh dựa trên sự kiện này, là luật cũ đă nhận các trinh nữ tự hiến ḿnh cho Thiên Chúa tại đền thành. Hơn nữa Đức Trinh nữ c̣n được đặc ân Vô nhiễm Nguyên tội ngay từ buổi đầu thai. Sư trinh trong này có thể dẫn tới hiệu quả là trí khôn Đức Maria đă phát triển sớm hơn b́nh thường, v́ không bị ảnh hưởng bởi tội nguyên tổ. Bởi đó, người ta cho rằng, Mẹ đă dâng ḿnh cho Chúa rất sớm, ngay khi trí khôn ngài có khả năng hiểu biết. Cuốn ngụy thư "Phúc âm về cuộc sinh hạ của Đức Maria" c̣n cho rằng ngài đă thực hiện cuộc dâng hiến này khi mới ba tuổi. Giottô trong một bức họa đă diễn tả Đức Maria trong những bước chân mạnh mẽ tiến vào đền thánh. Trong niềm tin này, người Hy lạp, Armênia và Latinh, đều mừng lễ Đức Mẹ dâng ḿnh trong đền thánh vào ngày 21 tháng 11 hàng năm. Simon Métaphrate cho rằng lễ mừng đă được thiết lập vào năm 730 ở Constantinople. Năm 1143, hoàng đế Emmanuelđă xếp vào số các lễ được Giáo hội khắp nơi biết đến. Vị đại sứ của vua Chypre bên đức giáo hoàng Grêgoriô XI (ở Avignon) đă thuyết phục, để giáo triều với đức Sixtô IV chấp nhận lễ này từ năm 1372. Kể từ đó, ở nhiều vương quốc và nhiều nhà thờ đă mừng long trọng theo sách nguyện Rôma. Đức giáo hoàng Pio V băi bỏ và được đức Sixtô V tái lập. Nhiều nhà ḍng đă chọn lễ này làm ngày khấn ḍng hay lặp lại lời khấn cho các tu sĩ. Cùng với Đức Maria, chúng ta cũng dâng ḿnh cho Chúa một cách mau mắn và quảng đại. Thánh CÊCILIA Cuộc tử nạn của thánh CÊCILIA rất được nhiều người biết đến, quí chuộng thán phục và ưa lập lại. Nhưng những thế kỷ đầu không thấy nói ǵ tới vị thánh này cả. Thánh Ambrôsiô. Hierônimô rất kính các trinh nữ tử đạo, nhưng không nhắc đến tên Ngài. Ba trăm năm sau cuộc tử đạo giả định này, câu chuyện của thánh nữ xem ra là một trong những áng văn đẹp nhất làm say mê tín hữu và phổ biến rộng răi lạ thường. Câu chuyện tưởng tượng về thánh nữ Cêcilia được chen vào giữa hai vị tử đạo có thật là Valêriô và Tiburtiô. Truyện đó như sau : Cêcilia thuộc gia đ́nh quí phái sống tại Roma dưới thời vua Alexander Sêvêrô. Cuộc bách hại thật dữ dằn. Một ḿnh trong gia đ́nh là Kitô hữu, Ngài luôn mang theo cuốn Phúc âm và sống đời cầu nguyện bác ái. Mỗi khi tới hang toại đạo là nơi Đức giáo hoàng Urbanô bí mật cử hành thánh lễ, đoàn người ăn xin đợi chờ Ngài trên đường đi Roma ch́a tay xin Ngài phân phát của bố thí. Dưới lớp áo thêu vàng, Cêcilia mặc áo nhậm mà vẫn tỏ ra b́nh thản dịu dàng. Trong khi tuổi trẻ ngoại giáo mê say nhạc trần tục, ḷng Cêcilia hướng về Chúa và ca tụng một ḿnh Ngài thôi. Đáp lại ḷng đạo đức của Ngài, Thiên Chúa cho Ngài được đặc ân được thấy thiên tnần hộ thủ hiện diện bên ḿnh. Cha mẹ Cêcilia gả Ngài cho một nhà quí phái tên là Valêriô yêu Cêcilia nồng nhiệt, ông không biết Ngài theo Kitô giáo, nhưng ông có một tâm hồn ngay thẳng. Ngày cưới, Cêcilia mặc chiếc áo nhặm duới lớp áo ngoài sang trọng và khẩn cầu Chúa giữ cho ḿnh được trinh nguyên. Giữa những tiếng ca vui nhộn, Cêcilia vẫn theo thói quen cùng với các thiên thần ca