Ăn uống là nhu cầu không thể thiếu cho cuộc sống của con người. Thế nên, miếng ăn quả là quý nhất trên đời. Mạnh Kha, một nhà triết học Trung Hoa, có nói: “Dân dĩ thực vi tiên”.
Tuy nhiên, cũng là miếng ăn, nhưng có lúc: “miếng ăn là miếng tồi tàn. Mất ăn một miếng, lộn gan lên đầu”. Tại sao vậy? Thưa, chỉ vì, có người vì miếng ăn mà chém giết lẫn nhau. Có người vì miếng ăn mà làm mất đi nhân phẩm của mình. Có người quá chú trọng đến miếng ăn, quần quật suốt ngày cũng chỉ vì miếng ăn, bán cả danh cả tiếng chỉ vì miếng ăn, cầu cạnh cho được bả vinh hoa phú quý, suốt đời chạy theo miếng ăn, sống chết vì miếng ăn. Nhiều khi chỉ vì miếng ăn mà quên cả đại nghĩa.
Những người nêu trên, họ quên, có câu cách ngôn xưa dạy rằng: “Manger pour vivre et non vivre pour manger – Ăn để sống chớ không phải sống để ăn”.
Nói tới “ăn để sống”, Đức Giê-su còn đi xa hơn nữa. Trong một lần bị cám dỗ bởi miếng ăn do Sa-tan đem lại, Ngài đã tuyên bố rằng: “Người ta sống không chỉ bởi cơm bánh, nhưng còn nhờ vào lời miệng Thiên Chúa phán ra”.
Thật vậy, con người không đơn thuần chỉ có cuộc sống thể lý, mà còn có cuộc sống tâm linh. Có thể nói, đó là mối ưu tư hàng đầu trong những ngày Đức Giê-su còn tại thế.
Ngay trong những ngày đầu ra đi rao giảng Tin Mừng, Ngài đã nói với dân chúng rằng: “Đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc… Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (x.Mt 6, 25-34)
Rồi sau này, nhân một chuyến trở về Ca-phac-na-um, đối mặt trước một đoàn dân đông đúc, vì nhu cầu miếng ăn, nên đã tìm đến Ngài, Đức Giê-su đã có một cuộc nói chuyện thẳng thắn và chân tình, để nói với họ rằng: họ còn một cuộc sống tâm linh, họ cần một thứ “bánh bởi trời”, thứ bánh mà Ngài sẽ cho họ, đó là: “bánh trường sinh”.
Vâng, cuộc nói chuyện đó đã được kể lại, rằng: Hôm đó, sau biến cố hóa bánh ra cho năm ngàn người ăn, Đức Giê-su đã lánh mặt, đi lên núi một mình. Còn các môn đệ thì xuống bờ Biển Hồ, rồi xuống thuyền đi về phía Ca-phác-na-um.
Riêng đám đông dân chúng, họ “còn đứng ở bờ bên kia Biển Hồ”. Thật đáng khen cho nhãn quan của họ, từ ở-bờ-bên-kia, họ “thấy rằng ở đó chỉ có một chiếc thuyền và Đức Giê-su lại không xuống thuyền đó với các môn đệ”.
Hồi đó, chưa có “cell phone”, thế mà không hiểu bằng cách nào, nguồn tin “Đức Giê-su cũng như các môn đệ đều không có ở đó” đã được truyền tải tới rất nhiều người. Lập tức, không ai bảo ai “họ xuống thuyền đi Ca-phác-na-um tìm Người”(x.Ga 6, 24).
Kinh Thánh có chép rằng: “Các ngươi tìm ta, và gặp được, khi các ngươi tìm ta hết lòng” (Gr 29, 13) Và quả thật, hôm đó, tấm lòng của họ đã được đáp ứng. Ở bên kia Biển Hồ, họ gặp thấy Đức Giê-su. Gặp thấy Người, họ nói: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?”
Theo Bạn, câu hỏi này, có gì đáng trách? Ấy thế mà, Đức Giê-su đã trách họ. Trách họ, bởi Đức Giê-su đã nhìn thấu suốt tấm lòng họ, một tấm lòng nhuốm đầy ý nghĩ trần thế.
Vâng, Đức Giê-su đã trách rằng: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”.
Trước đám đông đang còn kinh ngạc về sự nhận xét đó, Đức Giê-su tiếp lời truyền dạy, rằng: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực hay hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận” (x Ga 6, 27).
Nếu… nếu là chúng ta hôm nay, có lẽ sẽ không một ai phản đối lại lời nói của Đức Giê-su. Nhưng, với các người Do Thái xưa, thật khó để mà họ “tin”… Làm sao họ có thể tin Ngài chính là “Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận… Đấng Người đã sai đến”… trong khi rõ ràng họ thấy Đức Giê-su chỉ là “con ông Giu-se”! Chính vì thế, họ đòi Đức Giê-su phải “làm được dấu lạ” nào đó, cho họ thấy để họ tin.
