Thiên Chúa, như lời Kinh Thánh nói, là “Đấng từ bi và nhân hậu. Người chậm giận và giàu tình thương” (Tv, 103, 8). Rồi, khi Đức Giê-su xuống thế làm người, trong những ngày ra đi rao giảng Tin Mừng, Ngài cũng đã nói cho mọi người biết đến một “Thiên Chúa là tình yêu”. Người “yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”.
Vâng, rất trìu mến, để diễn tả tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, Đức Giê-su đã kể cho mọi người nghe một dụ ngôn. Dụ ngôn mang tên “Người cha nhân hậu” (x.Lc 15, 11-32).
Câu chuyện được kể rằng “Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha rằng: Thưa cha, xin cho con phần gia tài con được hưởng”.
Đòi chia gia tài ư! Theo luật Do Thái, việc này, mà người đòi lại là “con thứ” trong gia đình, thì quả đó là một hành động hiếm thấy, nếu không muốn nói là phạm luật. (x. Đnl 21, 17). Còn với quan niệm Việt Nam, thì đó là một hành động bất hiếu, muốn cha mình chết sớm.
Ấy thế mà, người cha trong dụ ngôn, vẫn tỏ lòng “nhân hậu” làm theo đúng lời thỉnh cầu của người con thứ, ông đã “chia của cải cho hai con”.
Người con thứ, chuyện kể tiếp rằng “Ít ngày sau… thu gom tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình”.
Theo cách mô tả của thánh Luca, chúng ta có thể tin rằng, anh ta cũng chẳng khác nào công tử Bạc Liêu xưa, “đốt tiền luộc trứng”, vung tiền không tiếc cho đủ loại hình thức ăn chơi. Cuối cùng thì, “Khi anh ta ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra nạn đói”. Vâng, anh ta lâm vào cảnh đói khát.
Thưa bạn, bạn có bao giờ lâm vào tình trạng “đói” không? Tôi, và chắc hẳn cũng có rất nhiều người dân Saigon, sau biến cố 1975, chỉ vì chính sách “ngăn sông cấm chợ”, nên đã từng lâm vào cảnh đói, đói đến độ chỉ mong sao có một cọng rau muống luộc ăn cho đỡ đói.
Trở lại chuyện anh người con thứ. Vâng, như người xưa có nói “đói đầu gối phải bò”, người con thứ, đói quá, nên anh ta đã “bò” đến một trang trại xin ở đợ. Chủ của anh ta là “một người dân trong vùng, người này sai anh ta ra đồng chăn heo”. Bên đàn heo, trong cơn đói quằn quại, anh ta “ước ao lấy đậu muồng heo ăn nhét cho đầy bụng, nhưng chằng ai cho ăn”…
Chìm trong tủi nhục, anh ta “hồi tâm và tự nhủ: biết bao người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta lại ở đây chết đói!” Ừ! Tại sao ta lại phải ở đây để chết đói! Vâng, có phần chắc, anh ta đã lẩm bẩm như thế trong lòng mình.
Trong một cơ thể bắt đầu phàn nàn vì đói khát, anh ta đưa ra một đối sách: “Thôi, ta đứng lên đi về cùng cha, và thưa với người: ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy”.
Ô hay! Quả đó là một đối sách khôn ngoan. Chỉ xin “làm công”, chẳng lẽ cha mình không cho sao! Và rồi, chuyện kể rằng: “ anh ta đứng lên đi về cùng cha”. Còn người cha! Thái độ của ông ta với người con thứ như thế nào? Thưa, thật tuyệt vời.
Thật vậy, trong khi người con thứ mãi mê “đi bơ vơ bên ghềnh đá, trên sườn non, chân ngựa hoang bước mơ hồ”, thì người cha vẫn hy vọng một ngày nào đó, con ông sẽ “come back home”.
