Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn
Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn, tên đầy đủ là Vương cung thánh đường Chính tòa Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội, là nhà thờ lớn nhất và đặc sắc nhất tại Sài Gòn, với 2 tháp chuông cao 60 mét, tọa lạc tại trung tâm thành phố (Số 1 Công trường Công xã Paris, Quận 1).
Đây là một trong những công trình kiến trúc tôn giáo thu hút nhiều khách tham quan nhất tại thành phố.
Lược sử
Kiến trúc nhà thờ dựa trên đồ án của kiến trúc sư J. Bourard theo kiểu Roman cải biên pha trộn nét Gotich. Chính ông trúng thầu và trực tiếp giám sát công trình.
Ngày 07.10.1877, Đức cha Isidore Colombert Mỹ đặt viên đá đầu tiên.
Ba năm sau, vào lễ Phục sinh (11.04.1880), cũng chính Đức cha Isidore Colombert Mỹ khánh thành ngôi thánh đường. Chi phí xây dựng, trang trí nội thất với ngân khoản lên đến 2.500.000 franc Pháp theo tỷ giá thời bấy giờ.
Trên vườn hoa trước nhà thờ, năm 1903, người Pháp cho dựng tượng đồng giám mục Bá Đa Lộc. Năm 1945, tượng này được cất đi, nhưng giữ nguyên bệ bằng đá hoa cương đỏ. Năm 1959, cha xứ giáo xứ Sài gòn, linh mục Giuse Phạm Văn Thiên (sau là Giám mục Phú Cường), đi dự đại hội Thánh Mẫu ở Vatican, đã đặt tạc một tượng Nữ Vương Hòa Bình bằng loại đá cẩm thạch quý hiếm. Tượng được dựng trên bệ đài trên ngày 16.02.1959. Hôm sau, hồng y Aganianian từ Roma qua Sài Gòn để chủ toạ lễ bế mạc Đại hội Thánh Mẫu, đã làm phép tượng.
Ngày 09.12.1959, Đức cha Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền chủ sự lễ cung hiến với tước hiệu Vương cung thánh đường Đức Mẹ Vô nhiễm. Ngày 24.11.1960, Tòa Thánh thành lập hàng giáo phẩm Việt Nam nhà thờ trở thành nhà thờ chinh tòa của Tổng giám phận Sài Gòn cho đến ngày nay.
[youtube]IqckIlpYkgc[/youtube]
Những nét đặc sắc
Trong quá trình xây dựng, toàn bộ vật liệu xây dựng từ xi măng, sắt thép đến ốc vít đều mang từ Pháp sang. Gạch bên ngoài thánh đường được đặt làm tại Marseille (Pháp) để trần, không tô trát, đến nay màu sắc vẫn hồng tươi, không bám bụi rêu. Móng của thánh đường được thiết kế đặc biệt, chịu được tải trọng gấp 10 lần toàn bộ kiến trúc ngôi nhà thờ nằm bên trên.
Thánh đường có 56 ô cửa kính màu do hãng Lorin của tỉnh Chartres (Pháp) sản xuất. Các ô cửa kính mô tả các nhân vật hoặc sự kiện trong Thánh Kinh, 31 hình bông hồng tròn, 25 cửa sổ mắt bò bằng kính nhiều màu ghép lại với những hình ảnh rất đẹp. Tuy nhiên, trong số 56 cửa kính này hiện chỉ còn hai cửa là nguyên vẹn.
Nội thất thánh đường được thiết kế thành một lòng chính, hai lòng phụ. Toàn bộ chiều dài thánh đường là 133 m, tính từ cửa ngăn đến mút chót của phòng đọc kinh. Chiều ngang của hành lang là 35 m. Chiều cao của thánh đường là 21 m. Sức chứa của thánh đường có thể đạt tới 1.200 người.
Nội thất thánh đường có hai hàng cột chính hình chữ nhật, mỗi bên sáu tượng các thánh tông đồ. Hai bên nhà thờ có đến 20 tòa cạnh kính các thánh với tượng bằng đá trắng khá tinh xảo. Bàn thờ nơi Cung Thánh làm bằng đá cẩm thạch nguyên khối có hình sáu vị thiên thần khắc thẳng vào khối đá đỡ lấy mặt bàn thờ, bệ chia làm ba ô, mỗi ô là một tác phẩm điêu khắc diễn tả thánh tích.