Đáng tiếc thay! Cuộc gặp gỡ giữa họ với Đức Giêsu, hôm đó, đã không có tiếng nói chung. Đức Giê-su đã không thể thỏa lòng họ, là những kẻ, chỉ nghĩ đến những chuyện liên quan tới sự sống “trần gian”.
Có lẽ, điều họ mong đợi, đó là, phải chi Đức Giê-su là Mô-sê tái thế, để họ có một loại “manna mới”, một loại bánh, như họ nói “Tổ tiên chúng tôi đã ăn… trong sa mạc”.
Đó là một sự mong đợi sai lầm. Sứ điệp Đức Giê-su muốn gửi đến họ, cũng như cho chúng ta hôm nay, đó là sự nhận biết về một sự sống “trên trời”. Sự sống đó phải được nuôi dưỡng bởi “bánh Thiên Chúa ban là Bánh Từ Trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian”.
Hôm đó, tại Caphacnaum, Đức Giêsu dõng dạc tuyên bố trước cử tọa rằng: “Chính tôi là bánh trường sinh” (Ga 6, 35).
Thật ra, Đức Giêsu không phải là không quan tâm đến nhu cầu “thuộc thể” của con người. Không phải một lần, mà là đến những hai lần, Đức Giê-su đã hóa bánh ra nhiều cho mọi người ăn. Lần thứ hai đã được ghi trong Tin Mừng Mác-cô (x.Mc 8, 1-10).
Hãy thử tưởng tượng, nếu Đức Giê-su đến thế gian chỉ để làm những việc chữa bệnh, hóa bánh ra nhiều vv… thì có lẽ hôm nay, có nhớ đến Ngài, cùng lắm, người ta cũng chỉ nhớ đến Ngài như một danh y hoặc một nhà từ thiện nào đó.
Vai trò và sứ vụ của Đức Giêsu đến thế gian, là “để ai tin… thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Thế nên, là một Ki-tô hữu, hãy nghe lời Đức giê-su truyền dạy, rằng: “Đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây?
Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó” (x.Mt 6, 31-32) Vậy, chúng ta sẽ cần gì? Thưa, thánh Phao-lô có lời khuyên, đó là “Đừng ăn ở như dân ngoại”.
Thế nào là đừng-ăn-ở-như-dân-ngoại? Thưa, cũng theo lời khuyên của thánh nhân, đó là: “cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối”(x.Ep 4, 22).
Thế nào là “Những ham muốn lừa dối…?”. Thưa, nó cũng giống như sự ham muốn của nguyên tổ Adam và Eva xưa, ham được “như những vị thần biết điều thiện điều ác” (x.Stk 3, …5). Và, điều đã xảy ra cho sự ham muốn đó chính là: “Mắt hai người mở ra, và họ thấy…” – thấy gì? Mời quý vị đọc tiếp ở sách Sáng thế ký, đoạn 3, câu 7.
Vâng, xã hội hôm nay có rất nhiều “những ham muốn lừa dối” lôi cuốn chúng ta. Một trong nhưng ham muốn dễ lôi cuốn chúng ta nhất, đó là: ham ăn ngon mặc đẹp… Thế nhưng, liệu đó có phải là cứu cánh của cuộc đời ta? Có lẽ, câu trả lời dành cho mỗi chúng ta.
Nhưng, chắc hẳn mỗi chúng ta đều biết, trong thực tế đã chứng minh rằng: có những người giầu có, ăn ngon mặc đẹp, thế mà họ vẫn không muốn sống; trong khi có những người tuy nghèo khó thiếu thốn, nhưng họ vẫn sống và sống rất hạnh phúc.
Thêm một ví dụ điển hình nữa. Ngày nay, có nhiều người giàu có. Của ăn của để không hết, nhờ vào “ăn đất đai, ăn dự án, ăn công trình… ăn hối lộ” v.v… thế mà, cuộc sống của họ như chỉ mành treo chuông. Thực tế đã cho thấy, đã có nhiều anh ba, anh tư, anh năm “bội thực” và “đứt bóng”.
Như đã nói ở trên, là một Ki-tô hữu, chúng ta còn có một cuộc sống tâm linh, một cuộc sống cần được nuôi dưỡng bởi lương thực bởi trời, lương thực đích thực.
Ai… ai sẽ cung cấp cho chúng ta thứ lương thực đó? Thế gian này ư! Thưa, không phải. Người cung cấp chính là Đức Giê-su – Chúa chúng ta, như Ngài đã nói khi xưa, “Chính tôi là bánh trường sinh”.
Chỉ cần… chỉ cần một động tác, bước lên thuyền. Tất nhiên, phải là con thuyền mang tên “Hội Thánh”. Con thuyền Hội Thánh sẽ đưa chúng ta tới bàn tiệc Thánh Thể. Việc còn lại, đó là chúng ta hãy cất tiếng nói với Đức Giê-su, rằng: “Thưa Ngài, xin cho chúng con được ăn mãi thứ bánh ấy”. Vâng, trước bàn tiệc Thánh Thể, hãy thưa với Chúa: “Thưa Ngài, xin cho con được ăn…”
Petrus.tran