Có lẽ… có lẽ, ở nhà, ông ta đã xây một cái tháp rất cao, trên đó treo một tấm băng-rôn rất lớn, với dòng chữ “welcome home”, với hy vọng, từ đàng xa, cậu quý tử sẽ thấy, thấy được tấm lòng bao dung của ông! Thế nhưng, người “thấy” trước lại là ông. Ông thấy cậu quý tử trước…
Vâng, chuyện được kể tiếp rằng: lúc “anh ta còn ở xa, thì người cha đã trông thấy”. Ôi! ông ta đã trông thấy một tấm thân tiều tụy của con mình. Chạnh lòng thương, tấm lòng người cha tràn ngập sự độ lượng. Và rồi, ông, chính ông ta, đi bước trước. Ông ta đã “chạy ra ôm cổ anh ta hôn lấy hôn để”.
Thật tuyệt vời! đó là một “nụ hôn” của tình yêu và sự tha thứ. (trái ngược với nụ hôn của Giu-đa với Đức Giê-su, sau này, và đôi khi cũng là nụ hôn của chúng ta, hôm nay).
Tình yêu và sự tha thứ của người cha đã làm cho người con nức nở nghẹn ngào. Anh ta cất lên những lời thống hối xót xa: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa…”.(x.Lc 15, 21)
Không! Không đời nào… Con ta vẫn ta con ta… Vâng, đó là sự thật. Sự nhân hậu và độ lượng của người cha, đã biến tâm hồn cô đơn buồn nản của ông, trở thành một tâm hồn “chan chứa tình thương”, để rồi, ông đã tuôn đổ tình thương của mình qua việc yêu cầu các đầy tớ “mau đem áo đẹp ra mặc cho cậu ta, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu…”
Màu đen của tang tóc đã được biến thành màu hồng, màu của niềm vui. Hôm đó, người cha đã vui, vui vì “…con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” (x.Lc 15, 24).
Vâng, câu chuyện kết thúc thật có hậu. Người con thứ đã “come back home” và người cha đã “welcome home”. Nói cách khác, người con đã “Sám hối và trở về – Người Cha hoan nghênh”.
Thiên Chúa, qua hình ảnh người cha trong dụ ngôn, Người đúng là Đấng “Chẳng trách cứ luôn luôn. Không oán hờn mãi mãi”. Thiên Chúa không nhìn đến “công đức” của con người, nhưng Thiên Chúa nhìn đến sự “hồi tâm và hối cải”.
Người con thứ trong dụ ngôn đã không có được một việc làm nào được gọi là “tốt lành”, ngoại trừ việc “sống phóng đãng”, thế nhưng, nhờ anh ta “hồi tâm và hối cải”, một dấu chỉ của “sám hối và trở về”, cho nên anh ta đã nhận được một cách nhưng không, lòng từ bi và nhân hậu của người cha.
Thánh Phaolô, sau này, đã khẳng định rằng “Mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta được hòa giải với Người” (2 Cor 5, 18). Rồi ngài nhấn mạnh “Đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa” (Ep 2, 8). Vâng, ân huệ của lòng Chúa thương xót, cho những ai biết “sám hối và trở về”.
Thưa bạn, là một Ki-tô hữu, bạn có tin vào lòng Chúa thương xót? Chắc chắn chúng ta sẽ trả lời, rằng: Tin chứ. Tốt, tốt lắm. Tuy nhiên, chúng ta cần tự hỏi mình, đó là niềm tin tuyệt đối, hay còn có chút nghi ngờ? Có một lúc nào đó, ta “nghi ngờ” như người con cả trong dụ ngôn?
Vâng, cứ sự thường, khi đề cập đến người con cả, chúng ta thường cho rằng, anh ta mang nặng trong tâm hồn mình tính ganh tị, hẹp hòi. Nghĩ như thế không sai. Thật đáng trách khi anh ta kèn cựa với người em, khi thấy người cha “đã làm thịt một con bê béo” đãi đằng cậu ấy, trong khi “chưa bao giờ cha cho (anh ta) một con dê con”, để làm một cái lẩu dê, “ăn mừng với bạn bè”, nên đã nổi giận khước từ “không chịu vào nhà”.
Nhưng, hãy đặt ra vài câu hỏi, sẽ thấy ngay sự nghi ngờ nơi anh ta. Này nhé! “Này anh hai ơi! anh đã ‘mở miệng’ xin cha anh ‘con dê con’ lần nào chưa?” Hay, anh hai “nghi ngờ” rằng thì-là-mà cha anh là một người hà khắc, keo kiệt, bủn xỉn v.v… và v.v… ?
