CÁC MỐI TƯƠNG QUAN VÀ CÁC GIÁ TRỊ CỦA GIA ĐÌNH
THEO KINH THÁNH
Thuyết trình về gia đình của Cha RANIERO CANTALAMESSA tại Đại Hội Thế Giới Lần thứ VI về Gia Đình (Mexico 14.01.2009)
Bài nói chuyện của tôi chia làm 3 phần. Trong phần thứ nhất, tôi đã sẽ xin minh hoạ kế hoạch khởi thủy của Thiên Chúa trên Hôn Nhân và Gia Đình và cách thức mà kế hoạch nầy được thực hiện trong lịch sử dân Israel. Trong phần thứ hai, tôi sẽ xin nói về việc tóm tắt do Chúa Kitô thực hiện và về cách thức việc nầy đươc giải thích và được sống trong lòng cộng đồng Kitô giáo Tân Ước. Trong phần thứ ba, tôi sẽ cố gắng xem xét những gì mạc khải Kinh Thánh có thể mang lại giải đáp cho những vấn đề hiện nay về Hôn Nhân và Gia Đình.
PHẦN THỨ HAI
HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TRONG TÂN-ƯỚC
1. TÓM TẮT HÔN NHÂN TRONG CHÚA KITÔ
Thánh Irênê giải thích “sự tóm tắt mọi sự nầy – anakephalaiosis” được thực hiện trong Chúa Kitô (Ep 1,10) như là một “lấy lại mọi sự từ đầu để dẫn chúng tới sự thành toàn của chúng”. Khái niệm nầy bao hàm đồng thời một tính liên tục và một tính mới lạ khi có liên quan đến hôn nhân, được thực hiện một cách gương mẫu trong công trình của Chúa Kitô.
1.1 Tính liên tục
Chương 19 Phúc Âm theo Thánh Matthêu tự nó cũng đã đủ để minh họa hai khía cạnh của viêc tóm tắt nầy. Trước hết chúng ta hãy xem Chúa Giêsu lấy lại mọi sự từ khởi đầu như thế nào.
“Những người Biệt phái đến gần Người và hỏi Người để thử thách Người : “Có được phép rẫy vợ mình vì bất kỳ lý do gì chăng?” .Người đáp :”Các ông đã không đọc thấy rằng Đấng Tạo Hoá,ngay từ khởi thủy, đã dựng nên họ người nam và người nữ [St 1,27] và Chúa nói với họ : Vì thế người nam sẽ bỏ cha mẹ mình để gắn bó với vợ mình và cả hai chỉ còn là một xác thịt duy nhất,sao? [ St 2,24]. Ví vậy họ không còn là hai, nhưng là một huyết nhục mà thôi. Vậy thì! Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, con người không được tách nó ra” (Mt 19, 3 – 6).
Chúa Giêsu trả lời cho các đối thủ vốn chỉ biết suy luận trong lãnh vực bị bó hẹp của một khoa ngụy biện thuộc trường phái (quanh quẩn ở việc có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do gì hay là vẫn phải có một lý do rõ ràng và nghiêm túc) bằng việc lấy lại vấn đề ở gốc rễ, từ khởi đầu. Trong các trích dẫn của Người, Chúa Giêsu tham chiếu hai trình thuật về việc thiết lập hôn nhân, lấy các yếu tố của cả trình thuật nầy lẫn trình thuật khi và khởi từ đó, như chúng ta đã thấy, Người đưa ra ánh sáng khía cạnh hiệp thông những con người.
Bản văn tiếp theo, về vấn đề ly dị, cũng đi theo chiều hướng nầy. Chúa Giêsu tái khẳng định sự trung thành và sự không thể phân ly của mối dây liên kết hôn nhân, vượt qua cả thiện ích của lời mà qua đó chế độ đa thê và ly dị đã được biện minh trong quá khứ.
Những người Biệt-phái bắt bẻ Người : “Tại sao Ông Môsê đã truyền dạy cấp giấy ly dị mà rẫy vợ – Người bảo họ :”Vì các ông lòng chai dạ đá,nên ông Môsê đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu không phải như vậy. Tôi nói cho các ông biết : ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ mình mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình” (Mt 19, 7 – 9).
Bản văn song song của Mác-cô cho thấy làm sao, theo Chúa Giêsu, trong trường hợp ly dị, người nam và người nữ được đặt trên một bình diện bình đẳng tuyệt đối : “Ai rẫy vợ mình và cưới một phụ nữ khác làm vợ, thì phạm tội ngoại tình với vợ mình; va nếu một người vợ ly dị chồng mình và lấy một người khác làm chồng, thì người nữ đó phạm một tội ngoại tình”.
