“Thẩm Quyền”
Fr. Timothy Radcliffe OP, nguyên Tổng Quyền Dòng Đa Minh
Sẽ chẳng có cuộc đối thoại hiệu quả giữa chúng ta, nếu chúng ta không nhận ra rằng mỗi người nói với thẩm quyền. Tất cả chúng ta đều được chịu phép rửa trong Chúa Kitô là tư tế, ngôn sứ và vương đế. Ủy ban Thần học Quốc tế, trong tài liệu Về Cảm thức đức tin, trích thư Gioan: “Phần anh em, anh em nhận được dầu, do tự Đấng Thánh, và tất cả anh em đều được ơn hiểu biết…Phần anh em, dầu mà anh em đã lãnh nhận từ Đức Kitô ở lại trong anh em, và anh em chẳng cần ai dạy dỗ nữa vì dầu của Người dạy dỗ anh em mọi sự.” (1Ga 2, 20.27).
Nhiều giáo dân đã ngạc nhiên vì trong tiến trình chuẩn bị cho Thượng Hội Đồng lần này, họ thấy mình lần đầu tiên được lắng nghe. Họ nghi ngờ thẩm quyền của chính mình và đặt câu hỏi, “Có thật là tôi có thể trao tặng điều gì đó?”(B.2.53). Nhưng không chỉ giáo dân mới thấy mình thiếu đi thẩm quyền. Cả Giáo Hội đang bị ảnh hưởng bởi một cuộc khủng hoảng về thẩm quyền. Một Tổng Giám mục Á châu phàn nàn mình không còn có thẩm quyền. Ngài nói: “Các linh mục đều là những nam tước độc lập, họ không còn để ý đến tôi.” Nhiều linh mục cũng nói, họ không còn uy nữa. Cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục đã làm chúng ta mất đi uy tín.
Toàn thế giới cũng đang phải chịu một cuộc khủng hoảng về thẩm quyền. Nhiều tổ chức đánh mất thẩm quyền. Các chính trị gia, luật pháp, báo chí đều cảm thấy thẩm quyền của họ đang ngày càng cạn kiệt. Thẩm quyền dường như luôn thuộc về người khác: Hoặc là nơi có những kẻ độc tài đang nắm quyền chuyên chế hoặc thuộc các phương tiện truyền thông mới, hoặc thuộc về những người nổi tiếng và có tầm ảnh hưởng. Thế giới khao khát những tiếng nói có thẩm quyền cho ý nghĩa của cuộc sống con người. Thay vào đó, những tiếng nói nguy hiểm đang đe doạ lấp đầy chỗ trống. Đó là một thế giới mà sức mạnh của nó không đến từ thẩm quyền nhưng bằng các hợp đồng, ký kết ngay cả trong gia đình, đại học và trong Giáo Hội.
Vậy làm thế nào Giáo Hội có thể lấy lại thẩm quyền của mình và nói chuyện với thế giới đang khao khát một tiếng nói chân thực? Tác giả Tin Mừng Luca cho biết, khi Đức Giêsu giảng dạy, “Họ sửng sốt về cách Người giảng dạy, vì lời của Người có uy quyền”. (Lc 4,32). Người ra lệnh cho lũ quỷ và chúng tuân theo. Ngay cả gió và biển cũng vâng theo lệnh của Người. Đức Giêsu thậm chí còn có thẩm quyền triệu hồi người bạn đã chết của mình: “Ladarô, hãy ra khỏi mồ!” (Ga 11,43). “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.” (28,18) là những lời cuối cùng trong Tin Mừng Mátthêu.
Trong Tin Mừng Nhất Lãm, tại Cêsarê Philípphê, có một cuộc khủng hoảng lớn về thẩm quyền khiến cho cuộc khủng hoảng đương thời của chúng ta dường như chẳng là gì cả! Đức Giêsu nói với những người bạn thân tín, Người phải lên Giêrusalem, ở đó Người sẽ đau khổ, chết và sống lại. Các môn đệ không chấp nhận những lời này. Thế rồi Đức Giêsu đưa các ông lên núi và biến đổi hình dạng trước mặt các ông.
