Đức tin Công Giáo dạy chúng ta tuân giữ “Mười điều răn của Đức Chúa Trời”, cũng như tuân giữ “Sáu điều răn Hội Thánh”. Và, đức tin Công Giáo còn kêu gọi chúng ta phải biết “thương người” với mười bốn lời truyền dạy, những lời truyền dạy quan được gọi là “thương người có mười bốn mối”.
“Thương người có mười bốn mối” không phải là những điều vớ vẩn tự Giáo Hội đặt ra, nhưng là dựa vào những lời truyền dạy của Đức Giê-su, khi xưa. Thật vậy, trong phần “thương linh hồn bảy mối”, chúng ta được dạy rằng: “Thứ năm: tha kẻ dể ta. Thứ sáu: nhịn kẻ mất lòng ta”.
“Tha và nhịn”, hiểu một cách sâu sắc, đó chính là chúng ta thực thi lời dạy của Đức Giê-su: “Chớ trả thù – Phải yêu kẻ thù”.
Khi nói tới việc “Chớ trả thù – Phải yêu kẻ thù”. Vâng, có thể nói rằng, đó là những lời truyền dạy quá mới mẻ cũng như quá khó để thực hiện, đối với người đời, xưa cũng như nay.
Giả sử có ai đó phun vào mặt ta vài câu “tiếng Đức”, cứ sự thường, ta sẽ “trả đũa” bằng một loạt tiếng “Đan Mạch”, đúng không? Có ai đó xúc phạm, gây tổn thương, hoặc có vài cử chỉ khiếm nhã, khiến ta nổi giận, 99% ta sẽ tìm cách để trả đũa, trả thù, đúng không?
Con người, trải qua nhiều ngàn năm lịch sử, đã chứng kiến biết bao cuộc trả thù. Người ta có thể trả thù bằng cách tru di tam tộc, hay tru di cửu tộc, với ngày nay, đó là truy xét “lý lịch ba đời” v.v…
Sự trả thù còn ngấm sâu vào đời sống tôn giáo. Với Nho giáo, thì, “quân tử mười năm trả thù chưa muộn”. Với Do Thái giáo, khỏi chờ lâu, “mạng đền mạng”.
Thế nhưng, với Đức Giê-su, Ngài không hoan nghênh kiểu “ăn miếng trả miếng” như thế. Nếu người xưa dạy: “Mắt đền mắt, răng đền răng”, thì, Ngài truyền dạy: “Nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa”.
Trái với những lời dạy dỗ của người xưa có tính tiêu cực, những lời giáo huấn của Đức Giêsu luôn mang tính tích cực, đầy tình yêu thương và lòng bao dung.
Luật xưa dạy rằng: “Chớ giết người, ai giết người thì đáng bị đưa ra tòa”. Với lời giáo huấn của Đức Giêsu, chỉ cần “giận anh em mình…” cũng đủ để đưa ra tòa rồi.
Nếu luật xưa dạy rằng: “Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù”. Thì, với Đức Giê-su, Ngài dạy rằng: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (x.Mt 5, 44)
Đức Giê-su còn có lời cảnh báo chí tình, rằng: “Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao?”
“Chớ trả thù (và) phải yêu kẻ thù”. Đó là lời Chúa truyền dạy. Vâng, đừng nghĩ rằng, khi thực thi lời truyền dạy này, chúng ta trở thành những kẻ nhát đảm, sợ hãi, yếu nhược. Trái lại, khi hoàn thiện lời khuyên này, chúng ta lại là những người can đảm, là những kẻ chiến thắng, trước hết, chiến thắng chính bản thân mình. Và sau là chiến thắng “thói đời”, nơi luôn tạo ra sự mua thù chuốc oán.
Bỏ qua sự thù oán, chúng ta đã thực hiện được đức ái, đúng như thánh Phaolô đã nói: “Đức ái thì nhẫn nhục… không nóng giận, không nuôi hận thù…” (1Cor 13, 4-7). Không nuôi hận thù, chính là chất xúc tác làm cho quên đi hận thù.
Mà, một khi quên đi hận thù, chắc hẳn rằng; chẳng ai còn cần thiết đến gặp kẻ thù để đòi cho được “mắt đền mắt, răng đền răng”, và cũng không còn cần thiết để đòi “mạng đền mạng”. Vâng, “giết người đi thì ta ở với ai”. Thế nên, cớ gì ta không vui mừng thực thi lời truyền dạy của Thầy Giê-su!
Lại có người cho rằng, thực thi lời truyền dạy này, không khác gì ta hoan nghinh tội ác mà kẻ thù đã gây ra, ta “phớt lờ” trước bất công do kẻ thù gây ra, ta khiếp nhược trước bạo lực của kẻ thù. Thưa không đúng. Hãy nhìn Đức Giê-su và bản lĩnh của Ngài, trước dinh thượng hội đồng, nơi Ngài bị quân dữ dẫn đến để hài tội.
Hôm đó, khi bị “một tên trong nhóm thuộc hạ đứng đó vả vào mặt Ngài”, Đức Giê-su đã không đưa tiếp má bên kia, như Ngài từng dạy bảo. Ngược lại, Ngài đã đáp trả lại bạo lực bằng một câu hỏi khiến cho cả thượng hội đồng phải câm lặng, câu hỏi rằng: “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi” (x.Ga 18, 23).
