Thánh Gioan Masias
Vào ngày 18.09.2013, dòng Đa Minh sẽ mừng kính thánh Gioan Masias. Nhân dịp này, Ban Truyền Thông Giáo Xứ xin giới thiệu tập truyện “Thánh Gioan Masias” của tác giả Mary Fabyan Windeatt do Sr. Teresa Thơm Nguyễn chuyển ngữ đã được Nhà Xuất Bản “TAN PUBLISHER” cho phép dịch sang tiếng Việt Nam ngày 02 tháng 07 năm 1998.
Bản dịch do Hội Dòng Đa Minh Tam Hiệp giữ bản quyền.
*.*
Nội dung
Chương IV: Hành trình về hướng Tây
Chương V: Thành phố của các vua chúa
Chương VI: Người con của Thánh Đa Minh
Chương VII: Người giữ cửa tu viện
Chương VIII: Các vị thánh của Mỹ Châu
Chương IX: Người bạn cần được giúp đỡ
Chương X: Các bạn mới của Thầy Gioan
Chương XI: Cánh cửa mở đón niềm vui
Chương XII: Thầy Gioan an nghỉ
Chương XIII: Từ biệt tu viện Madalêna
Chương XIV: Vị anh hùng Mỹ Châu
*.*
Chương V: Thành phố của vua chúa
Cuộc thị kiến kéo dài bao lâu, Gioan chẳng biết rõ. Điều chàng nhận ra là mình đang ở tại Cartagena một mình, và hiểu được ý Chúa muốn mình làm gì. Do đó, chàng đi về hướng Đông tìm tới hải cảng Barranquilla (trên dòng sông Magdalena). Ở đó, chàng lại xin chỉ dẫn.
Trên đường đi, chàng hoảng sợ vì càng đi vào miền quê, càng thấy hoang vu hơn. Cây cối rậm rạp quá sức khiến chàng nghĩ tới các thú dữ và rắn độc, chàng vội cầu nguyện: “Lạy Thánh Gioan, ngài phải giúp con chứ! Con lo lắng lắm và đường trường đầy nguy hiểm. Tại sao con lại phải đi về hướng Đông thay vì đi về hướng Tây, bởi vì Peru không ở hướng này.”
Lần nữa, Chúa thử đức tin của Gioan. Nhưng chẳng bao lâu, chàng hiểu được lý do đó. Vì khi tới Barranquilla, chàng gặp một nhóm người mạo hiểm đang định chèo thuyền trên dòng sông Magdalena để đi vào đất liền. Họ cho rằng bằng cách này họ sẽ tới miền Nam Mỹ nhanh chóng và đỡ nguy hiểm vì các thú dữ. Họ hỏi chàng: “Gioan, sao không cùng đi với chúng tôi. Chúng tôi cần thêm người trai tráng như anh.”
Chàng trả lời: “Nhưng thưa các ông, tôi chẳng có đồng xu nào hết.”
Họ cười: “Anh sẽ kiếm ra tiền trên đường đi. Hãy nhìn chiếc thuyền của chúng tôi kìa. Anh có thể giúp chèo thuyền chứ ?”
Chàng nhận lời và nhập bọn. Chàng khám phá ra rằng nhóm người này đi tìm vàng ở dãy núi Andes. Vì thế họ muốn tới Bogota, một thành phố nằm trên núi cao, ước mơ sẽ trở nên giàu có sau một đêm thôi. Ước mơ chàng thì khác hẳn, nhưng vẫn im lặng vì không muốn tranh cãi gì về ý kiến này. Điều tốt để đi theo nhóm là nếu có gặp người bản xứ dữ tợn, núp ở các bụi cây tấn công, thì hy vọng còn sống sót.
Vài ngày qua, chiếc thuyền lướt đi bình an. Các người đồng hành ngạc nhiên vì cách cư xử của Gioan. Họ chưa thấy một thanh niên nào lần chuỗi ngày ba lần như chàng. Thêm vào đó, chàng tin vào Thiên Chúa như một người Cha và phó dâng tất cả cho Cha trên trời mọi sự, hiện tại và tương lai. Họ tự hỏi không biết Gioan có thực sự là một người trưởng thành 34 tuổi không ?