Thẩm quyền của Đức Giêsu được tỏ lộ bằng sự biến đổi trong vinh quang dưới sự chứng giám của Môsê và Êlia. Đó là một thứ thẩm quyền chạm đến đôi tai, con mắt, tâm hồn và trí khôn của các môn đệ. Hay khác đi, nó tác động đến trí tưởng tượng của họ. Cuối cùng họ lắng nghe lời Người!
Phêrô khi ấy được tràn ngập niềm vui và thốt lên: Chúng con ở đây thì tốt quá! Teilhard de Chardin nói một câu nổi tiếng: “Niềm vui là dấu hiệu không sai lầm về sự hiện diện của Chúa”. Đây là niềm vui mà Sơ Maria Ignazia đã nói sáng nay, niềm vui của Mẹ Maria. Không có niềm vui thì không ai trong chúng ta có chút thẩm quyền nào. Chẳng ai tin nổi một Kitô hữu khốn khổ! Trong Cuộc Biến Hình, niềm vui này phát xuất từ ba nguồn: vẻ đẹp, sự thiện và sự thật. Chúng ta có thể kể đến nhiều loại thẩm quyền khác. Tài Liệu Làm Việc (Instrumentum Laboris) của Thượng Hội Đồng nhấn mạnh đến thẩm quyền của người nghèo. Còn có thẩm quyền khác thuộc về truyền thống và phẩm trật cùng với sứ vụ hiệp nhất.
Điều tôi muốn khai triển sáng nay chính là sự đa dạng của thẩm quyền và sự hỗ tương giữa chúng. Không nhất thiết phải có sự cạnh tranh, như thể giáo dân sẽ chỉ có nhiều thẩm quyền hơn nếu thẩm quyền của các Giám mục giảm bớt lại, hay những người gọi là bảo thủ cạnh tranh thẩm quyền với những người cấp tiến. Chúng ta có thể bị cám dỗ ném lửa vào những người mà chúng ta coi là những kẻ chống đối chúng ta, giống như các môn đệ trong bài Tin Mừng hôm nay (Lc 9, 51-56). Tuy nhiên, nơi Ba Ngôi không có sự cạnh tranh. Cha, Con và Thánh Thần không tranh giành quyền lực, cũng như không có sự cạnh tranh giữa bốn sách Tin Mừng.
Chúng ta sẽ nói với thẩm quyền cho thế giới đã lạc mất hôm nay nếu trong Thượng Hội Đồng này, chúng ta vượt qua các cách thức cạnh tranh để hiện hữu. Và thế giới sẽ nhận ra tiếng nói của vị mục tử đang kêu gọi nó đến sự sống. Chúng ta cùng xem xét cảnh tượng này trên núi, và nhận ra sự tương tác dưới những hình thức khác nhau của thẩm quyền.
Vẻ đẹp
Trước hết, ở đây có vẻ đẹp và vinh quang. Hai chữ này trong tiếng Do Thái đều có nghĩa giống nhau. Giám mục Robert Barron đã nói như vậy ở đâu đó – và xin thứ lỗi cho tôi, nếu tôi trích dẫn sai ý ngài, đó là vẻ đẹp là thứ có thể chạm đến ngay cả những người từ chối các hình thức thẩm quyền. Một cái nhìn có tính đạo đức sẽ bị dán nhãn: “Bạn là ai mà dám chỉ tôi cách sống?”. Thẩm quyền của giáo lý có thể bị bác bỏ vì cho rằng nó mang tính áp đặt: “Bạn là ai mà dám chỉ tôi cách phải suy nghĩ?” Nhưng ở nơi vẻ đẹp, có một thẩm quyền đụng chạm đến sự tự do thâm sâu của chúng ta.
Vẻ đẹp mở ra trí tưởng tượng của chúng ta về siêu việt, về quê hương mà chúng ta hằng mơ ước. Nhà thơ Dòng Tên Gerard Manley Hopkins gọi Thiên Chúa là “vẻ đẹp tự thân và là Đấng trao tặng vẻ đẹp”[1]. Thánh Tôma Aquinô bảo rằng cái đẹp bày tỏ cho chúng ta thấy cùng đích cuộc đời mình như mục tiêu hướng tới của mọi cung thủ.[2]
Không lạ gì khi trên núi Phêrô không biết mình phải nói gì. Cái đẹp đưa chúng ta lên tới những gì vượt quá ngôn từ. Người ta khẳng định, mọi thanh thiếu niên đều đã đi qua khoảnh khắc về cái đẹp siêu việt. Nếu họ không có người hướng dẫn, như các môn đệ đã có Môsê và Êlia, thì khoảnh khắc đó sẽ trôi qua. Khi tôi còn là một cậu bé mười sáu tuổi ở trường Dòng Biển Đức, tôi đã có một khoảnh khắc như vậy trong ngôi nhà nguyện to lớn của đan viện, và ở đó tôi được các tu sĩ khôn ngoan giúp tôi hiểu về nó.
