Thần Học Đại Kết 1-4
Phần 1. Nhìn lại những cuộc Ly Khai
Chính Thống – Tin Lành
Lm Giuse Phan Tấn Thành op (1996)
Hằng năm, tuần lễ từ 18 đến 25 tháng 1 được dành để cầu nguyện cho các Kitô hữu được hợp nhất. Đây là một cơ hội thuận tiện để trình bày về thần học đại kết, đặc biệt là vì trong năm 1995 vừa qua, đã có vài biến cố đánh dấu những bước tiến của công cuộc đối thoại đại kết, trong số đó cần phải kể đến:
1) Đức Gioan Phaolô 2 đã ban hành thông điệp Ut Unum sint (ngày 25/5).
2) Trước đó, ngày 2/5, tông thư Orientale Lumen được ban hành nhân dịp kỷ niệm 100 năm đức Lêo XIII viết tông thư “Orientalium Dignitas”, khuyến khích việc tìm hiểu truyền thống của các Giáo hội Đông phương.
3) Đức thượng phụ Bartholomêo I, giáo chủ chính thống đã đến viếng thăm Đức Thánh Cha tại Vaticano (27-30/6).
4) Cuộc viếng thăm Tòa thánh của Mục sư Konrad Kaiser, Tổng thư ký Hội đồng thế giới các Giáo hội (6-10/4).
Trong bài hôm nay, chúng ta sẽ tìm hiểu những lý do gì đã gây ra sự chia rẽ giữa các Kitô hữu. Trong bài tới, chúng ta sẽ theo dõi những chặng đường tiến triển của phong trào đại kết. Kế đó, chúng ta sẽ nghiên cứu những văn kiện của Hội thánh công giáo bàn về đại kết từ công đồng Vaticano II đến nay. Sau cùng, dựa theo thông điệp “Ut unum sint”, chúng ta sẽ kiểm điểm những thành quả đã đạt được cũng như những gì còn phải làm để cho tất cả các tín hữu được nên một.
Ut unum sint : (để cho chúng nên một) đây là lời nguyện của Chúa Giêsu trong nhà tiệc ly mà chúng ta đọc thấy trong Phúc âm theo thánh Gioan (17,21). Khi thánh sử cầm bút ghi lại những lời ấy thì Hội thánh đã được thành lập hơn nửa thế kỷ, và đã chứng kiến nhiều mầm mống chia rẽ. Thí dụ đọc thư nhất của thánh Phaolô gửi Corintô (1,12), ta thấy trong giáo đoàn này đã nảy ra bốn phe. Qua dòng lịch sử, nạn bè phái không bao giờ vắng bóng, dưới đủ mọi hình thức: khi thì vì tham vọng quyền hành, có lúc vì bất đồng ý kiến về đạo lý hay về đường lối mục vụ.
Tuy nhiên, vết thương nặng nề hơn cả gây ra cho thân thể đức Kitô không phải là những xích mích chia rẽ giữa vài cá nhân mà là những sự ly khai của cả từng cộng đoàn to lớn, đến nỗi ra như họp thành một Giáo hội khác nếu chưa dám nói là một tôn giáo khác. Thường thì lịch sử nói đến hai cuộc ly khai lớn trong lịch sử: (1) cuộc ly khai Đông phương (giữa Rôma và Constantinôpôli) vào giữa thế kỷ thứ 11, và (2) cuộc ly khai Tây phương (giữa Công giáo với Tin lành) vào thế kỷ thứ 16. Tuy thực tế không hoàn toàn đúng như vậy, nhưng chúng ta tạm dùng đó làm hai cái mốc để phân tích những cuộc ly khai trong lịch sử Giáo hội.
I. Sự ly khai Đông phương
Trước đây, khi trình bày lịch sử các công đồng, chúng tôi đã lưu ý là các Giáo hội chính thống chỉ nhìn nhận 7 công đồng đầu tiên, gọi là những công đồng của Hội thánh bất phân ly ! Nhưng đó chỉ là một hình ảnh lý tưởng. Sự thực thì ra như cứ mỗi công đồng bế mạc thời lại nảy ra một nhóm ly khai.