Không… Thiên Chúa (được ví như người cha trong dụ ngôn), đã được Đức Giê-su truyền dạy, rằng: “Cứ xin thì sẽ được”. Ngài nói tiếp: “Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn? Vậy nếu anh em vốn là kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em. Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho những kẻ kêu xin Người sao?”
Thế nên, nếu chúng ta là người anh cả, “đừng ganh tỵ nhau”, thánh Phao-lô khuyên thế. Cũng đừng nghi ngờ tình yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa (người cha). Hãy vào “nhà Cha”. Trước là thưởng thức món “bê thui”, sau rồi, hãy tin người Cha nhân hậu sẽ cho ta con “dê béo” và tất nhiên, sau đó là thưởng thức tiếp món “lẩu dê” với bạn bè. Nói tắt một lời: hãy tin vào “lòng Chúa thương xót”.
Cuối cùng, trong từng giai đoạn của đời người, rất có thể, có lúc, chúng ta là “người con thứ” đầy kiêu hãnh và ngạo mạn, với một gia tài là học vấn và kiến thức, sẵn sàng rời bỏ mái ấm “gia đình Kitô giáo”, tìm đến những vùng đất xa lạ, để phung phí giá trị của tự do, mà Thiên Chúa đã ban cho, để khước từ niềm tin truyền thống, mà Giáo Hội đã truyền dạy, để buông mình vào đam mê và dục vọng, để háo hức tìm kiếm chủ thuyết mới, những chủ thuyết chỉ sản sinh bạo lực lẫn hận thù, để lớn tiếng hô hào tự do luyến ái, tự do phò lựa chọn, tự do thờ quấy và phù phép v.v…
Không… tất cả những thứ đó, cuối cùng, rồi cũng dẫn chúng ta đến những “cơn đói” khác, nghiêm trọng hơn. Đó là, những cơn đói, “đói tiền, đói tình, đói quyền lực, đói danh vọng”, những cơn đói mang nặng “thú tính”.
Vâng, chỉ là một chút suy tư. Điều quan trọng hơn, đó là, sau khi đọc xong dụ ngôn “người cha nhân hậu”, có điều gì tác động lên tâm hồn của chúng ta?
Nhà thần học người Hà Lan, Henri Nouwen, sau khi đọc, thú nhận, câu chuyện này đã tác động phần nào cuộc hành trình tâm linh của ông. Và ông đã để lại một lời khuyên, khuyên rằng, “tất cả mọi người Kitô hữu, kể cả ông, luôn phải chiến đấu để được giải thoát khỏi những ‘sự yếu đuối’ cố hữu, thể hiện qua tính cách của hai anh em, hầu có thể trải nghiệm sự tăng trưởng tâm linh mà trở thành người cha hy sinh, sẵn sàng ban cho và sẵn lòng tha thứ” (nguồn: internet).
Làm thế nào để chúng ta “có thể trải nghiệm sự tăng trưởng tâm linh mà trở thành người cha hy sinh, sẵn sàng ban cho và sẵn sàng tha thứ”?
Thưa, Lm Charles E. Miller, trong một bài giảng, có lời khuyên: “Hãy tự vấn lương tâm để nhận thức được nếp sống hiện tại của mình. Chúng ta cần thành khẩn tự nhủ, như đứa con hoàng đàng, về những gì mình đã làm và chưa làm được trong mối quan hệ với Thiên Chúa và với dân Ngài. Ta nên tự hỏi, mình đang hướng về đâu, trong cuộc sống đời này. Và khi nhận ra là cần phải thay đổi, ta nên tự ấn định một việc đền tội, phương pháp này sẽ giúp đảo ngược nếp sống chúng ta”.
Làm sao để chúng ta “nhận ra là (mình) cần phải thay đổi?’. Thưa, Lm. Charles E. Miller khuyên, đó chính là hãy tham gia cách nghiêm túc Bí Tích giải tội. Vâng, một cử chỉ khiêm hạ cho việc sám hối và trở về.
Đừng quên, xưa, người con thứ đã “come back home” và người cha đã “welcome home”. Còn ngày nay, nếu chúng ta “Sám hối và trở về – Chúa hoan nghênh”.
Petrus.tran