Sau cùng họ nhận ra chàng là một người phi thường. Một người nói: “Thật lạ, xem ra lời cầu nguyện của anh ta thật giá trị. Chúng ta chẳng gặp sự phiền toái nào với người Da Đỏ cả.” Người khác nói tiếp: “Và chúng ta cũng chẳng thiếu thực phẩm.” Người khác nói thêm: “Hy vọng anh ấy sẽ đổi ý và ở lại với chúng ta khi tới Bogota. Chúng ta sẽ tìm được vô số vàng nhờ lời cầu nguyện của anh ấy.”
Tuy nhiên, Gioan chỉ mong ước tới được Peru thôi, càng sớm càng tốt. Khi nhóm người tới Bogota, Gioan từ giã họ và tiếp tục hành trình riêng của mình.
Đúng như đã tiên báo, Gioan được bảo vệ cách tuyệt vời. Có ngày chàng leo lên tới đỉnh núi tuyết. Hôm sau chàng băng qua phía Bắc dãy núi Andes, nơi đó có rải rác các nhà cửa của người Da Đỏ đang cư ngụ. Tuy nhiên, họ không hại chàng. Gioan đã có thể làm bạn với họ và nói với họ về Thiên Chúa. Việc này không dễ dàng, vì chàng chẳng biết gì ngôn ngữ của họ. Tuy thế, họ đã học làm Dấu Thánh Giá. Để tỏ lòng biết ơn chàng, họ biếu chàng thực phẩm, chỉ bảo chàng tránh các cây cối độc, và hơn nữa còn biếu chàng một con la để cưỡi. Một ngày nọ, khi chàng nhìn quanh vùng, họ chỉ cho chàng một thành phố ở hướng Tây nam: “Quito” nằm giữa đường xích đạo. Vị trí nó cao trên mặt nước biển hơn 10.000 feet và là mốc đường đi tới Peru. Với ơn Chúa chàng sẽ tới đó, nghỉ ngơi rồi tiếp tục.
Một tháng sau, khi chàng cưỡi con la xuống núi trên một con đường ngoằn nghèo, đôi mắt chàng gặp một quang cảnh tuyệt vời. Trước mặt chàng là mặt nước biển bao la. Đúng là bờ biển Thái Bình Dương, chàng kêu lên: “Tạ ơn Chúa.” Rồi lập tức chàng nhảy xuống con la, quỳ gối tạ ơn Chúa. Khoảng nửa giờ sau, chàng nhìn lên và thấy một cậu bé da đỏ đang đi về phía mình. Nó khoảng 10 tuổi và ăn mặc rách rưới.
Chàng mỉm cười đứng dậy: “Chào cậu bé! Cậu tên là gì ?”
Đứa bé cau mày. Một lát sau xem như nó muốn bỏ chạy, sợ hãi vì người lạ. Thấy thế, Gioan mở rộng đôi cánh tay: “Đừng sợ, tôi không làm hại em đâu.”
Vài phút sau, đôi mắt đen láy của đứa bé vẫn như còn ngờ vực. Gioan thoáng nghĩ chắc nó không hiểu ngôn ngữ chàng. Nhưng rồi bất chợt đứa bé thốt lên :
“Cháu là Micae ! Cháu đói lắm.”
Gioan cười: “Em đói hả, được! chú có ít đồ ăn ở túi, nho và trái vải khô. Em có thích không ?” Đứa bé gật đầu và xoè đôi bàn tay xương xẩu ra. Cái đói đã đánh tan cái sợ. Phút chốc Micae trở nên thân thiện và nó kể cho Gioan biết về mình. Nó là đứa bé mồ côi, mẹ chết khi nó vừa mới sinh ra. Còn cha thì chết vì làm việc cực nhọc ở mỏ bạc. Nó kiếm sống bằng cách đi ăn xin ở đường phố Lima.
Gioan kêu lên: “Lima! Thành phố đó có xa đây lắm không ?”
Đứa bé gật đầu: “Khoảng 10 dặm. Nếu chú cứ theo đường này sẽ tới nơi.” Gioan đề nghị : “Cháu có thể đi với chú không?”
Hiển nhiên đứa bé này không muốn rời xa cậu. Nó không còn sợ sệt, xem ra như biết ơn chàng. Chàng nói: “Micae, cháu cưỡi con la đi, và nói thêm về cuộc sống của cháu.”