Tuy nhiên, không phải mọi cái đẹp đều nói về Thiên Chúa. Các sĩ quan cấp cao của Đức Quốc Xã yêu thích nhạc cổ điển. Vào ngày lễ Chúa Biến Hình, người ta thả một quả bom nguyên tử xuống thành phố Hiroshima làm phát thứ ánh sáng ghê tởm nhái lại ánh sáng thần linh. Cái đẹp có khả răng quyến rũ và lừa dối. Đức Giêsu nói: “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế.” (Mt 23,27)
Như vẻ đẹp của Thiên Chúa ở trên núi sẽ chiếu toả rạng rỡ bên ngoài thành thánh, đó là lúc Thiên Chúa bày tỏ vinh quang trên thập giá. Vẻ đẹp của Thiên Chúa rạng ngời nhất ở nơi có vẻ xấu xí nhất. Người ta phải đến những nơi đau khổ để thoáng thấy vẻ đẹp của Thiên Chúa. Etty Hillesum, nhà thần bí Do Thái đã bị Kitô giáo thu hút khi tìm ra được cái đẹp ngay trong trại tập trung của Đức Quốc Xã: “Tôi muốn ở đó, ngay trong cái mà người ta gọi là “khủng khiếp” mà vẫn có thể thốt lên: “Đời thật tươi đẹp”[3].
Mỗi cuộc đổi mới của Giáo Hội đều kèm theo đó một sự hồi sinh về cái đẹp như thấy nơi các bức Icon của Chính Thống giáo, nhạc bình ca Grêgôriô, nghệ thuật Barốc chống Cải Cách (tôi thì không chuộng điều này!). Phong trào Cải Cách là một phần trong sự xung đột về cách nhìn nhận cái đẹp. Chúng ta cần sự đổi mới trong cách nhìn về cái đẹp như thế nào để có thể thoáng thấy siêu việt, nhất là ở những nơi bị tàn phá và khốn khổ? Làm thế nào chúng ta có thể làm lộ ra vẻ đẹp của thập giá?
Khi các tu sĩ Đa Minh đầu tiên đến Guatemala vào thế kỷ XVI, cái đẹp mở đường cho họ chia sẻ Tin Mừng với những người bản địa. Họ khước từ sự bảo hộ của thực dân Tây Ban Nha. Các anh em Đa Minh đã dạy cho các nhà buôn bản địa hát thánh ca, để họ hát khi lên vùng núi bán hàng. Việc này đã giúp em anh Đa Minh được mở đường tiến vào một vùng mà ngày nay còn gọi là Vera Paz – Hoà Bình Đích Thực. Nhưng rồi, bọn xâm lược ập đến và giết chết không chỉ những người bản địa mà cả những anh em Đa Minh đang tìm cách bảo vệ họ. Bài hát nào ngày hôm nay có thể mở đường bước vào châu lục mới của giới trẻ? Ai sẽ là nhạc sĩ, thi sĩ của chúng ta? Vậy tôi nghĩ cái đẹp sẽ mở ra trí tưởng tượng không giới hạn cho đích điểm của cuộc hành trình. Thế nhưng, giống Phêrô, chúng ta có thể bị cám dỗ muốn ở lại. Cần phải có cam kết với nhiều hình thức khác nhau của trí tưởng tượng để đưa chúng ta xuống núi, để vào cuộc đồng nghị đầu tiên trong hành trình lên Giêrusalem. Các môn đệ đã có được hai nhân vật giải thích cho những điều họ thấy, đó là Môsê và Êlia hay Lề Luật và các ngôn sứ, hoặc có thể nói, Sự Thiện và Sự Thật.
