Ta muốn con sạch…

 

Ta muốn con sạch…Publilius Syrus có nói: “Sức khỏe tốt và trí tuệ minh mẫn là hai điều hạnh phúc nhất của cuộc đời”. Tại sao sức khỏe tốt lại là điều hạnh phúc? Thưa, là bởi,  khi nói tới sức khỏe, ai trong chúng ta cũng liên tưởng đến bệnh tật. Mà, khi đã bệnh tật, khi đã vướng vào một căn bệnh nào đó, tiền chính là điều kiện “ắt có và đủ” để chúng ta lấy lại “sức khỏe” cho mình. Thế nên, thật đúng khi có lời nói, rằng: “sức khỏe là vàng”.

Cách nay khá lâu, tại Pháp, trong một cuộc thăm dò ý kiến với 1.000 người đại diện cho các giới  từ 28 tuổi trở lên, đã có  54% người trả lời rằng, “sợ bệnh tật hơn là cái chết”.

Sợ bệnh tật ư! Tất nhiên rồi. Vướng vào bệnh tật, nhất là những căn bệnh thuộc loại tứ chứng nan y: phong, lao, cổ, lại… thì quả là sống không bằng chết. Nếu chúng ta thử thăm viếng một vài bệnh nhân vướng phải những căn bệnh này, bệnh phong chẳng hạn, ta sẽ được nghe những tiếng rên xiết đau đớn của họ. Chưa hết, ta còn được nghe họ than thở về chi phí điều trị. Cuối cùng, ta còn thấy họ luôn mặc cảm vì bị ghẻ lạnh, kỳ thị, xa lánh.

Đối với bệnh phong, đúng là, xã hội thời xa xưa thường xa lánh và kỳ thị. Đã có thời người bệnh phong phải chịu  nhiều luật lệ khắt khe như thả trôi sông, chôn sống, bỏ vào rừng cho thú dữ ăn thịt. Vì thế khi một ai đó mắc bệnh, họ chỉ có một cách thế duy nhất, đó là bỏ làng ra đi, ở lại cũng không ai chứa chấp, không ai dám bén mảng tới gần.

Do Thái thời Cựu Ước cũng có luật lệ riêng cho những người bệnh phong hủi. Những luật lệ đó cũng không kém phần khắc nghiệt. Khắc nghiệt ngay từ “khâu chẩn bệnh”… Nếu một người bị nhọt, lác, đốm, ung, phỏng, lang ben, sói đầu v.v… mà các vết thương đó “cứ loang ra” trên cơ thể… “Tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế: đó là bệnh phong” (Lêvi 13,7).

Một đạo luật đã được các  vị Tư tế đặt ra: “Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và kêu lên: “Ô uế! Ô uế!”. Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế; nó ô uế: nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại”(Lêvi 13, 45-46). Nói chung, đối với xã hội thời xa xưa, cả ở phương Tây lẫn phương Đông, người bệnh phong hủi bị ghẻ lạnh, kỳ thị và xa lánh…

Ấy vậy mà! Vâng, vậy mà… cách nay hơn hai ngàn năm, có một người đã làm thay đổi một định kiến thâm căn cố đế, như thế. Người đó đã coi những người bị bịnh phong, là những kẻ đáng thương xót hơn là ghẻ lạnh, nên gần gũi hơn là xa lánh và nên cảm thông hơn là kỳ thị. Người đó chính là Đức Giêsu. Vâng, Giê-su người Nazaret – Ngài “chạnh lòng thương”, và đã chữa lành họ. Sự kiện này đã được ghi lại trong Tin Mừng thánh Mác-cô. (Mc 1, 40-45)

Chuyện kể rằng: Sau khi rời bỏ Ca-phác-na-um, Đức Giê-su đi khắp miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng. Khi Người và các môn đệ đang “từng bước từng bước thầm”, thì bất ngờ: “có người bị phong hủi đến gặp Người…”

Không… không thể tin được về sự liều lĩnh của người phong hủi này. Tại sao? Thưa, là bởi, theo luật, luật Do Thái thời bấy giờ, người phong hủi phải có một cái chuông. Để làm gì?  Thưa, để lắc vang lên báo hiệu rằng, có người hủi quanh đó. Hoặc phải la lên “ô uế! ô uế!” để mọi người tránh xa. Luật là thế, thế mà, theo trình thuật thánh sử Mác-cô ghi lại, không thấy anh ta lắc chuông và cũng không lớn tiếng kêu lên ô uế.