hát những khúc thánh thi. Bởi đó mà các người Kitô hữu hay nhận Ngài là bổn mạng của các nhạc sĩ. Chúa Giêsu khấng nghe lời ca trong trắng tự ḷng vị hôn thê trẻ dâng lên Ngài. Khi chiều về, Cêcilia nói với Valêriô: - Thưa Chúa công, em có điều này muốn nói với anh, không bàn tay trần tục nào được động tới em, v́ em có một thiên thần bảo vệ. Nếu anh tôn trọng em, Ngài cũng yêu mến anh và ban ân phúc cho anh. Ngạc nhiên và rất cảm kích, Valêriô đă ao ước nh́n thấy thiên thần. Cêcilia mới nói rằng: ông phải chịu phép rửa tội đă, rồi nàng giải thích mầu nhiệm cứu rỗi các linh hồn do đức Kitô cho ông nghe. Ngài đề nghị: - Anh hăy tới đường Appianô. Anh sẽ gặp những người nghèo khổ và lấy danh nghĩa em để xin họ dẫn anh tới gặp cụ già Urbanô đang ẩn náu trong hang toại đạo. Vị giám mục này sẽ dạy dỗ anh hay hơn em, Ngài sẽ chúc b́nh an cho anh, sẽ mặc cho anh bộ áo trắng tinh. Rồi trở lại đây anh sẽ thấy thiên thần của em. Valêriô theo lời vị hôn thê của ḿnh, đến đường Appianô và được dẫn tới vị giám mục. Ngài dạy đạo và rửa tội cho ông. Trở về với Cêcilia . Ông gặp nàng đang cầu nguyện, có thiên thần bên cạnh, khuôn mặt thiên thần rực sáng, tay cầm hai triều thiên kết bằng hoa huệ và hoa hồng. Ngài đặt một chiếc trên đầu Cêcilia và một chiếc trên đầu Valêriô và nói: Thiên thần c̣n nói thêm : - "Hỡi Valêriô, bởi v́ anh đă biết nghe lời hiền thê của anh, vậy anh xin điều ǵ anh muốn". Valêriô có người em ông yêu thương lắm tên là Tiburtiô, ông xin : - "Con muốn em con cũng biết đạo thật như con" Thiên thần trả lời : - Điều anh xin rất đẹp ḷng Chúa. Vậy hăy biết rằng: Tiburtiô và anh sẽ lên trời với ngành vạn tuế tử đạo". Ngay lúc ấy Tiburtiô xuất hiện. Ông thấy mùi hoa huệ và hoa hồng và muốn biết từ đâu mà có hương thơm như vậy giữa mùa này, thứ hương thơm như làm con người ông trẻ lại. Cêcilia đă nói cho Cêcilia ông hiểu sự hư không của các ngẫu thần, đă tỏ cho ông thấy sự rực rỡ của đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Tiburtiô muốn được sự chỉ dạy, và đến lượt ông, cũng đă lănh nhận bí tích rửa tội do đức giáo hoàng Urbanô. Cêcilia, Valêriô và Tiburtiô cùng nhau sống đời thánh thiện. Họ phân phát của bố thí cho các Kitô hữu bị bắt bớ, bí mật cầu nguyện với những người bị kết án và khuyến khích họ can đảm chịu cực h́nh. Đêm về hai anh em lo chôn cất xác các vị tử đạo. Chẳng bao lâu họ bị phát giác. Tổng trấn Almachiô ngac nhiên hỏi: - Các người quan tâm tới các tử tội bị ta kết án hay sao ? Cêcilia trả lời : - Thật đẹp ḷng Chúa biết bao, nếu chúng tôi xứng đáng được làm nô lệ cho những người mà Ngài kết án là tử tội. Quan tổng trấn nhún vai cho rằng: người đàn bà này mất trí. Ông tách riêng Valêriô và Tiburtiô và cũng hỏi như vậy. Nhưng các Ngài đă khinh thường danh vọng với sang giàu mà Almachiô rất coi trọng. Ông liền kết án trảm quyết các Ngài. Tác giả kể lại cuộc tử nạn các Ngài đă nói: - Người ta thấy các Ngài chạy xô tới cái chết như tới dự một đại lễ. Cêcilia thu lượm và chôn cất xác