Tôi không ngừng lại ở câu “ngoại trừ khi phạm tội ngoại tình” (porneia)bởi vì như mỗi người đều biết, các Giáo Hội Chính Thống và Tin Lành giải thích câu nầy một cách khác biệt với Gíao Hội Công giáo. Đúng ra phải nhấn mạnh “nền tảng bí tích mặc nhiên của hôn nhân” đựôc trình bày trong câu trả lời của Chúa Giêsu. Những lời “điều gì Thiên Chúa đã kết hợp” khẳng định rằng hôn nhân không phải là một thực tại đơn thuần thế tục chỉ do kết quả ý muốn của con người. Ở đây có một chiều kích linh thánh đi lên tận đến Thánh ý Chúa.
Việc nâng hôn nhân lên hàng “ bí tích’ do vậy không dựa trên lý lẽ yếu ớt về sự hiện diện của Chúa Giêsu tại tiệc cưới Cana và trên đoạn 5 thư gửi tín hữu Êphêsô. Một cách nào đó nó bắt đầu với Chúa Giêsu ở dưới đất. Đức giáo hoàng Gioan-Phaolô II có lý khi Người định nghĩa hôn nhân “là bí tích cũ xưa nhất”.
1.2 Nét mới mẻ
Cho tới nay, chúng ta đã gợi lên tính liên tục. Nhưng tính mới lạ thì gồm những gì vậy? Một cách nghịch lý, sự mới lạ hệ tại ở sự tương đối hoá hôn nhân. Hãy cùng nghe bản văn của Thánh Mat-thêu sau đây:
“Các môn đệ nói với Người : “Nếu làm chồng mà phải như thế đối với vợ,thì thà đừng lấy vợ còn hơn”. Người nói với họ :”Không phải ai cũng hiểu được câu nói ấy,nhưng chỉ những ai được Thiên Chúa cho hiểu,mới hiểu được. Quả vậy,có những người không kết hôn vì từ khi lọt lòng mẹ họ đã không có khả năng; có những người không thể kết hôn vì bị người ta hoạn;lại có những người tự ý không kết hôn vì Nước Trời. Ai hiểu được thì hiểu” (Mt 19, 10 12).
Qua những lời nầy, Chúa Giêsu thiết lập một trạng thái cuộc sống thứ hai,biện minh cho nó bằng việc Nươc Trời đến trên trần gian. Điều nầy không thủ tiêu khả năng kia,- hôn nhân- nhưng tương đối hoá nó.. Điều nầy xảy ra giống như ý tưởng quốc gia trong lãnh vực chính trị : nó không bị bãi bỏ,nhưng được tương đối hoá một cách căn bản trong việc mạc khải sự hiện diện cùng thời,trong lịch sử, của một vương quốc Thiên Chúa.
Để được công nhận có giá trị, sự tiết dục tự nguyện do vậy không cần người ta phải phủ nhận hoặc coi thường hôn nhân (một số tác giả xưa, trong các bài viết về đức trinh khiết, đã rơi vào sai lầm nầy). Đức trinh khiết,trái lại, chỉ có ý nghĩa nhờ sự khẳng định đồng thời của sự thiện hảo hôn nhân. Việc thiết lập luật độc thân và đức trinh khiết vì Nước Trời làm tăng giá trị hôn nhân,vì nó làm cho hôn nhân trở thành một chọn lựa,một ơn gọi chứ không còn chỉ là một nghĩa vụ đạo đức luân lý, mà ở [xã hội] Israel không ai được miễn trừ mà lại không bị tố cáo là vi phạm giới răn Đức Chúa Trời.
Cần phải lưu ý một điều mà người ta thừơng hay quên. Luật độc thân và đức trinh khiết có nghĩa là từ bỏ hôn nhân, chứ không phải là từ bỏ giới tính vẫn luôn mang đầy ý nghĩa phong phú, ngay cả khi giới tính được sống theo cách khác. Người nam nào đã chọn sống độc thân và ngừơi nữ nào đã chọn sống trinh khiết cũng trải nghiệm được nét quyến rũ và do vậy trải nghiệm đựơc sự phụ thuộc so với giới kia và chính đó là cái làm cho sự chọn lựa đức khiết tịnh của họ có ý nghĩa và chính vì thế mà nó quý giá.