Không biết nhóm môn đệ của Đức Giêsu có lẩm bẩm về sự thiếu tôn trọng và sự coi thường lề luật của chàng cùi đó với nhau không. Nhưng có phần chắc, khi thấy bóng dáng chàng ta, các ngài sẽ “lùi lại”. Vâng, cũng đúng thôi. Lùi lại vì sợ lây bệnh và cũng vì  luật đã được các Rabbi dạy rằng “cấm không được đến gần người cùi trong khoảng cách một sải tay”.

Vì thế, chúng ta có thể tin, các môn đệ đã lùi lại để bảo vệ cho sức khỏe và sự thánh khiết của mình. Thế nhưng, với Đức Giêsu, Người không lùi lại. Người vẫn tiếp tục tiến về phía người phong hủi. Khoảng cách mỗi lúc một gần hơn. Khi khoảng cách giữa chàng cùi và Đức Giêsu không còn có thể gần hơn được  nữa, người ta thấy chàng cùi  bèn quỳ sụp xuống. Những lời van xin thống thiết của chàng ta được tuôn ra: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”(x.Mc 1, …40)

“Nếu… Ngài… muốn…” Vâng, từng tiếng… từng tiếng van xin được thốt lên rất thống thiết,  một sự thống thiết mà hôm nay chúng ta có thể liên tưởng đến những lời thống thiết của nhà thơ Hàn mặc Tử, một nhà thơ cũng mắc chứng phong hủi, năm xưa: “Maria! Linh hồn tôi ớn lạnh. Run như run thần tử thấy long nhan. Run như run hơi thở chạm tơ vàng. Nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến”.

Hồi ấy, nếu chàng phong hủi đó cũng là một nhà thơ thì sao, nhỉ! Chắc hẳn chàng ta sẽ thốt lên: “Giê-su ơi! Thân thể tôi ớn lạnh. Xác tôi run vì căn bệnh ngặt nghèo. Môi tôi run khi cất tiếng nài van. Nhưng lòng vẫn tin vào ơn thương xót”.

Trở lại câu chuyện, hôm ấy phản ứng của Đức Giê-su thế nào, nhỉ! Thưa, đó là phản ứng của một  Giêsu, một Giê-su “đến thế gian… là để thế gian… được cứu”. Vâng, phản ứng của Ngài, sau lời kêu xin thống thiết của người bị phong hủi, đó là:  “chạnh lòng thương”.

Đức Giêsu đã thương xót. Ngài “đã muốn”, bởi khi nhìn thấy anh ta trong tình cảnh, chết còn hơn là sống cay cực, như thế này, Người đã “giơ tay đụng vào anh ta và bảo: Tôi muốn, anh sạch đi”. Câu chuyện kể tiếp rằng “Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch”.

Đức Giê-su “giơ tay đụng vào anh ta”, phải chăng, đây là một cử chỉ, một hành động Ngài đã phá luật, luật tiếp xúc với người phong? Thưa,  Đức Giê-su không phá luật, hãy nhìn xem, sau khi chữa lành chàng hủi, Ngài đã chẳng bảo chàng ta rằng “hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Môse đã truyền, để làm chứng cho người ta biết”, theo đúng luật dạy,  đó sao!

Chữa cho chàng hủi này, Đức Giêsu chỉ cần phán một lời, như cách thức Ngài đã chữa lành một người con của vị quan cận thần ở Caphanaum, cũng được. Nhưng chủ ý của Ngài khi đặt tay lên chàng hủi là muốn gửi đến mọi người một thông điệp rằng: không có điều gì có thể ngăn cách con người với Thiên Chúa, kể cả tội lỗi.

Theo quan niệm Do Thái giáo, người hủi là người tội lỗi. Nhưng, với Đức Giê-su, qua cách chữa lành người phong hủi này, Ngài đã gửi đến những kẻ tội lỗi thông điệp, một thông điệp mà ngôn sứ Isaia xưa, cũng đã công bố, thông điệp rằng: “Hãy đến đây, ta cùng nhau tranh luận. Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẩm tựa vải điều, cũng hóa trắng như bông”. (x.Is 1, 18). Người phong hủi (theo luật Lê-vi, được xem như là kẻ tội lỗi), đã tự ý “đến (cùng tranh luận với) Người” và anh ta đã được “sạch (tội)”.

Ngày nay, bệnh phong, hầu như đã được khống chế. Với nền y học tiên tiến hôm nay, với những loại thuốc đặc trị như Dapsone, Rifampicin và Clofazimine, bệnh nhân chỉ cần dùng liều thuốc này từ sáu tháng đến một năm hoặc có thể lâu hơn nữa, thì có thể khỏi bệnh. Chính vì thế, số lượng người mắc phong hủi thể xác không còn là điều đáng quan ngại. Thế nhưng, điều chúng ta đáng quan ngại, đó là, ngày nay số người phong hủi tâm linh, phong hủi tâm hồn, ngày một tăng cao.