các Ngài. Nàng vẫn tiếp tục bao bọc cho các Kitô hữu bị bách hại. Almachiô liền tống giam các Ngài. Bị vấn danh Ngài nói : - Tôi tên là Cêcilia, nhưng Kitô hữu là tên đẹp hơn nhiều của tôi. Quan tổng trấn bắt nộp tài sản của Valêriô và Tiburtiô. Cêcilia trả lời để tất cả đă được phân phát cho người nghèo rồi. Tức giận Almachiô truyền cho Cêcilia phải dâng hương tế thần ngay nếu không sẽ phải chết. Cêcilia cười trả lời : - Chư thần của ông chỉ là đá, đồng ch́, và Ngài tuyên xưng đức tin vào Chúa Kitô mà thôi. Các binh sĩ xúc động nghị rằng Ngài sắp phải chết nên nài nỉ: - Cô sang trọng và trẻ đẹp, hai mươi tuổi đầu hăy dâng hương tế thần đi, đừng để chết uổng. Nhưng Cêcilia trả lời họ rằng: - Các ông không biết rằng chết vào tuổi tôi, không phải là đánh mất tuổi trẻ, nhưng là đổi chác v́ Thiên Chúa sẽ trả lại gấp trăm cái người ta dâng cho Ngài sao ? Nếu người ta đưa quí kim để đổi lấy vật tầm thường, các ông có ngập ngừng không ? Nghe Ngài các binh sĩ hoán cải. Almachiô mất b́nh tĩnh truyền giam Ngài vào pḥng tắm. Căn pḥng đầy hơi nóng. Cêcilia không hề thấy khó chịu. Almachiô truyền chém đầu Ngài lư h́nh ba lần dùng gươm mà chỉ gây nên được một vết thương ghê rợn. Thánh nữ đă cầu xin để được gặp Đức Giáo hoàng Urbanô đến lo linh hồn ḿnh. Ngài c̣n sống được 3 ngày, được gặp Đức Urbanô, rồi lănh triều thiên thiên thần đă hứa. Các Kitô hữu chôn táng Ngài và tôn trọng thái độ lúc Ngài tắt hơi, đầu không cúi gục như bông hao không tàn. Hơn một ngh́n năm sau, người ta thấy trong hang toại đạo một thi thể được coi như là của Cêcilia, huyền thoại kể lại và nghệ sĩ trẻ Maderna tạc tượng đă nghĩ đây là tuyệt phẩm của ơn thánh. Vào thế kỷ thứ V, một nhà quí phái trùng tên đă dâng nhiều dinh thự làm nhà thờ đặt tên là Cêcilia danh hiệu bà đă được mang. Thánh CLÊMENTÊ I Người ta biết được về thánh Clêmentê, vị giáo hoàng trị v́ trong 10 năm chỉ nhờ bức "thư gởi giáo hữu Corintô" thôi. Vào thế kỷ thứ IV có lưu hành những chứng thư đầy huyền thoại. Theo đó, cha Ngài là Phaustin thuộc ḍng dơi Giacop. Sinh tại Roma, được nuôi dưỡng trong Do thái giáo. Thánh Clêmentê đă nghe theo những diễn từ của các thánh tông đồ và trở thành môn đệ các Ngài. Ngài đă theo thánh Phaolô trong các hành tŕnh đi truyền giáo và đă trở thành đấng kế vị thứ ba của thánh Phêrô. Vua Trajanô đang bách hại các Kitô hữu biết được rằng: vị giáo hoàng đă đem được nhiều người trở lại đạo. Ông kết án Ngài phải làm việc khổ sai tại các hầm mỏ bên kia Bắc Hải, trong các miền hoang vắng. Hai ngàn Kitô hữu đẽo đá tại đây chịu cảnh khát nước thảm khốc. Tương truyền rằng thánh Clêmentê cầu nguyện rồi lên một ngọn đồi và thấy một con chiên ghi dấu chân đúng vào chỗ có ḍng nước tươi mát vọt lên làm giảm khát cho người mang án. Các bức tranh cẩn đâu tiền c̣n diễn lại biểu tượng một con chiên đứng trên ngọn núi xanh. Nhà vua khi biết được rằng thánh Clêmentê đă dùng lời nói và phép lạ để an ủi các Kitô hữu, liền sai các sứ giả tới cột cổ Ngài vào một cái neo rồi