Sự Thiện
Môsê đã dẫn Ítraen ra khỏi cảnh nô lệ để được tự do. Nhưng Ítraen lúc đó lại không muốn đi. Họ khát khao có sự an toàn của Ai Cập. Họ sợ cái tự do của sa mạc, giống như các môn đệ sợ phải đi lên Giêrusalem. Trong tiểu thuyết Anh em nhà Karamazov của Dostoevsky, viên đại pháp quan tôn giáo khẳng định, “Đối với con người và xã hội loài người, không bao giờ có cái gì khó chịu đựng hơn tự do…Cuối cùng, họ sẽ mang tự do của họ đặt dưới chân chúng tôi và nói: Chẳng thà biến chúng tôi thành nô lệ, nhưng hãy cho chúng tôi ăn còn hơn.”[4]
Nơi các thánh, thẩm quyền là lòng can đảm. Các ngài thách thức chúng ta dám lên đường. Các ngài mời gọi chúng ta mạo hiểm cho cuộc hành trình tiến đến sự thánh thiện. Thánh nữ Têrêsa Bênêđícta Thánh Giá sinh ra trong một gia đình Do Thái giáo ngoan đạo, nhưng khi đến tuổi thiếu niên, ngài chọn sống vô thần. Một lần kia, tình cờ nhặt được cuốn tự thuật của Thánh Têrêsa Avila, ngài đã đọc suốt đêm. Thánh nữ nói rằng: “Khi đọc xong cuốn sách, tôi tự nhủ: Đây là sự thật.” Chính sự thật này đã dẫn thánh nữ đến cái chết ở trại tập trung Auschwitz[5]. Đây chính là thẩm quyền của sự thánh thiện. Nó mời gọi chúng ta trao quyền kiểm soát cuộc đời và để cho Thiên Chúa là Thiên Chúa.
Cuốn sách kinh điển nhất của thế kỷ XX là tiểu thuyết Chúa Tể của Những Chiếc Nhẫn do J.R.R. Tolkien viết. Đó thực sự là một cuốn tiểu thuyết thấm đẫm tinh thần Công giáo.[6] Tác giả cho rằng, tiểu thuyết đó là một sự lãng mãn của bí tích Thánh Thể. Các vị tử đạo là những người có thẩm quyền sớm nhất trong Giáo Hội vì các ngài đã can đảm dâng hiến tất cả. G. K. Chesterton đã nói: “Lòng can đảm gần như là một sự mâu thuẫn về mặt ngôn từ. Nó có nghĩa là một ước muốn mạnh mẽ được sống dưới hình thức sẵn sàng chết”[7]. Liệu chúng ta có sợ hãi khi đưa ra những vẫn đề có thể thách thức đức tin của chúng ta? Nhà thần học Đa Minh Herbert McCabe OP nói rằng: “Nếu bạn yêu, bạn có thể bị tổn thương, thậm chí có thể bị giết chết. Nhưng nếu không yêu, thì bạn đã chết rồi”. Các bạn trẻ sẽ không bị đức tin của chúng ta thu hút nếu đó chỉ là một đức tin bị thuần hoá.
“Tình yêu hoàn hảo loại trừ sự sợ hãi” (1Ga 4,18). Anh Michael Anthony Perry OFM, cựu Tổng Phục vụ Dòng Phanxicô nhận định: “Khi chịu phép rửa tội, chúng ta từ bỏ quyền sợ hãi”[8]. Tôi muốn nói rằng chúng ta đã từ bỏ quyền làm nô lệ cho sự sợ hãi. Người can đảm là người biết sợ hãi. Chúng ta chỉ có được thẩm quyền trong thế giới đầy sợ hãi này nếu chúng ta được nhìn nhận có sự liều lĩnh. Cách đây bốn trăm năm, khi anh chị em của chúng ta từ Châu Âu đến Châu Á rao giảng Tin Mừng, một nửa trong số họ đã chết vì bệnh tật, đắm tàu hay cướp biển, trước khi họ đến được mảnh đất truyền giáo. Liệu chúng ta có được lòng dũng cảm ra như điên dại của họ hay không?