Vào ban ngày, với thiết kế phối sáng tuyệt hảo, hài hòa đem lại cho nội thất thánh đường một ánh sáng êm dịu, tạo ra một cảm giác an lành và thánh thiện.
Ban đầu, hai tháp chuông cao 36,6 m. Năm 1895, thánh đường xây thêm hai mái chóp để che gác chuông cao 21 m, theo thiết kế của kiến trúc sư Gardes, tổng cộng tháp chuông cao 57,6 m. Trên đỉnh tháp có dựng một thánh giá cao 3,50 m, ngang 2 m, nặng 600 kg, nâng tổng chiều cao từ mặt đất lên đỉnh thánh giá là 60,50 m.
Có tất cả 6 chuông lớn gồm sáu âm : sol, la, si, đô, rê, mi , nặng tổng cộng 28,85 tấn, đặt dưới hai lầu chuông. Bộ chuông này được chế tạo tại Pháp, tháp bên phải treo 4 chuông (sol, si, rê, mi); tháp bên trái treo 2 chuông (la, đô). Mỗi quả chuông đều có các họa tiết rất tinh xảo.
Quả chuông sol là là một trong những quả chuông lớn nhất thế giới: nặng 8.785 kg, đường kính miệng chuông 2,25 m, cao 3,5 m, mỗi năm chỉ ngân lên một lần vào đêm Giáng Sinh.
Ngày thường, thánh đường chỉ cho đổ một chuông, ngày lễ và chủ nhật cho đổ ba chuông. Chỉ đêm Giáng Sinh mới đổ cả 6 chuông. Tiếng chuông ngân xa tới 10 km theo đường chim bay.
Bộ máy đồng hồ trước vòm mái cách mặt đất chừng 15 m, giữa hai tháp chuông được chế tạo tại Thụy Sĩ năm 1887, hiệu R.A, cao khoảng 2,5 m, dài khoảng 3 m và ngang hơn 1 m, nặng hơn 1 tấn, đặt nằm trên bệ gạch, cho đến nay vẫn hoạt động khá chính xác.
Mặt trước thánh đường là một công viên với bốn con đường giao nhau tạo thành hình thánh giá. Trung tâm công viên có bức tượng hay Nữ vương Hòa bình, do nhà điêu khắc G. Ciocchetti thực hiện năm 1959. Tên của tác giả được ở trên tà áo dưới chân, phía bên trái của bức tượng.
Bức tượng cao 4,6 m, nặng 5,8 tấn, bằng đá cẩm thạch trắng của Ý, được tạc với chủ đích để nhìn từ xa nên không đánh bóng. Tượng Đức Mẹ trong tư thế đứng thẳng, tay cầm trái địa cầu, trên trái địa cầu có đính cây thánh giá, mắt Đức Mẹ đăm chiêu nhìn lên trời như đang cầu nguyện cho Việt Nam và cho thế giới được hoà bình. Trên bệ đá, phía trước bức tượng, người ta có gắn một tấm bảng đồng với hàng chữ Latinh:
REGINA PACIS – OPRA PRONOBIS – XVII. II. MCMLIX
Nghĩa là: NỮ VƯƠNG HÒA BÌNH – CẦU CHO CHÚNG CON – 17.02.1959
Phía dưới bệ đá, người ta đã khoét một cái hốc chỗ giáp với chân tượng Đức Mẹ, trong đó có một chiếc hộp bằng bạc, chứa những lời kinh cầu nguyện cho hoà bình của Việt Nam và thế giới. Những lời cầu nguyện đó được viết lên trên những lá mỏng bằng những chất liệu khác nhau như bằng vàng, bạc, thiếc, nhôm, giấy, da và đồng, được gởi tới từ nhiều miền đất nước, kể cả từ một số giáo phận miền Bắc bấy giờ.
Toàn cảnh chụp từ trên cao