Thực vậy, chúng ta biết rằng công đồng đầu tiên, Nixêa I được triệu tập năm 325 để chống lại lạc giáo Ariô. Lạc giáo này đã lôi cuốn rất nhiều giám mục và dầu bị công đồng Constantinôpôli I năm 381 lên án lần nữa, nhưng không những họ vẫn sống sót mà còn đi truyền giáo cho các dân Gothô.
Tuy nhiên, những sự rạn nứt lớn hơn trong Giáo hội xảy ra kể từ công đồng Ephêsô năm 431. Một số giáo hội bên Siria và Calđêa theo Nestôriô không chấp nhận công đồng, đã tách thành nhóm riêng (quen gọi là “assiriano”,nay còn độ hơn 1 trăm ngàn người sống tại Iran, Irak). Nên biết là họ đã đi giảng đạo bên Trung quốc vào năm 635 (Sizanfu?).
Hai mươi năm sau đó, vì không chấp nhận công đồng Calxêđônia (451), đến lượt các giáo hội bên Ai cập (coptô), Etiôpia và Armênia ly khai, họp thành các giáo hội “monophysit” (đức Kitô chỉ có một bản tính). Ngày nay, các giáo hội này chỉ còn là một thiểu số khiêm nhường giữa vùng lãnh thổ Hồi giáo ở Trung đông. Tuy nhiên, các sử gia cho rằng nguyên nhân của các cuộc ly khai không thuộc lãnh vực đức tin cho bằng vì những động lực văn hóa chính trị. Về văn hóa: ngôn ngữ thần học hồi đó chưa được chỉnh lắm khiến cho các bản dịch không thiếu lần đã gây ngộ nhận. Về chính trị: Ai cập, Siria, Calđêa, Armênia là những trung tâm văn hóa và đế quốc từ lâu đời; vì thế họ không chịu khuất phục hoàng triều ở Constantinôpôli chỉ chú trọng văn hóa Hy lạp. (Ngày nay các giáo đoàn này mệnh danh là “siro-orthodox”, bành trướng sang tận Ấn độ: malankar).
Sau những cuộc ly khai của phái Nestôriô và Nhất tính, những giáo hội nào chấp nhận giáo lý của công đồng Calxêđônia tự nhận là “chính thống” (giáo lý chân chính. Theo gốc hy lạp, orthodoxia gồm bởi “orthos”: chân chính, trung thực; và “doxa”: phụng tự, ý kiến). Trên thực tế, thì vào cuối thiên niên thứ nhất chỉ còn có hai tòa thượng phụ chính thống: Constantinôpôli và Rôma, bởi vì các tòa khác (Alexanđria, Antiôkia, Armênia, Calđêa) thì hoặc đã lạc đạo hay là đã rơi vào tay của Hồi giáo rồi.
Những lý do đưa đến sự tuyệt thông giữa Constantinôpôli và Rôma vào năm 1054 thì nhiều và phức tạp. Đừng kể sự khác biệt về ngôn ngữ và văn hóa (latinh, hy lạp), còn có sự cạnh tranh về quyền thế (nhất là kể từ khi Constantinôpôli được chọn làm thủ đô mới của đế quốc, đang khi mà Rôma cũ dần dần bị rơi vào tay man di). Thêm vào đó là những quan niệm Giáo hội học khác nhau về việc lãnh đạo Giáo hội: Rôma thì đề cao vai trò lãnh đạo của Giáo hoàng; còn Constantinôpôli đòi hỏi rằng những chuyện quan trọng phải được đem bàn ở công đồng, với sự thỏa thuận của tất cả các thượng phụ.
