Như thời tiết được chia làm bốn mùa Xuân-Hạ-Thu-Đông. Lịch Phụng vụ Công Giáo cũng được chia từng mùa. Từng mùa đó lần lượt là: Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh. Mùa Chay và Mùa Phục Sinh. Cuối cùng là Mùa Thường Niên.
Nếu mùa Xuân được biết đến như là mùa khởi đầu cho một năm mới, thì mùa Vọng cũng là mùa đầu tiên theo lịch phụng vụ. Nếu mùa Xuân được gọi là mùa của những lời chúc phúc và tri ân, thì mùa Vọng được gọi là mùa của hy vọng và trông mong.
Hy vọng và trông mong điều gì? Thưa, hy vọng và trông mong Đức Giê-su “sẽ lại đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết.” Đó… đó là điều chúng ta cùng tuyên xưng vào mỗi ngày Chúa Nhật, rằng : “Người chịu đóng đinh vào thập giá vì chúng ta, thời quan Phongxiô Philatô. Người chịu khổ hình và mai táng, ngày thứ ba Người sống lại như lời Thánh Kinh. Người lên trời, ngự bên hữu Ðức Chúa Cha, và Người sẽ lại đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết.” Đây không phải là lời tuyên xưng mơ hồ, nhưng là lời tuyên xưng do các thánh tông đồ truyền dạy.
Thật vậy, khi còn tại thế, Đức Giêsu đã tâm tình cùng các môn đệ trong bữa tiệc ly rằng: “Ít lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy… Bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng, và niềm vui của anh em, không ai lấy mất được.” (Ga 16, 16…22).
Củng cố cho lời tâm tình của Đức Giê-su là lời của “hai người đàn ông mặc áo trắng”, hai vị này đã tuyên bố với các môn đệ, vào hôm Ngài “thăng thiên”, rằng: “Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (x.Cv 1, 11)
“Thầy sẽ gặp lại anh em” – “(Người) sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời”. Đó chính là điều các môn đệ được nghe đến. Và, đó là lý do đã làm cho các môn đệ không khỏi ưu tư. Chính nỗi ưu tư này đã thôi thúc các môn đệ hỏi Đức Giê-su cho ra lẽ.
Hôm ấy, khi Đức Giê-su “ngồi trên núi Oliu, các môn đệ (đã) tới gặp riêng Người và thưa: Xin Thầy nói cho chúng con biết khi nào những sự việc ấy sẽ xảy ra, và cứ điềm nào mà biết ngày Thầy quang lâm và ngày tận thế” (x.Mt 24, 3)
“Ngày Thầy quang lâm ư!” Vâng, đây là một điều bí mật, Đức Giê-su đã nói như thế với các môn đệ của mình. Ngài đã nói rằng : “Còn về ngày và giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay cả người Con cũng không; chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi.” (Mt 24, 36)
Không ai biết được. Nhưng điều cần biết, Đức Giê-su đã cho mọi người biết, rằng: “Quả thế, thời ông Nô-ê thế nào thì ngày con Người quang lâm cũng sẽ như vậy.”
Có thể nói đây là một lời nhắc nhở. Và, Đức Giê-su đã nhắc nhở tiếp rằng: “Trong những ngày trước nạn hồng thủy, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. Bấy giờ hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại; hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại.” (x.Mt 24, 38-41)
Sợ không! Thưa quý ông bà và anh chị em! Vâng rất đáng sợ. Và, đó là lý do chúng ta tìm về câu chuyện nói về ông Nô-ê, thời Cựu Ước.