Anh Henri Burin de Roziers O.P (1930-2017) là một luật sư người Pháp, có trụ sở tại vùng Amazon của Brazil. Anh lôi ra toà những địa chủ cỡ bự thường nô lệ hoá người nghèo, bắt họ phải làm việc trên những đồn điền rộng lớn của mình và thậm chí giết họ khi họ cố gắng trốn thoát. Henri nhận được vô số lời đe dọa giết chết. Anh được cảnh sát đề nghị bảo vệ, nhưng anh nghi ngờ, rất có thể chính những người trong số họ sẽ giết mình. Khi tôi đến chỗ của anh ấy, anh đưa tôi đến một căn phòng ngủ qua đêm. Sáng hôm sau, anh nói đêm qua mình không ngủ được vì sợ người ta tìm đến xử anh, nhưng vô tình bắt nhầm tôi!
Như vậy, thẩm quyền của cái đẹp chính là nó nói cho chúng ta đích điểm của cuộc hành trình, là quê hương mà chúng ta chưa từng thấy. Thẩm quyền của sự thánh thiện nói về chuyện phải lên đường nếu chúng ta muốn đến đích. Đó là thẩm quyền của những người dám hiến dâng mạng sống mình. Nhà thơ người Ireland Pádraig Pearse viết: “Tôi đã lãng phí những năm tháng tuổi trẻ huy hoàng Chúa ban chỉ để cố thử những điều không thể, vì nghĩ rằng chỉ chúng mới đáng tôi bỏ công sức. Lạy Chúa, nếu con còn năm còn tháng, con sẽ lại lần nữa phí phạm chúng nữa thôi. Con ném chúng ra khỏi mình.”[9]
Sự Thật
Giờ đây, chúng ta đến với ngôn sứ Êlia. Ngôn sứ là những người đi nói sự thật. Êlia thấu suốt sự ảo tưởng của các ngôn sứ giả của thần Baal cũng như ông đã nghe được tiếng thinh lặng êm dịu trên núi. Veritas – Sự Thật là khẩu hiệu của Dòng Đa Minh. Khẩu hiệu này đã thu hút tôi đến với các tu sĩ Đa Minh ngay cả trước khi tôi gặp họ. Điều này có lẽ là do Chúa quan phòng.
Thế giới của chúng ta đã không còn say đắm Sự Thật. Bây giờ có đầy những tin giả, những tuyên bố ngông cuồng trên mạng hay những thuyết âm mưu rồ dại. Tuy nhiên, ẩn sâu trong mỗi người là một bản năng không thể xóa bỏ với sự thật, và khi sự thật được công bố, nó lưu lại những dấu vết cuối cùng của thẩm quyền. Tài Liệu Làm Việc của Thượng Hội Đồng không ngại nêu lên những thách đố mà chúng ta phải giải quyết. Tài liệu công khai nói về niềm hy vọng và nỗi buồn phiền, sự giận dữ và niềm vui của Dân Chúa. Làm sao chúng ta có thể thu hút mọi người đến với Đấng là Sự Thật nếu chúng ta không thành thật với chính mình?
Tôi sẽ đề cập đến hai cách thức mà trong đó việc nói lên sự thật cần có trong truyền thống ngôn sứ. Trước hết, đó là việc thành thật nói lên niềm vui và đau khổ của nhân loại.
Bartolome de Las Casas đã sống một cuộc đời tầm thường tại đảo Hispaniola trước khi anh đọc bài giảng của người anh em Antonio de Montesinos dòng Đa Minh giảng vào Mùa Vọng năm 1511. Bài giảng chống lại những kẻ đi xâm lược khi tố cáo họ bắt những người dân bản địa làm nô lệ: “Hãy nói cho tôi biết, các anh lấy quyền nào hay dựa vào lối giải thích nào của công lý mà các anh bắt những người thổ dân này phải chịu cảnh nô lệ tàn nhẫn và khủng khiếp như vậy? Với thẩm quyền nào mà các anh đã tiến hành những cuộc chiến tranh ghê tởm như vậy đối với những người từng sống rất yên bình trên chính mảnh đất của họ?”. Khi đọc được những điều này, Las Casas biết đó là sự thật và đã hoán cải. Vì vậy, trong Thượng Hội đồng này, chúng ta hãy lắng nghe những người sẽ nói một cách trung thực về “niềm vui và hy vọng, nỗi đau buồn và nỗi thống khổ của con người trong thời đại chúng ta”. (Gaudium et Spes 1).