Thực ra, sau năm 1054, hai tòa Rôma và Constantinôpôli vẫn còn giữ liên lạc với nhau. Như chúng ta đã biết, các công đồng Lyon II và Firenze đã cố gắng tìm hợp nhất nhưng không thành. Đàng khác, Constantinôpôli đã rơi vào tay Hồi giáo từ năm 1453. Các giáo hội chính thống bành trướng ở các nước Đông Âu (Serbia, Bulgaria, Rumania..), đặc biệt là Cựu Liên sô cũ (Nga, Gerogia, Ukraina), với tòa thượng phụ Moscơva thường tranh chấp với tòa Constantinôpôli.
II. Sự ly khai Tây phương
Vào thời Trung cổ, Giáo hội công giáo đã có lúc có tới hai ba giáo hoàng. May thay, tình trạng đó không kéo dài lâu cho lắm (1378-1417). Từ thế kỷ 16 mới bắt đầu những sự ly khai lớn với sức tác dụng dây chuyền.
Chắc rằng Luther (1483-1546), nguyên là một linh mục dòng Augustinô, không hề có ý định thành lập một Giáo hội ly khai. Ông chỉ muốn đề ra một cuộc cải cách Giáo hội. Sự cải cách này không những chỉ nằm trong phạm vi kỷ luật nhưng còn đi vào những điểm căn bản của đức tin, tựa như khi chỉ chấp nhận Kinh thánh như là nguồn duy nhất của mạc khải (sola Scriptura), khi nhấn mạnh tới đạo lý về sự cứu rỗi duy nhờ đức tin (sola fides), khi đề cao sự siêu việt tuyệt đối của Thiên Chúa (soli Deo gloria); họ cũng đặt sự giảng thuyết và nghe Lời Chúa lên trên việc phụng tự bí tích. Nói chung thì phong trào do Luther xướng lên được gọi là Cải cách (Réforme; có nơi dịch là: cải lương, cảnh giáo, tân giáo). Họ cũng được mệnh danh là Protestant.
Trước đây, danh từ này được dịch là “thệ phản”, với nghĩa xấu là những người đã phản bội lời thề. Sự thực không phải như vậy: nguyên gốc của nó có nghĩa là “phản đối” (hay: phản kháng), được áp dụng cho những ông hoàng theo phe Luther phản đối những quyết nghị của quốc hội họp ở Speyer năm 1529. Hội nghị này với đa số theo công giáo đã biểu quyết rằng những ai theo Luther thì phải rút ra khỏi các vùng do những ông hoàng công giáo kiểm soát. (Như vậy có nghĩa là người dân phải theo đạo của ông lãnh chúa). Vì muốn bảo vệ tự do của lương tâm mỗi người, 6 ông hoàng và 14 thành phố phản đối quyết định đó, chấm dứt tình trạng sống chung giữa đôi bên. Từ đó, những ai trung thành với Rôma thì gọi là Công giáo (Catholique. Nguyên ngữ hy lạp có nghĩa là: phổ quát, bao gồm tất cả); đối lại là nhóm Cải cách. Thế rồi, dần dần phe Cải cách, do những lý do khác nhau, lại bị phân tách ra các ngành biệt lập. Ta có thể phân biệt ra ba ngành chính sau đây: Luther, Calvinô, Anh giáo.
1) Những người theo Luther, đa số bên Đức, họp thành các Giáo hội Tin lành évangelist vì muốn trở về với Tin mừng nguyên tuyền. Thế nhưng các “Hội thánh Tin lành” ở Việt nam thì chỉ có họ hàng rất xa xôi với các giáo hội Luther. Nguồn gốc gần hơn của các nhóm Tin lành Việt nam là các phong trào evangelicals phát xuất từ bên Anh hồi thế kỷ 19 như sẽ nói sau. (Hiện nay các giáo đoàn theo Luther trên thế giới họp thành: “Lutheran World Federation”). Ở Việt Nam, tiếng “Tin lành” có thể gây hiểu lầm. Theo nguyên ngữ, tiếng “Evangelium” có thể dịch là: Phúc âm, Tin mừng, Tin vui hay Tin lành.