Vâng, rất đáng quan ngại, hôm nay, đi đâu chúng ta cũng nhìn thấy những con vi-khuẩn-dối-trá, những con vi-khuẩn-bịp-bợm, xuất hiện và tung hoành. Ai… ai dám phủ nhận, chúng ta sẽ không bị nhiễm những con vi khuẩn đó, để rồi dẫn đến “phong hủi tư cách, phong hủi tâm hồn”?

Hãy nhìn xem, thế giới hôm nay, chẳng phải là một thế giới đang cổ vũ cho một nền văn hóa sự chết, một nền văn hóa được xây dựng bởi những con vi-khuẩn-dâm-bôn, vi-khuẩn-hận-thù, vi-khuẩn-bất-hòa, vi-khuẩn-phóng-đãng, vi-khuẩn-thờ-quấy, vi-khuẩn-tranh-chấp, vi-khuẩn-bè-phái v.v… đó sao!

Ai… ai dám chắc rằng chúng ta không một lần bị nhiễm những con vi khuẩn đó! Ai dám chắc là chúng ta không một lần mắc chứng “phong hủi đức trong sạch, phong hủi đức mến”?

Y học có câu “phòng bệnh hơn chữa bệnh”. Vì thế, không có lời khuyên nào tốt hơn lời khuyên “đừng dây với hủi”. Nói cách khác, đó là, hãy tránh xa “những nơi có thể” làm cho chúng ta lây nhiễm những con vi khuẩn nêu trên.

Những-nơi-có-thể,  chúng ta biết rồi, đó là: quán bar, vũ trường, phim ảnh khiêu dâm, đó là: say sưa chè chén v.v…  Hôm nay, chúng ta đang sống trong một thực tại đầy âu lo và sợ hãi. Âu lo và sợ hãi bởi thảm họa Corona Virus vẫn đang hoành hành.

Âu lo thì cứ âu lo. Sợ hãi thì cứ sợ hãi. Thế nhưng, chớ gì sự âu lo và sợ hãi (liên quan đến thể xác) đó, sẽ như là lời cảnh báo để mỗi chúng ta âu lo và sợ hãi về những con vi khuẩn (nêu trên), những con vi khuẩn tàn phá và có thể giết chết linh hồn chúng ta.

Đức Giê-su, khi còn tại thế, Ngài đã nói gì nhỉ?  Chẳng phải Ngài đã nói, “Được cả thế gian mà mất linh hồn thì nào ích gì”, đó sao! Thế nên, hãy để một phút hồi  tâm và hãy tự hỏi lòng mình rằng “Tôi có đang bị mắc bệnh phong hủi tâm hồn không? Tôi có bị nhiễm những con vi khuẩn nêu trên không?” Nếu chưa, hãy bảo vệ tâm hồn mình bằng Thánh Kinh, bằng Lời Thiên Chúa. Bởi, Lời Thiên Chúa “là lời sống động, hữu hiệu, sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi, xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy, lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người” (Dt 4, 12)

Một Ki-tô hữu được Lời Thiên Chúa “phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người”, thưa quý vị, người Ki-tô hữu đó có phần chắc, sẽ không bị  những con vi khuẩn “xấu” nêu trên thâm nhập vào tâm hồn mình để gây ra chứng phong hủi tâm hồn.

Còn nếu vì một phút nào đó “rong chơi cuối trời quên lãng” mà bị nhiễm! Đừng… đừng ngại ngùng! Hãy đến “tòa cáo giải” gặp gỡ vị linh mục, như xưa kia chàng hủi đã đến gặp gỡ các thầy tư tế.  Hãy tin rằng, Đức Giêsu, qua các vị linh mục, Ngài cũng sẽ nói với chúng ta, rằng “Anh đã được lành sạch”.

Nơi tòa cáo giải, Đức Giê-su, qua các vị linh mục, Ngài vẫn “ngồi” đó chờ chúng ta. Chờ chúng ta “đến gặp Ngài”.  Như xưa kia Ngài nói với người phong hủi thế nào, hôm nay Ngài cũng sẽ nói với mỗi chúng ta như vậy. Vâng, Đức Giê-su sẽ nói rằng: “Ta muốn, con sạch (tội)”.

Petrus.tran

 

Để lại một bình luận