Vì sự thật, chúng ta cũng cần có những quy tắc mang tính học thuật để chống lại cám dỗ muốn sử dụng Lời Chúa và giáo huấn của Hội Thánh quy vào mục đích của cá nhân mình. “Chúa hẳn phải đúng thôi vì Người thuận với tôi”. Chẳng hạn, các nhà Kinh Thánh đưa chúng ta trở về với các bản văn gốc trong tính xa lạ và khác biệt của chúng. Khi tôi nằm trong bệnh viện, một anh y tá bảo, ước gì anh ấy biết tiếng Latinh để đọc Kinh Thánh bằng ngôn ngữ gốc. Tôi không biết nói gì! Các học giả Kinh Thánh cự lại bất kỳ nỗ lực nào muốn đưa Kinh Thánh hay Truyền Thống vào các chiến dịch mang tính cá nhân. Lời Chúa thuộc về Chúa. Hãy vâng nghe Lời Người. Chúng ta không sở hữu sự thật. Sự thật sỡ hữu chúng ta.
Mọi tình yêu đều mở rộng chúng ta đến với sự thật nơi người khác. Chúng ta nhận ra sự thật vẫn có đó theo cách thức chúng ta không thể biết được. Chúng ta không thể sở hữu người khác hay sử dụng người khác cho mục đích của riêng mình. Chúng ta yêu họ trong sự khác biệt, trong cái tự do không thể bị kiểm soát của họ.
Vì vậy, trên núi Biến Hình, chúng ta thấy thẩm quyền với nhiều hình thức khác nhau được đưa ra nhằm giúp các môn đệ đi qua cuộc khủng hoảng lớn về uy quyền xảy ra tại Cêsarê Philípphê. Các thẩm quyền này và các thẩm quyền khác đều cần thiết. Không có sự thật, vẻ đẹp có thể trở nên trống rỗng như ai đó đã nói: “Vẻ đẹp ở nơi sự thật, sự thiện ở nơi món ăn”. Không có sự thiện, cái đẹp có thể bị lừa dối. Sự thiện mà không có sự thật sẽ bị hạ xuống thành cảm tính. Sự thật mà không có sự thiện sẽ đưa đến Toà Tra. Thánh John Henry Newman đã nói rất hay về các hình thức của thẩm quyền, quản trị, lý trí và kinh nghiệm.
Tất cả chúng ta đều có thẩm quyền, nhưng theo cách thức khác nhau. Thánh Newman nói, nếu quyền lực của chính phủ trở nên tuyệt đối thì chính phủ thành độc tài. Nếu lý trí trở thành thẩm phán duy nhất, chúng ta sẽ rơi vào chủ nghĩa duy lý khô khan. Nếu kinh nghiệm tôn giáo là thẩm quyền duy nhất thì mê tín sẽ chiến thắng. Thượng Hội Đồng giống như một dàn nhạc với các nhạc cụ và mỗi loại có âm thanh riêng. Đây là lý do tại sao truyền thống phân định của Dòng Tên rất hiệu quả. Sự thật không đến bằng đa số phiếu, nếu không, nó chẳng hơn chi một dàn giao hưởng hay một đội bóng được dẫn dắt bằng các lá phiếu!
Thẩm quyền của các vị hữu trách chắc chắn sẽ làm cho việc đối thoại trong Giáo Hội mang lại hoa trái, để không có tiếng nói nào lấn át hoặc bị chìm vào tiếng nói khác. Thẩm quyền cần nhận thức về một sự hài hoà ẩn giấu. Jonathan Sacks, đại giáo trưởng của Anh Quốc viết rằng: “Trong những thời điểm rối ren, cám dỗ dường như áp đảo của các vị lãnh đạo tôn giáo là trở nên giận dữ. Không những sự thật phải được công bố mà sự giả dối cũng phải bị lên án. Các chọn lựa phải trở nên rõ ràng. Không lên án đồng nghĩa với chấp nhận nó.” Tuy nhiên, ông lại khẳng định, “một ngôn sứ thì không chỉ nghe một nhưng đến hai mệnh lệnh: Quy tắc và lòng trắc ẩn, lòng yêu mến sự thật và tình liên đới bền vững đối với những người mà nơi họ sự thật trở nên mờ tối. Duy trì truyền thống nhưng đồng thời phải bảo vệ những người bị kết án là một nhiệm vụ khó khăn nhưng cần thiết của giới lãnh đạo tôn giáo trong thời đại phi tôn giáo”[10].