ném xuống biển. Lệnh đường thi hành. Nhưng trong khi các tín hữu cầu nguyện trên bờ, họ thấy ḍng nước rút đi một cách lạ lùng và có thể đưa xác vị tử đạo lên đất liền. Điều chắc chắn kính là bức thư của thánh Clêmentê đă thành một trong các tài liệu quí giá của Kitô giáo thời Chúa xưa. Các Kitô hữu Côrintô chạy đến Đức giáo hoàng để t́m hoà giải những cuộc tranh chấp, đă kính cẩn đón tiếp thư của Ngài. Những thư này được đọc cho các cộng đoàn tín hữu. Thư của thánh Clêmentê chứng thực việc thánh Phêrô đến và chịu chết ở Roma, việc Nêrô bắt các Kitô hữu làm tṛ mua vui. Thư cũng gợi ư cho chúng ta việc tổ chức Giáo hội. Giữa các sự việc lớn lao khác, thánh Clêmentê đă nói: - "Ai mạnh hăy lo cho người yếu. Người giầu hăy giúp đỡ người nghèo và người nghèo hăy chúc tụng Chúa và điều Ngài muốn cung ứng cho các nhu cầu của họ. Người khôn ngoan hăy tỏ ra khôn ngoan không phải chỉ trong lời nói mà c̣n trong các việc lành. Người khiêm tốn đùng nóí ǵ về ḿnh và đừng t́m phô diễn hành động của ḿnh. Người lớn không thể tồn tại mà không có người nhỏ và người nhỏ cũng không thể tồn tại mà không có người lớn... Thân thể không thể bỏ qua sự phục vụ của những chi thể nhỏ bé hơn. Các tín hữu c̣n học biết bằng qua những âu lo vô ích và sống đời sám hối, mỗi người phải biết vâng phục để trở nên tôi tớ hoàn tất vinh quang Thiên Chúa. Đức Kitô đă không đến trong kiêu sa, nhưng đă tự hạ, đă chịu khổ cực. Vậy phải nên thánh và tín thác cho Chúa. Chỉ một bức thư này c̣n quan trọng trong sự thật vượt xa mọi truyện thần thoại. Thánh CÔLUMBANÔ Thánh Côlumbanô sinh tại Kildare hay Carlow vào giữa thế kỷ thứ VI, một thời kỳ mà danh tiếng các ḍng tu Ai Nhĩ Lan đă bắt đấu nổi danh trên khắp thế giới Kitô giáo. Khi ấy người ta tuôn đến các ḥn đảo của các thánh nhân để học hiểu văn chương và nghệ thuật trong các tu viện. Côlumbanô có một trí khôn đặc biệt hứa hẹn những địa vị cao trọng trong xă hội. Nhưng Ngài ưu tư v́ những nguy hiểm mà sắc đẹp bày ra cho Ngài. Ước muốn duy nhất của Ngài là sự thánh thiện, Ngài quyết giă từ thế gian để sống trong tu viện. Nhưng mẹ Ngài không thể xa con một khi Côlumbanô gia nhập hàng giáo sĩ. Ngày thánh nhân lên đường, mẹ Ngài nằm khóc ngang ngưỡng cửa. Côlumbanô phải bước qua ḿnh mẹ để đáp lời gọi của trời cao. Sau khi vượt qua được cuộc chiến bi đát này, không c̣n ǵ phải trả để Ngài tiến tới trên đường ḥan thiện nữa. Trước hết Côlumbanô theo học tại Lough Erne một trường ở Cleenish, rồi sau đó ở Banger, ngôi trường quan trọng ở Ai Nhĩ Lan thời đó. Tu viện Banger có hơn 3000 tu sĩ dưới sự dẫn dắt của thánh Comgall và đă đưa ra nhiều mẫu gương anh hùng trong đời sống khổ hạnh. Côlumbanô dạy học tại đây 10 năm. Lúc ấy Ngài khoảng 40 tuổi. Thánh Comgall sai Ngài và một số tu sĩ đi truyền giáo tại Gaule, trong đoàn truyền giáo này con có thánh Gall. Các tu sĩ vượt biển đến vương quốc Austrasia. Thánh Côlumbanô đă từ chối lănh địa mà vua Sigebert cho để thành lập tu viện. Suốt 14 năm, Ngài sống đời lang thang