Chiều muộn, cả Gioan và cậu bé dẫn đường tới Lima. Thành phố được thiết lập vào Lễ Hiển Linh năm 1535, vì thế nó có biệt danh: “Thành phố của các ông Vua” để nhớ ba nhà hiền triết đã đến yết kiến và dâng tặng phẩm cho Hài nhi Giêsu.
Lúc này Micae dẫn Gioan tới một ngôi nhà thờ gần nhất, đó là St. Lazaro. Nó chỉ là một ngôi nhà nghèo hèn, xây ở cạnh thành phố. Sau khi đã dâng lời kinh tiếng ca tạ ơn Thiên Chúa, chàng đi quan sát vùng lân cận. Rất tiếc, chàng thấy lời cậu Micae nói là đúng. Nghèo đói diễn ra mọi ngóc ngách cuộc sống của con người ở Lima. Một số người da đỏ và da đen sống chen chúc trong các vùng chật chội. Họ giống hệt bộ xương cách trí, dơ bẩn và bệnh tật. Gioan muốn ở lại và làm quen với họ, nhưng cậu bé Micae kéo áo chàng lôi đi: “Có một số người mắc bệnh cùi. Cháu không muốn đưa chú tới vùng này, nhưng vì chú nói là muốn thăm viếng nhà thờ gần nhất. Bây giờ thì mình phải đi tiếp, đừng ngừng lại.” Chàng lưỡng lự khi phải bỏ đi. Con lừa vâng lệnh đi theo và chỉ vài phút sau, họ đã ra khỏi vùng hôi hám ở San Lazaro rồi. Cái cầu đá bắc ngang sông Rimac đã hiện ra, nối vùng Lima với vùng đất mới. Trên cầu, người ta chen chúc nhau qua lại, vì có một cái chợ lớn ở đó. Thịt thà, rau cỏ, trái cây chất đầy chợ. Micae nói: “Chắc là cháu sẽ tìm được một công việc cho chú.” Và cậu bé chỉ vào một quầy hàng gần đó: “Xem kìa, một người đàn ông to lớn đang mỉm cười với chúng ta, ông ấy ở hàng thịt đó”. Gioan hỏi: “Ai vậy ?” Cậu bé đáp: “Đó là một người bạn của cháu, Peter Menacho. Ông ta có một trại chăn nuôi súc vật ngoài thành phố. Mỗi tuần ông tới đây hai lần để bán thịt tươi. Ông rất tốt với cháu, chắc là có thể ông ấy giúp chú nữa !”
Cả hai luồn qua đám đông tới quầy thịt. Gioan rất bỡ ngỡ khi nghe người ta nói các thứ tiếng mọi chỗ, các tiền bạc được trao chuyền cho nhau. Chỗ nào cũng mùi thịt thà, trái cây, và nhiều món ăn lạ được nấu nướng ngoài trời. Quang cảnh muôn sắc, nhưng không phải là thiếu thảm cảnh. Người ăn xin cũng khắp nơi, ngửa tay xin làm phúc.
Gioan muốn ngừng lại để an ủi những người xin ăn, nhưng Micae nắm lấy cánh tay chàng thúc giục: “Đừng quan tâm đến họ nữa. Quá nhiều người không thể giúp được. Ngoài ra, chúng ta sẽ không thể kiếm được việc trước khi trời tối.” Gioan mỉm cười trước thái độ lo lắng bận rộn của cậu bé, chàng nói: “Tìm việc trước khi trời tối hả ? Nhưng đâu có chi vội vã, Micae. Tôi không cần tìm việc bây giờ.” Cậu bé sửng sốt: “Chú không phải là người nghèo sao ? Chú không cần một nơi để ngủ tối chăng ?”
Chàng trả lời: “Đúng, nhưng tôi sẽ tìm việc vào lúc khác. Bây giờ tôi phải đi gặp các cha Đa Minh trước đã. Có lẽ họ sẽ có việc cho tôi ở tu viện.”
Micae lắc đầu: “Thôi đi nào, chú có thể kiếm được nhiều tiền ở trại chăn nuôi của ông bạn cháu.”