Mọi thứ quyền lực đều đến từ Ba Ngôi, Đấng mà trong Người mọi quyền lực đều được sẻ chia. Nhà thần học người Ý Leonardo Paris khẳng định rằng: “Chúa Cha thông chia quyền lực của Người. Với tất cả mọi người. Người sắp xếp cho mọi quyền lực như được chia sẻ ….Chúng ta không còn có thể trích thư Phaolô: “Không còn Do Thái hay Hy Lạp; nô lệ hay tự do; nam hay nữ; nhưng tất cả là một trong Đức Kitô Giêsu” (Gl 3,28) và yêu cầu tính đồng nghị mà không nhìn nhận rằng chính điều này có nghĩa là chúng ta phải đi tìm kiếm các hình thức cụ thể trong lịch sử để mỗi người đều nhận thấy, dù họ là anh này hay chị kia thì đều đang thừa hưởng quyền năng mà Chúa Cha đã muốn trao cho họ.”[11].
Nếu Giáo hội thực sự trở thành một cộng đồng mà quyền lực được chia sẻ cho nhau thì chúng ta sẽ có thể nói chuyện với nhau bằng thẩm quyền của Chúa. Trở nên một Giáo Hội như vậy sẽ gây đau đớn nhưng cũng thật đẹp. Chúng ta sẽ xem xét điểm này ở bài chia sẻ cuối cùng.
Chuyển dịch: Tôma Trần Hiệu, OP.
Hiệu đính: Giuse Nguyễn Cao Luật, OP.
[1] ‘The Golden Echo’
[2] ST III. 45
[3] An Interrupted Life: The Diaries and Letters of Etty Hillesum 1941 – 43, Persephone Books, London, 2007, p. 276
[4] ND: Trích trong Dostoevsky, Anh em nhà Karamazov, dg. Phạm Mạnh Hùng, (Hà Nội: Văn học, 2019), tr. 335-336
[5] ND: Biến cố đọc được cuốn tự thuật của thánh Têrêsa Avila được coi như bước ngoặt để triết gia Edith Stein, sau này là Bênêđícta Thánh Giá, tìm hiểu để trở thành Công giáo, rồi nữ tu dòng Cát Minh và cuối cùng chết trong trại Auschwitz vì gốc gác Do Thái của mình.
[6] ND: Tiểu thuyết Chúa Tể của Những Chiếc Nhẫn là cuốn tiểu thuyết giả tưởng viết về một thế giới thuộc vùng Trung Địa, nơi có các tộc người Tiên (người Elves), người lùn Hobbit, lũ quỷ (Orcs), tộc người thường, tộc người lùn (Dwarfs)…Hành trình đầy cam go của Frodo và các bạn người Hobbit trên đường đi tiêu diệt chiếc nhẫn quyền lực ám chỉ đến cuộc hành trình đức tin của mỗi người Kitô hữu. Tác giả J.R.R Tolkien, một người Công giáo yêu mến Thánh Thể, đã khéo léo lồng ghép vào trong cuốn tiểu thuyết giả tưởng những chi tiết Công giáo, chẳng hạn Đức Trinh Nữ Maria (nữ hoàng Galadriel), hay bí tích Thánh Thể (bánh Lembas, thứ bánh ăn một miếng đủ sức cho nhiều ngày hành trình). Cha Timothy rất thích tiểu thuyết này và hay trích dẫn nó trong các tác phẩm của ngài.
[7] Orthodoxy London 1996 p.134
[8] Benotti p.66
[9] Quoted by Cardinal Murphy-O’Connor, ‘Fiftieth Anniversary of Priesthood’, in Daniel P. Cronin, Priesthood: A Life Open to Christ (St Pauls Publishing, London, 2009), p. 134.
[10] ‘Elijah and the Still, Small Voice’, www.rabbisacks.org/covenant-conversation/pinchas/elijah-and-the-still-small-voice
[11] Leonardo Paris, L’erede. Una cristologia, Queriniana, 2021, pp. 220-221. Soon to be published in English by Brill, with a Foreword by Massimo Faggioli.
Nguồn https://catechesis.net/