để rao giảng Tin Mừng. Dân chúng thán phục những người ngoại quốc đă tới yêu mến giúp đỡ họ trong khi tự ép ḿnh sống đời nghèo khó nghiêm nhặt này, Họ đổi ḷng và đến lượt họ cũng yêu mến Thiên Chúa, thương yêu người khác. Danh tiếng của Côlumbanô vang tới triều đ́nh Bourgogne của vua Gontran. Đứng trước ân huệ Ngài đă thực hiện cho dân cư, nhà vua hỏi vị tu sĩ muốn ǵ để ở lại trong vương quốc của ông. Thánh CÔLUMBANÔ trả lời: - "Tôi không có của cải nào hết ngoài việc thực hiện Tin Mừng và vác thánh giá, bỏ ḿnh và theo Chúa Giêsu Kitô". Nhà vua đă hiến cho thánh nhân một pháo đài hoang phế ở Haute Saonê để làm nhà ở. Lần này thánh Côlumbanô nhận lời. Lều rộng nhất dùng làm nhà nguyện. Của ăn thường xuyên của các tu sĩ là rễ cây, thỉnh thoảng có được một chút thực phẩm. Dân chúng miền phụ cận nghe nói về những người này của Thiên Chúa đă đưa các bệnh nhân tới xin cầu nguyện. Nhiều người muốn bắt chước và chia sẻ cuộc sống của các Ngài. Thánh Côlumbanô phải thiết lập một tu viện thứ hai ở Luxeuil. Dầu đây là nơi nghèo khổ, ẩm thấp. Nhưng một ít năm sau đă trở nên một tu viện phồn thịnh, thành thủ phủ các đời viện tu. Các môn sinh không ngừng đổ tới. Nhiều lănh Chúa hiến dâng tài sản "phát tích qui y" tự ép ḿnh làm việc tay chân khai khẩn ruộng đất như người nghèo. Cả các bệnh nhân cũng được chia sẻ cuộc sống này tùy sức họ có thể đóng góp. Cuộc sống cầu nguyện và làm việc giữ được sự cân bằng chưa hề có cho tới lúc ấy. Thánh Côlumbanô điều hành mọi chuyện và đôi khi lui về cḥi tu của Ngài gần Annecy để viết luật, dựa trên t́nh mến Chúa yêu người, hy sinh cầu nguyện chung, việc làm tay chân không được ngăn trở kinh nguyện thâm sâu trong ḷng. Ngài nói: - Cả đời chúng ta đều diễn tiến như một ngày. T́nh yêu ước muốn hứơng thượng, chúng ta t́m về quê hương nơi cha ngự trị. Một thời gian sau, Ngài thiết lập một tu viện thứ ba ở Phontaines. Tuy nhiên các tu sĩ phải trải qua một cơn thử thách. Cả các giám mục Pháp lẫn hai triều đ́nh không giữ măi được thiện cảm. Các tu sĩ Ai Nhĩ Lan vẫn cử hành lễ Phục sinh theo nghi lễ Celtie. Và các giám mục dựa vào chiêu bài này để triệu vời Côlumbanô tới một hội nghị. Thánh nhân cáo lỗi và gửi một lá thư hùng hồn "xin cho được sống im lặng trong rừng sâu bên cạnh xương tàn của 17 anh em đă chết". Đồng thời Ngài cũng đề nghị là có nhiều vấn đề cấp bách hơn ư kiến khác nhau về phụng vụ mà các giám mục cần quan tâm. Vua nước Bourgogne có 4 người con ngoại hôn. Sự kiện các giám mục thường lui tới triều đ́nh mà không bao giờ cảnh giác các gương mù này, chứng tỏ t́nh trạng Kitô giáo thấp kém thời đó. Vua Thierri kế vị cha là Ghentran dưới sự bảo trợ của hoàng thái hậu Brunehaut có một đời sống phóng đăng. Những lời trách cứ của thánh nhân làm bà hoàng tức giận. Dầu có cảm t́nh với vị tu viện trưởng, bà cấm không cho người vào tu viện Luxeuil. Thế là chỉ c̣n cách trục xuất Ngài đi. Các tu sĩ muốn theo Ngài, nhưng bà hoàng ngăn cản chỉ cho các tu sĩ có máu Ai Nhĩ Lan đi. Bị bắt giam