2) Những nhóm người theo Ulrich Zwingli (1484-1531) và Jean Calvin (1509-1564) thì đội tên là Giáo hội Cải cách (Eglise Réformée); sang bên Anh và Hoa kỳ thì họ mang tên là Giáo hội trưởng lão (Presbyterians). Danh từ này ám chỉ cơ chế đặc biệt đó là mỗi cộng đoàn được cai quản do hội đồng các “presbyter” (:nguyên lão, kỳ mục. Từ ngữ này lấy từ Tân ước, theo Tđcv 14,23) do dân bầu. (Ngày nay họ họp nhau thành: “World Alliance of Reformed Churches”).
3) Nhóm thứ ba là Anh giáo. Tuy ra đời vào thời Cải cách, nhưng họ không chấp nhận các đạo lý của Luther. Sự ly khai khỏi Rôma bắt đầu từ việc Tòa thánh không chấp nhận cho vua Henry VIII (1509-47) ly dị. Nhà vua tuyên bố mình là giáo chủ của Giáo hội bên Anh (supreme head of the Church of England). Lúc đầu sự ly khai chỉ có tính cách chính trị, nhưng dần dần cũng mang thêm tính cách đạo lý khi du nhập các tư tưởng của Luther và Calvinô. Thực ra gọi là “Anh giáo” thì không đúng, bởi vì đây không phải là một tôn giáo riêng biệt. Tên gọi chính thức là Giáo hội Anh quốc (Church of England) và từ khi được bành trướng qua các nước thuộc địa, họ mang danh là “Sự thông hiệp Anh” (Anglican Communion”; bên Mỹ, họ được gọi là “Episcopalians”). Nội bộ của họ gồm có ba khuynh hướng: a) Low Church (giáo hội thấp), khuynh hướng theo nhóm Cải cách; b) High Church (giáo hội cao), gần gũi với Công giáo; c) Broad Church (Giáo hội rộng), khuynh hướng rất tự do.
Chính nhờ sự đa dạng đó, mà Giáo hội Anh quốc đã nhiều lần muốn đứng ra bắt cầu môi giới giữa Công giáo và Cải cách. Nhưng cũng cần phải thêm rằng cũng vì sự đa dạng đó mà đã nảy ra bao nhiêu phe phái khác, nhất là tại Hoa kỳ, cựu thuộc địa của Anh. Chúng ta có thể kể:
– Methodists. Tên này được đặt ra để chế nhạo cái “method” mà họ dùng khi cầu nguyện và học Kinh thánh, khởi đầu do hai anh em John Wesley (1703-91) và Charles Wesley (1707-88). Từ nhóm Methodist tách ra Đạo quân cứu rỗi (Salvation Army) năm 1865.
– Baptists : họ chủ trương chỉ rửa tội cho người lớn bằng việc dìm mình. Từ nhóm này tách ra nhóm Cơ đốc Phục lâm (Adventists) năm 1844 (E.G. White), những người chờ đức Kitô quang lâm vào ngày thứ 7 (Seventh-Day Adventists; Sabbatists).
– Evangelicals. Một từ rất rộng, bao gồm rất nhiều phái. Nói chung, các tín điều của họ rất đơn giản; về cơ cấu tổ chức cũng vậy. Xem ra một đặc tính chung của họ là giải thích Kinh thánh theo nghĩa đen (cứ chữ, không đếm xỉa tới khung cảnh lịch sử văn chương) và họ không tham gia các phong trào đại kết. Như đã nói trên, các nhóm Tin lành được truyền sang Việt Nam thuộc ngành này chứ không phải thuộc giáo hội Luther. (Hội thánh Tin lành Việt Nam là chi nhánh của “The Christian and Missionary Alliance” do A.B. Simpson khởi xướng năm 1887).