Kinh Thánh Cựu Ước có ghi lại rằng: Trước “Sự gian ác của con người trên mặt đất, và lòng nó chỉ toan tính những ý định xấu suốt ngày. “Đức Chúa hối hận vì đã làm ra con người trên mặt đất và Người buồn rầu trong lòng.” Đức Chúa phán: ‘Ta sẽ xóa bỏ khỏi mặt đất con người mà Ta đã sáng tạo, từ con người cho đến gia súc, giống vật và chim trời, vì Ta hối hận đã làm ra chúng’. Nhưng ông Nô-ê được đẹp lòng Đức Chúa” (St 6, 5-9)
Ông Nô-ê, theo lời Kinh Thánh ghi lại: “là người công chính, hoàn hảo giữa những người đồng thời, và ông đi với Thiên Chúa”. Chính vì thế, Đức Chúa không chỉ cho ông biết “giờ tận số của mọi xác phàm” mà còn nói với ông “Hãy làm cho mình một chiếc tàu… Phần Ta, Ta sắp hồng thủy, nghĩa là nước lụt, xuống tràn trên đất, để tiêu diệt mọi xác phàm có sinh khí dưới gầm trời, mọi l;oài trên mặt đất sẽ tắt thở. Nhưng Ta sẽ lập giao ước của Ta với ngươi; người hãy vào tàu, người cùng các con trai ngươi, vợ ngươi và vợ của các con trai ngươi.”
Ông Nô-ê đã thực hiện đúng lời Đức Chúa truyền. Nhờ đó, ông và gia đình ông đã được an toàn khi Đức Chúa “đổ mưa xuống đất trong vòng bốn mươi ngày, bốn mươi đêm.”
Mưa suốt bốn mươi ngày, bốn mươi đêm. Chuyện ghi lại rằng: “Mọi loài trên mặt đất, từ con người đến gia súc, giống vật bò dưới đất và chim trời chúng bị xóa khỏi mặt đất, chỉ còn lại ông Nô-ê và những gì ở trong tàu với ông.” (St 7, 23).
Chuyện ông Nô-ê là thế. Và, chuyện ngày nay cũng chẳng khác gì chuyện xưa. Cũng vẫn là ăn chơi hưởng thụ. Cái chết của 151 người thiệt mạng và hơn 150 người bị thương ở khu vực Itaewon của thủ đô Seoul, Hàn Quốc vì bị giẫm đạp khi đến dự lễ hội hóa trang Halloween phải chăng cũng là một lời cảnh báo của Đức Chúa Trời?
Vâng, Đức Giê-su, vào hồi ấy, cũng đã tha thiết nhắc nhở, rằng: “Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến”. Lời nhắc nhở quả là rất thực tế như thực tế giữa đời thường.
Rất… rất thực tế khi Ngài cất tiếng nói: “Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông ta đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu.” Cuối cùng một lời khuyến cáo được Đức Giê-su đưa ra: “Cho nên, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24, 44)
“Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến.” Đức Giê-su đã tuyên bố như thế đấy. Thế nên, đừng có bày đặt tự phong cho mình là nhà tiên tri, tiên báo vớ va vớ vẫn về ngày Đức Giê-su quang lâm.
Một thống kê cho biết, trong phạm vi thế kỷ 20 vừa qua, một số nhà tiên tri, của một vài giáo phái đã tiên báo “ngày Giê-su Christ quang lâm” đến năm lần. Rầm rộ nhất là lời tiên báo của cụ Harold Camping.
Cụ Harold Camping loan tin qua hệ thống 65 đài phát thanh, bằng 81 ngôn ngữ, và qua hệ thống Internet. Không dừng ở đó, ông ta còn tung ra mấy triệu Mỹ kim để đặt các bảng Billboards, tổ chức quảng cáo trên xe bus, và bằng những đoàn người mặc áo T-Shirt có dòng chữ “Judgment-Day May 21, 2011” hoặc chữ “RAPTURE May 21, 2011”. (trích nguồn: internet). Hơn mười năm đã trôi qua, Đức Giê-su Christ của cụ sao vẫn chưa tái lâm, thế này là thế nào!
Nhắc lại chuyện cụ Harold Camping để làm gì? Thưa, để xem đó như một lời cảnh báo, một lời cảnh báo mà xưa kia Đức Giê-su đã cảnh báo, rằng: “Anh em hãy coi chừng đừng để ai lừa gạt anh em, vì sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến nói rằng: ‘Chính Ta đây là Đấng Ki-tô’ và họ sẽ lừa gạt được nhiều người.” (x.Mt 24, 4-5)
Rất… rất nhiều người (đã và đang) mạo danh Chúa và họ đã lừa gạt được nhiều người. Rất nhiều người mạo danh Chúa “trừ quỷ”. Và, điều này đã làm cho quý hàng giáo phẩm đau đầu vì sự cứng đầu của họ.