tại Bessanson, Côlumbanô trốn thoát được. Không ai được cung cấp đồ ăn cho các Ngài, cũng không được cho trú ngụ. Ở Tours, vị tông đồ đă cầu nguyện bên mộ thánh Martinô và tiên báo Thierri sẽ mất ngôi cho vua Clotaire II, người sẽ nối lại vương quốc Pháp. Thierri gửi lệnh cấm tàu cho tới Nantes là nơi Ngài phải đáp tàu về Ai Nhĩ Lan. Từ hải cảng này vị tu viện trưởng đă viết cho các bạn c̣n lại Luzeuil một lá thư rất thời danh. Côlumbanô đáp tàu đi tới Ai Nhĩ Lan, nhưng cơn băo nổi lên đưa tàu vào bờ. Ngài tin đây là ư Chúa quan pḥng và lên đường đi Neustrie. Ngài giảng đạo cho vua Clotaire II, làm cho vua và triều thần chấp nhận Kitô giáo. Rồi Ngài đi Metz. Người ta đem con ra đón đường xin Ngài chúc lành. Ơn gọi tu ḍng chỗi dậy khi Ngài đi qua. Quyết ḷng rao giảng Tin Mừng cho những người thờ ngẫu tượng, nhà truyền giáo ngược sông Rhin và cùng với vài môn sinh tới hồ Zurich, dân cư ở dây nổi tiếng hung dữ. Nhà chép sử kể rằng: ngày kia dân chúng cho thần Wodon một b́nh đầy bia. Thày ḍng liền thở và b́nh vỡ tan. Môn sinh của Ngài là Gall c̣n đốt các ngẫu tượng buộc thánh Côlumbanô không được chọc tức dân chúng nữa. Ngài lui về gần hồ Constance. Với sự trợ giúp của thánh Gall, Ngài lập một tu viện, nhưng dân chúng vùng lên cận thù ghét. Vùng này rơi vào quyền hạn của Thierri người vừa mới giết em ḿnh là Thibert. Sau khi vượt mọi khó khăn, Côlumbanô ra đi và để thánh Gall ở lại. Sau khi vượt dăy núi Alpes, vị tông đồ già cả tới vùng đất của ḍng họ Lombarnô. Nơi đây Ngài phải chống lại lạc giáo Ariô và bị trục xuất một lần nưă. Lui về chân dăy núi Appennins, Ngài thiết lập một tu viện Bobbiô, vua Clotaire lúc này đă nắm quyền và mời Ngài trở lại nước Pháp. Nhưng thánh nhân thấy đời gần tàn chỉ viết thư xin vua sống theo tinh thần Kitô giáo sâu xa hơn. Vua đă kính cẩn nhận lời khuyên và bao bọc tu viện Luxeuil. Thánh Côlumbanô không ngừng thư từ cho các tu sĩ và từ hang động ẩn tu của ḿnh, Ngài viết thư bằng văn vần để giă từ bạn bè trước khi qua đời, ngày 23 tháng 11 năm 615. Công cuộc của Ngài triển nở mạnh mẽ sau cái chết của Ngài. Luxeuil trở thành trưởng phái tu viện quan trọng trong thế kỷ VII và c̣n tồn tại tới cuộc cách mạng Pháp. Bobbiô trở thành tu viện Monte Cassinô miền Bắc Otalia. Ngày nay dân Bắc Italia rất sùng kính Ngài, với 34 giáo xứ được dâng kính Ngài. CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM Vào đầu thế kỷ XVI, khi vị thừa sai đầu tiên đặt chân lên đất Việt Nam, ánh sáng Tin Mừng cũng bắt đầu lan rộng. Giáo hội Việt Nam được khai sinh từ đấy. Tuy nhiên, như bầu trời có những ngày mây đen giăng mắc, Giáo hội Việt Nam cũng có những ngày tăm tối. Giáo hội Mẹ Roma đă trải qua 3 thế kỷ bị bách hại, trước khi được mở rộng như ngày nay, th́ Giáo hội Việt Nam cũng phải trải qua gần 3 thế kỷ ch́m ngập trong thử thách. suốt từ năm 1630 - 1883, bao gịng máu đă đổ ra để bảo vệ đức tin và để làm phát sinh Giáo hội này, trong những cuộc bắt bớ đời các chúa: Trinh Doanh, Trịnh Sâm, các