1.3 Chúa Giêsu, kẻ thù của gia đình?
Giữa nhiều luận điểm được đưa ra những năm gần đây nhất trong lãnh vực “nghiên cứu thứ ba về Chúa Giêsu lịch sử”, có luận đề về một Giêsu được coi là đã rẫy bỏ gia đình tự nhiên và tất cả mọi liên hệ thân thích họ hàng của Người, lấy danh nghĩa là đã thuộc về một cộng đồng khác biệt, nơi đó Thiên Chúa là Cha và các môn đệ tất cả đều là anh chị em, đề ra cho các môn đệ Người một cuộc đời nay đây mai đó, giống như cácc triết gia phái khuyển nho cũng làm như vậy bên ngoài Israel.
Thoạt nhìn đã thấy có những lời nói gây bối rối trong các Phúc Âm. Chúa Giêsu đã nói : “Ai theo Ta mà không ghét cha,mẹ,vợ con,anh chị em và cho đến cả mạng sông mình, thì không thể làm môn đệ của Ta” (Lc 14,26). Những lời nói cứng rắn hết sức ấn tượng, chắc chắn rồi, nhưng thánh sử Matthêu vội vàng giải thích ý nghĩa của từ “ghét” : “Ai yêu mến cha hoặc mẹ mình hơn Ta,thì không xứng với Ta. Ai yêu con trai hoặc con gái mình hơn Ta,thì không xứng với Ta” (Mt 10,37). Chúa Giêsu do vậy không đòi phải ghét cha mẹ hoặc con cái, nhưng là không được yêu mến hơn đến mức từ chối đi theo Người vì họ.
Một đoạn khác gây bối rối. Một hôm Chúa Giêsu nói với một người : “Hãy theo Ta”. Ngừơi ấy thưa : “Cho phép con trước hết đi chôn cất cha con đã”.Nhưng Người nói với ngừơi ấy :”Hãy để kẻ chết chôn người chết của họ; còn anh, anh hãy đi loan báo Nước Thiên Chúa” (Lc 9,59 tt). Đối với một số người chỉ trích, trong đó có giáo sĩ Do Thái người Mỹ Jacob Neusner mà Đức Biển Đức XVI đối thoại với ông trong cuốn sách Chúa Giêsu Nazaret của Người, thì đó là một đòi hỏi xúc phạm, một sự không vâng lời Thiên Chúa là Đấng ra lệnh chăm sóc cha mẹ, một vi phạm hiển nhiên các bổn phận gia đình.
Người ta có thể đồng ý một điều với giáo sĩ Neusner : những lời nầy của Chúa Kitô không giải thích được nếu người ta chỉ coi Người như một con người, dù là ngừơi ngoại lệ. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể đòi hỏi người ta yếu mến Người hơn là một người cha và rằng để đi theo Người, người ta còn phải từ bỏ cả việc có mặt dự chôn cất người đó. Đối với các tín hữu, thêm một bằng chứng cho thấy Chúa Giêsu là Thiên Chúa; với Neusner, đó là lý do khiến người ta không thể đi theo Người.
Trước những đòi hỏi nầy của Chúa Giêsu, sự bối rối cũng phát sinh từ sự việc người ta không để ý đến sự khác biệt giữa những gì Người đòi hỏi nơi mọi người một cách không rõ ràng phân biệt và những gì Người chỉ đòi hỏi nơi một số người được gọi để chia sẻ đời sống trọn hiến cho Nước Trời, như vẫn còn xảy ra ngày nay trong Giáo Hội. Người ta cũng phải nói điều tương tự về việc từ bỏ hôn nhân : Người không áp đặt đềiu nầy và không đề nghị với mọi người không phân biệt, nhưng chỉ đề nghị với những ai chấp nhận nên giống như Người, phục vụ trọn vẹn Nước Trời (x. Mt 19,10 12).
Tất cả những nghi ngờ về thái độ của Chúa Giêsu đối với gia đình và hôn nhân rơi rụng, nếu chúng ta để ý đến những đoạn Phúc Âm khác. Chúa Giêsu là người nghiêm khắc nhất trong hết mọi ngườii về những gì liên quan đến sự không thể chia lìa của hôn nhân và nhắc nhở mạnh mẽ điều răn tôn kính cha mẹ mình. Người lên án việc viện cớ tôn giáo mà không thực hành bổn phận giúp đỡ cha mẹ (x. Mc 7, 11 – 13). Biết bao phép lạ Chúa Giêsu đã thực hiện để làm dịu đau khổ của các ông bố (ông Gia-irô, ông bố người bất toại), của các bà mẹ (phụ nữ xứ Canaan,bà goá Naim) hoặc của các người anh và các bà chị (các chị của Lazarô) và do vậy, để tôn vinh những mối liên hệ họ hàng thân thuộc. Hơn một lần, Người chia sẻ đau khổ của các bậc cha mẹ đến nỗi khóc cùng họ.