“Chớ trả thù (và) phải yêu kẻ thù”, thực thi lệnh truyền này cũng chính là ta chứng minh được “tình yêu, lòng bao dung và sự tha thứ” của mình. Vâng, khó thực hiện đấy. Nhưng, không phải là không thực hiện được. Chúng ta hãy nhìn vào các thánh, như là mẫu mực cho việc thực thi lời truyền dạy.
Thánh Maria Goretti, như một điển hình. Chuyện kể rằng: “khi cô 11 tuổi, người hàng xóm của cô, Alessandro Serenelli, trở nên ám ảnh tình dục đối với cô, và tiếp cận cô vài lần với đề nghị tình dục. Ngày 5/07/1902, Alessandro tấn công Maria và đe doạ cô bằng dao; khi cô không khuất phục và phản đối rằng ‘đó là tội lỗi’ và ‘Thiên Chúa không muốn điều này’, Serenelli đâm cô 14 nhát. Vào ngày hôm sau, sau khi bày tỏ sự tha thứ đối với kẻ giết mình, Goretti nói rằng, cô muốn anh ta cùng lên thiên đàng với cô, Maria Goretti chết vì thương tích”.
Nếu câu chuyện dừng ở đây thì không có gì đáng nói. Vâng, “Alessandro Serenelli bị tuyên phạt tù. Anh ta vẫn không ăn năn. Một đêm nọ, anh ta mơ thấy Maria đưa cho anh ta 14 đoá hoa huệ cho 14 lần cô bị đâm. Sau giấc mơ, anh ta trở nên hối hận sâu sắc. Sau khi ra khỏi tù, anh đến nhà mẹ của Maria, bà Assunta, và khẩn cầu cho sự tha thứ của bà. Bà đã tha thứ anh ta, và họ cùng dự thánh lễ vào ngày hôm sau, rước Mình Thánh bên cạnh nhau. Alessandro Serenelli trở thành phần tử dòng ba của dòng Capuchin”. (nguồn: internet)
Maria Goretti và bà Assunta, quả đúng là mẫu mực cho việc thực thi lời Đức Giê-su truyền dạy: “Chớ trả thù (và) phải yêu kẻ thù”. Còn… còn rất nhiều những người cũng chỉ là “phàm nhân”, như chúng ta, thế mà họ cũng đã thực thi trọn vẹn lời truyền dạy của Đức Giê-su.
Đó là vị cố Hồng Y Phanxico Xavie Nguyễn Văn Thuận đáng kính. Khi còn ở trong ngục tù, ngài đã nói với những người giam giữ mình rằng: “Cho dù các anh giết tôi, tôi vẫn yêu thương các anh. Tại vì Chúa Kitô đã dạy tôi phải yêu thương tất cả mọi người, cả những kẻ thù. Nếu tôi không làm như vậy, tôi không đáng được gọi là Kitô hữu”.
Herry Charrière với biệt danh “Papillon”, ông ta đã phải lãnh một bản án khổ sai chung thân vì tội giết người, căn cứ vào lời khai của một nhân chứng đã được cảnh sát “mớm” cung.
Ngay từ khi bị tống giam, ông quyết tìm mọi cách thoát ra khỏi trại khổ sai để trả thù. Ông đã vẽ trong trí tưởng tượng của mình những hình thức trả thù, chậm chạp nhưng hoàn hảo, để khiến cho những kẻ hại ông phải đau đớn gấp vạn lần nỗi đau, mà ông đã hứng chịu.
Ý chí trả thù của ông rất mãnh liệt. Thế nhưng, sau khi đào thoát tới đảo Curacao. Papillon đã gặp vị Giám Mục Iréné de Bruyne và nhận được lời khuyên: “Con phải là một vị cứu tinh cho những người khác, chứ không phải là một người sống để làm hại người khác. Dù con có đủ lý do để làm điều ác (trả thù) một cách công bằng”.
Và trước đó, khi còn bị giam ở nhà tù Conciergerie. Sau khi kể lại nỗi oan ức và ý định trả thù, vị linh mục tuyên úy của nhà giam cũng đã nói với Papillon: “Con hãy tha thứ cho những kẻ đã làm con đau khổ đến như vậy”. Ngài còn nói tiếp: “Rồi sau này, con sẽ từ bỏ ý định trừng phạt và trả thù”.
Herry Charrièe đã thú nhận trong cuốn tự truyện của ông: “Ba mươi bốn năm sau, tôi đã nghĩ đúng như ông linh mục nói”. Papillon đã thứ tha và quên đi việc trả thù.
Thánh Phanxico Assisi cũng đã nói: “chính khi thứ tha là khi được tha thứ”. Vâng, cứ thử thứ tha đi! Ngay hôm nay, hay phải đợi “ba mươi bốn năm sau”, như Papillon?
Câu trả lời là của mỗi chúng ta. Thế nhưng, đừng quên, mặc dù đã phải lãnh chịu sự đánh đập tàn bạo, một mão gai trên đầu, với những lời phỉ báng, Đức Giêsu, trên thập giá tại đồi Golgotha, Ngài vẫn “yêu kẻ thù” với lời cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, xin tha cho họ”.
Thế thì, là người môn đệ của Ngài, tại sao ta không “tha kẻ dể ta (và) nhịn kẻ mất lòng ta”? Cớ gì ta không “tha và nhịn”?
Petrus.tran