vua : Cảnh Thịnh, Minh Mạng, Triệu Trị, Tự Đức. Hàng vàn chứng nhân đă hiên ngang hiến mạng sống để bảo vệ đức tin. Gương hy sinh quả cảm của các Ngài thật sáng ngời và Giáo hội qua 3 đời giáo hoàng: Lêô VIII, Piô X và Piô VII, đă tôn phong 117 vị lên hàng chân phước. Tất cả đă được Đức Gioan Phaolô II suy tôn lên hàng hiển thánh ngày 19-6-1988. Tuy nhiên "máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh ra người công giáo". Gương các thánh tử đạo không chỉ là niềm hănh diện của chúng ta, mà c̣n là công ơn mà chúng ta, các tín hữu Việt Nam, phải ghi nhớ và đáp đền. Mừng kính trong một ngày lễ, chúng ta khơi dậy cuộc đời các vị tử đạo, nhất là các vị đă được tôn phong lên bàn thánh để kính nhớ. Chúng ta ghi nhớ ngày các Ngài hiến thân v́ đức tin : 8 VỊ THÁNH GIÁM MỤC : 1. Thánh An (Giuse Diaz Sanjurjô) tử đạo ngày 20.7. 1857 1. Thánh Bắc (Phêrô Phanxicô Néron) tử đạo ngày 3.11.1860 1. Thánh Cần (Phanxicô Xavie Cần) tử đạo ngày 20.11.1837 Thánh Thiện (Tôma Trần Văn Thiện) tử đạo ngày 21.9.1838 1. Thánh Đaminh Án Khảm, lư trưởng, tử đạo ngày 13.01.1859 Thánh ANRÊ TÔNG ĐỒ Anrê tiếng Hy lạp có nghĩa là mạnh mẽ can đảm. Thánh Anrê được vinh dự làm một trong số 12 tông đồ của Chúa Giêsu. Con của Gioana. Như em ḿnh là Phêrô, Ngài làm thuyền đánh cá và không có ǵ khác ngoài chiếc thuyền. Như thế Ngài thuộc lớp người khiêm tốn được Chúa Giêsu yêu thương đặc biệt. Ngài vẫn sống tại làng Bethsaida nhỏ bé bên bờ biển Galilêa cũng gọi là hồ Giênezareth. Ngày ấy đang khi cùng với Phêrô đi thả lưới, Chúa Giêsu đă đi ngang qua và đưa lời gọi sẽ quyết định cuộc đời các Ngài : - Hăy theo tôi, tôi sẽ làm các anh thành các ngư phủ lưới người ta. Đây không phải lần đầu Anrê đă gặp đấng cứu thế. Thỉnh thoảng Ngài có tới nghe Gioan Tẩy giả rao giảng trong sa mạc. Khi ấy Chúa Giêsu xuống Galilea và Gioan tẩy Giả đă nói : - Đây là Chiên Thiên Chúa. Và ANRÊ có mặt ở đó với Gioan, đă biết được Người là Đấng thiên sai mong chờ. Gioan và ANRÊ lên đường theo Người xa xa v́ họ cảm động và không dám tới gần. Nhưng Chúa Giêsu quay lại và nói với họ : - Các anh t́m chi vậy ? Họ, những người chỉ t́m, chỉ muốn Chúa thôi đă thưa lại : - Thưa Thầy, thày ở đâu ? Chúa Giêsu nói : - Hăy đến mà xem. Và cả hai đă ở với Chúa hôm ấy. Khi trở về nhà ANRÊ đă nói với em ḿnh : - Chúng tôi đă gặp được Đấng thiên sai. Từ đó hai anh em đă bỏ chài lưới để tới gần Chúa Giêsu. Họ nghe Người và thần tính của Người dần dần rọi sáng tâm hồn họ. Họ đă tông thờ Đấng cứu thế ở trong ḷng rồi. Ở tiệc cưới Cana, Anrê đă thấy Chúa Giêsu biến nước thành rượu và lần đầu tiên thấy tỏ lộ vinh quang thần linh của Ngài. Thế là sau biến cố ấy Chúa Giêsu đă gọi hai anh em bên bờ biển Galilea và họ đă bỏ mọi sự mà theo Chúa. Anrê đă rạng rỡ trong ḷng mà tham dự vào cuộc chữa lành các bệnh nhân gặp thấy trên đường đi, việc Phúc âm những kẻ chết, việc Chúa hóa bánh ra nhiều để nuôi đoàn người đói lả vây quanh Chúa Giêsu. Chính Anrê đă nói : - Có một bé trai có năm chiếc