Ở một thời đại như ngày nay khi mà mọi sự dường như muốn làm suy yếu các mối liên hệ và các giá trị gia đình, chỉ còn thiếu một nỗi là Chúa Giêsu và Phúc Âm liên minh nhau chống lại gia đình! Chúa Giêsu đến đem lại cho hôn nhân vẻ đẹp nguyên thủy, để củng cố hôn nhân,chứ không làm nó suy yếu.
2. HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TRONG GIÁO HỘI THỜI CÁC TÔNG ĐỒ
Như chúng ta đã làm đối với kế hoạch nguyên thủy của Thiên Chúa và về sự tóm tắt do Chúa Kitô thực hiện, bây giờ chúng ta hãy tìm xem có được đón nhận và sống thế nào trong cuộc sống và trong giảng dạy giáo lý của Giáo Hội, được gắn liền lúc nầy với Giáo Hội thời các tông đồ. Ở đây Thánh Phaolô là nguồn thông tin chính cho chúng ta, bởi vì Ngài đã phải đương đầu vơi vấn nạn nầy trong một số thư của Ngài,nhất là trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô.
Thánh Tông Đồ phân biệt những gì đến trực tiếp từ Chúa Giêsu,từ những áp dụng đặc biệt mà Ngài làm trong bối cảnh mới mà Phúc Âm được rao giảng. Trong trường hợp thứ nhất, chính tính chất không thể phân ly của hôn nhân được đề cập: “Còn với những người đã kết hôn,tôi ra lệnh nầy, không phải là tôi,mà là Đức Chúa : vợ không được bỏ chồng;mà nếu đã bỏ chồng,thì phải ở độc thân hoặc phải làm hòa với chồng; và chồng cũng không được rẫy vợ” (I Cr 7,10 11). Trong trường hợp thứ hai, chúng ta nhìn thấy những chỉ dẫn Ngài ban khi có hôn nhân giữa người có Đạo và người ngoài Đạo; và những bố trí liên quan đến những người sống độc thân và trinh nữ : “Còn với những người đã kết hôn,v..v…Vế vấn đề độc thân,v..v…” (x. I Cr 7,10 – 11 ;I Cr 7,25). Từ thời Chúa Giêsu, Giao Hội thời các Tông Đồ cũng đã tiếp nhận một sự mới mẻ, như chúng ta đã thấy, hệ ở sự thiếp lập một tình trạng đời sống thứ hai : Độc thân và trinh khiết vì Nước Trời. Với những người ấy, Thánh Phaolô – bản thân Ngài cũng không lập gia đình – dành phần cuối chương 7 thư của Ngài. Căn cứ vào câu : “Tôi mong ước mọi người đều như tôi;nhưng mỗi người đón nhận từ Thiên Chúa đặc sủng riêng,kẻ thế nầy,người thế khác” (I Co 7,7), một số người nghĩ rằng Thánh Tông Đồ xem hôn nhân và sự tring khiết như hai đặc sủng. Không đúng như vậy! Các trinh nữ đã đón nhận đặc sủng đức trinh khiết, còn những người vợ chồng có được những đặc sủng khác (hiểu ngầm : không phải là đặc sủng đức trinh khiết). Thật có ý nghĩa khi thần học Giáo Hội luôn coi đức trinh khiết như một đặc sủng, chứ không phải là một bí tích và coi hôn nhân như một bí tích, chứ không phải là một đặc sủng.
Văn bản thư gửi tín hữu Êphêsô có một trọng lượng đáng kể trong tiến trình sẽ dẫn tới (khá lâu sau đó) việc công nhận tính chất bí tích của hôn nhân : “Chính vì vậy người đàn ông sẽ lìa cha mẹ để gắn bó với vợ mình; và cả hai sẽ thành một xương một thịt: Mầu Nhiệm nầy thật cao cả: tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh” (Ep 5, 31 – 32). Đây không phải là một lời khẳng định đơn độc hoặc ngẫu nhiên,do việc dịch không rõ ràng từ “mầu nhiệm” (mysterion) sang tiếng la-tinh bí tích (sacramentum). Hôn nhân như biểu tượng quan hệ giữa Chúa Kitô và Giáo Hội đặt nền tảng trên toàn thể một loạt những lời được loan báo và những dụ ngôn, trong đó Chúa Giêsu đã áp dụng cho chính mình danh hiệu hôn phu, mà các tiên tri đã gán cho Thiên Chúa.