Thôi! quên đi những “ông thần nước mặn” ấy đi. Và, hãy nhớ lời thánh Phao-lô khuyên nhủ: “Thưa anh em, về ngày giờ và thời kỳ Chúa đến, anh em không cần ai viết cho anh em. Vì chính anh em biết rõ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm”.
Đây! Hãy nghe lời khuyên của thánh Phao-lô, có khác gì lời khuyên của Đức Giêsu, năm xưa: “Chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ” (1Tx 5, …6)
Với các tín hữu ở Roma, thánh nhân có lời cảnh báo mạnh mẽ hơn, cảnh báo rằng: “Anh em biết, chúng ta đang sống trong thời nào. Đã đến lúc anh em phải thức dậy, vì hiện nay ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia, khi chúng ta mới tin đạo” (Rm 13, 11)
Vâng, “phải canh thức và sẵn sàng”. Đừng mê mải ăn chơi trác táng, như những người thế gian. Đừng mê mải kiếm tìm tiền tài, danh vọng, quyền lực. Bởi vì tiền tài, danh vọng, quyền lực chính là nguyên nhân làm cho chúng ta sẽ phải đối diện với những cơn-hồng-thủy, cơn hồng thủy ghen tỵ, bè phái, hận thù, bất hòa, tranh chấp v.v… Và, điều tất yếu, sẽ xảy ra, đó là “chết chóc”… chết chóc sẽ là “con đường tình ta đi”.
Đừng mê mải tìm kiếm những gì thuộc về thế gian. Bởi vì “phù vân chỉ là phù vân. Tất cả chỉ là phú vân.” Bởi vì “Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào ích gì.”
Phải canh thức và sẵn sàng. Bởi vì đó là lời Đức Giê-su khuyến cáo. Bởi vì việc canh thức và sẵn sàng nói lên rằng, chúng ta luôn trông cậy vào Chúa.
Đức cậy… đức cậy phải là nhân đức được chúng ta phát huy trong mùa vọng. Bởi vì, mùa vọng, không chỉ là việc chúng ta “nhìn lại quá khứ”, một quá khứ “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”, nhưng còn hướng về tương lại, trông chờ một tương lai “Đức Ki-tô sẽ đến lần thứ hai.” với niềm trông cậy hồng phúc ngày trọng đại ấy: “Theo lời Thiên Chúa hứa, chúng ta mong đợi trời mới đất mói, nơi công lý ngự trị.”(2Pr 3, 13)
Thánh Phê-rô đã nói lên niềm trông cậy của ngài. Còn chúng ta? Chắc cũng phải nói như ngài Phê-rô, nhỉ! Chắc phải là vậy thôi. Phải vậy thôi. Vì, đức cậy phải là nhân đức gắn liền với đức tin và đức mến.
Trở lại với câu hỏi của các môn đệ: “Xin Thầy nói cho chúng con biết khi nào những sự việc ấy sẽ xảy ra, và cứ điềm nào mà biết ngày Thầy quang lâm và ngày tận thế” Vâng, Đức Giê-su đã công bố rồi. Thánh Phao-lô, thánh Phê-rô cũng đã có lời dạy dỗ. Mọi điều Đức Giê-su nói đang diễn tiến từng ngày. Từng ngày cho mỗi chúng ta. Mỗi chúng sẽ phải trình diện trước Đức Giê-su trong ngày Ngài quang lâm. Thật ra, có khi chưa đến ngày quang lâm, chúng ta đã phải trình diện rồi. Đó là cái chết của mỗi chúng ta.
Thế nên, vấn đề quan trọng không phải là cần biết ngày nào giờ nào Đức Giê-su đến thế gian lần thứ hai. Điều quan trọng đó là hãy tin vào lời Ngài. Hãy nhớ, Đức Giê-su từng tuyên bố: ‘Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu.” (Lc 21, 33)
Sẽ-chẳng-qua-đâu. Vâng, chúng ta hãy ghi khắc lời khuyến cáo này vào tâm hồn mình. Và, đừng quên, ngay hôm nay, bây giờ, chúng ta hãy tuân lệnh truyền của Thầy Giê-su. Đó là: hãy canh thức, hãy sẵn sàng. Canh thức và sẵn sàng trong đức cậy.
Petrus.tran