bánh và hai con cá, nhưng bằng ấy th́ thấm vào đâu đối với ngần này người (Ga 6,8 -9). Và Ngài được thấy Chúa Giêsu tăng gấp số thực phẩm. Ở Gierusalem, Ngài c̣n cho Chúa biết rằng: lương dân đă xin với Philipphê cho được gặp Người. Ngài đă nghe loan báo các chân phúc, các dụ ngôn. Ngài đă có mặt trong bữa tiệc ly. Sau phục sinh, Ngài đă sung sướng gặp lại Thày chí thánh. Ngày lên trời, Ngài thấy Người tiến lên mây trời. Ngày hiện xuống, Ngài đón nhận Chúa Thánh Thần. Sau những tường thuật trên của Phúc âm, người ta không biết ǵ chắc chắn nữa về Anrê. Các bản văn không có thẩm quyền nói rằng: Ngài đă góp phần Phúc âm hóa dân chúng miền Bithynia, Bontê và Galitia. Ngài bị bắt bên bờ Bắc hải và kết thúc cuộc đời tại Achaia. Lửa đức ái rực cháy trong ḷng vị tông đồ. Người ta nói rằng: để cải hóa một tâm hồn, Ngài ăn chay 5 ngày. Đây là tục truyền kể lại cuộc tử đạo của thánh Anrê ở Taurida. Êgêa, tổng trấn tỉnh đó cho biết vị tông đồ có mặt ở Patras, thủ phủ của ông, ông liền vội vă tới nơi: kẻ ngoại lai này muốn phá hủy đền thờ các thần minh ư ? Nhưng Anrê không sợ ǵ Egêa. Ngài đă nắm vững được chân lư. Ngài nói :- Tôn thờ loài người chỉ là dị đoan điên khùng. Ong đă lănh quyền xét xử người ta, trước hết ông phải biết đến vị thẩm phán xét xử mọi người chúng ta ở trên trời và ông phải tôn kính ca ngợi Người. Êgêa vặn lại: - Vị thẩm phán anh nói là Chúa Giêsu mà lời ông ta thường giảng dạy đă làm cho ông ta phải chết trên thập giá chứ ǵ ? Vậy nếu anh không dâng hương tế thần, anh cũng sẽ phải chết trên thập giá như vậy. Không hề sợ sệt, Anrê như rạng rỡ v́ hạnh phúc : làm sao Ngài để mất danh dự được đóng đinh vào cùng một đau khổ giá như thày ḿnh được ? Khi bắt đầu những tra tấn đầu tiên, ḷng dũng cảm c̣n tăng thêm, Ngài nói với Êgêa: - Cực h́nh cuối cùng ông đe dọa sẽ được tiếp liền bằng vinh quang bất diệt. Khi thấy thập giá ḿnh sẽ phải chết trên đó, thánh nhân hớn hở chào kính mà người ta thích lập lại lời chào ấy: - Ôi thánh giá tốt lành, thánh giá bấy lâu mong chờ, thánh giá nhiệt t́nh yêu mến, hăy đưa ta tới thầy chí thánh là Đấng đă nhờ Người mà cứu chuộc Ta. Dịu dàng Anrê giang tay ra. Ngài bị cột bằng giây để cái chết tới chậm hơn. H́nh phạt sẽ kéo dài hai ngày và người ta c̣n nghe Ngài tiếp tục rao truyền đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Dân chúngvây quanh Ngài với niềm thán phục đă xin quan tổng trấn tháo giây cho Ngài. Họ nói: - Hăy trả con người thánh thiện cho chúng tôi. Đă hai ngày bị treo, Ngài không ngừng nói những lời tốt lành, đừng giết con người yêu quí của Thiên Chúa. Nhưng Anrê không muốn được trả về cuộc sống khốn cực trần gian này. Ngài cầu nguyện : Và những người tham dự thấy linh hồn vị tông đồ trong hào quang đă bay về với Chúa tạo thành và cứu chuộc của ḿnh. Tương truyền thánh Anrê đă bị cột vào thánh giá đă có từ thế kỷ XII và chỉ vào thế kỷ XIV... người ta mới tưởng tượng thánh giá đó h́nh chữ X. Dụng cụ cực h́nh ấy được mệnh danh là thánh giá thánh ANRÊ . |