Trong khi công đồng Công giáo lớn lên và dần dà nên vững chắc, người ta thấy triển nở cả một mục vụ và một linh đạo về gia đình. Những văn bản ý nghĩa nhất cho chủ đề nầy là các thư gửi tín hữu Côlôsê và Êphêsô. Hai mối quan hệ căn bản cấu thành gia đình được đưa ra ánh sáng ở trong hai thư ấy : tương quan vợ – chồng và tương quan cha mẹ – con cái. Về tương quan thứ nhất [ vợ – chồng], Thánh Tông Đồ viết: “Vợ chồng hãy phục tùng nhau trong sự kính sợ Chúa Kitô. Ước gì người vợ phụ tùng người chồng như Giáo Hội phục tùng Chúa Kitô;các bà vợ cũng phải phục tùng các người chồng trong mọi sự. Hỡi những người chồng, hãy yêu thương vợ mình như Chúa Kitô yêu thương Giáo Hội : Người đã phó nộp mình vì Giáo Hội”.
Thánh Phaolô nhắn nhủ người chồng “yêu thương” vợ mình ( điều nầy bình thường với chúng ta), nhưng tiếp sau đó Ngài nhắn nhủ người vợ “phục tùng”chồng mình và điều ấy dường như không thể chấp nhận được trong một xã hội ý thức mạnh mẽ về sự bình đẳng giữa các giới. Về điểm nầy, Thánh Phaolô, ít là một phần, chịu các đềiu kiện tập tục thời đại Ngài sống. Dù vậy cũng phải xem lại khó khăn nầy bằng vệic lưu ý tới câu ở đầu thư : “Vì lòng tôn kính Chúa Kitô, hạy phục tùng lẫn nhau”, thiết lập một tương quan lẫn nhau trong sự phục tùng cũng như trong tình yêu.
Về mối tương quan cha mẹ – con cái, Thánh Phaolô nhắc lại những lời khuyên răn truyền thống của văn chương sách khôn ngoan :” Hỡi con cái, hãy vâng lời cha mẹ, trong Đức Chúa: đó là đìêu chính đáng. Hãy tôn vinh cha ngươi và mẹ ngươi. (Cn 6,20), đó là giới răn đầu tiên nối liền với một lời hứa : để ………(Xh 20,12). Hỡi các bậc làm cha làm mẹ, đừng làm cho con cái tức giận;nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy” (Ep 6, 1 – 4).
Các thư mục vụ, đặc biệt là Thư gửi Titô, cho thấy những chi tiết cho mỗi phạm trù những con người : những người vợ, những người chồng, các giám mục và linh mục, những người cao tuổi, những thanh thiếu niên, các bà goá, các ông chủ, những người nô lệ ( x. Tt 2, 1 – 9).Quả thật, ngay cả các nô lệ cũng làm thành phần gia đình trong quan niệm mở rộng về gia đình.
Ngay cả trong Giáo Hội tiên khởi, lý tưởng hôn nhân được Chúa Giêsu đề xuất lại, sẽ không được thực hiện mà không gặp những bóng tối hoặc chống cự. Nhu cầu mà các Tông Đồ cảm nhận phải nhấn mạnh lên khía cạnh nầy của cuộc sống Kitô giáo làm chứng cho điều ấy, tất nhiên không tính đến trường hợp loạn luân ở Côrintô (x. I Cor 8,1 tt). Nhưng xét tổng thể, các Kitô hữu đã giới thiệu cho thế giới một kiểu mẫu gia đình mới tỏ cho thấy đó là một trong những nhân tố công cuộc rao giảng Tin Mừng.
Tác giả thư gửi Diognète ở thế kỷ thứ 2 khẳng định rằng các Kitô-hữu “lập gia đình như mọi người, cũng có con cái,nhưng không bỏ rơi con cái mới sinh của họ. Họ chia sẻ cùng một bàn ăn,nhưng không chung một giường nằm” (V, 6 – 7). Trong cuốn Apologies, Justin đưa ra lý lẽ rằng chúng ta,các Kitô hữu ngày nay,lẽ ra phải có thể đối thoại với các nhà cầm quyền chính trị. Ông nói như sau : Các Ngài, hỡi những hoàng đế La Mã, các Ngài nhân lên các luật lệ về gia đình, nhưng chúng cho thấy không hiệu quả để tránh cho gia đình đổ vỡ. Hãy đến mà xem gia đình của chúng tôi và các Ngài sẽ xác tín rằng Kitô hữu là những đồng minh tốt nhất của cuộc cải cách xã hội,chứ không phải là kẻ thù của các Ngài. Kết thúc, sau ba thế kỷ bách hại, vị hoàng đế đã tiếp nhận kiểu mẫu Kitô giáo về gia đình trong luật pháp của ông.