“Tình bằng hữu”
Fr. Timothy Radcliffe OP, nguyên Tổng Quyền Dòng Đa Minh
Trong đêm trước khi chịu chết, Đức Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha: ‘xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, để họ nên một như chúng ta’ (Ga 17,11). Nhưng ngay từ đầu, trong hầu hết các bản văn Tân Ước, chúng ta thấy các môn đệ đã chia rẽ nhau, tranh cãi, loại trừ nhau. Chúng ta quy tụ nơi Thượng Hội đồng này bởi vì chúng ta cũng bị chia rẽ, rồi chúng ta hy vọng và cầu nguyện cho sự hợp nhất tâm trí. Điều này sẽ là lời chứng quý giá của chúng ta trong một thế giới bị chia cắt bởi xung đột và bất bình đẳng. Thân mình Đức Kitô phải thể hiện sự bình an mà Đức Giêsu đã hứa và thế giới khao khát.
Ngày hôm qua tôi đã trình bày hai nguồn gốc của sự chia rẽ: những niềm hy vọng tương phản nhau và những tầm nhìn khác nhau của chúng ta về Hội Thánh như là nhà. Nhưng chưa cần những căng thẳng này phải chia cắt chúng ta. Chúng ta là những người mang một niềm hy vọng vượt quá hy vọng, và một ngôi nhà Thiên quốc rộng lớn mà trong đó Thiên Chúa nói với chúng ta rằng có ‘nhiều chỗ ở’ (Ga 14,1).
Dĩ nhiên không phải mọi hy vọng hay ý kiến đều chính đáng. Nhưng chính thống thì mở rộng còn dị giáo thì thu hẹp. Chúa dẫn đàn chiên của Người ra khỏi chuồng chiên nhỏ bé để đến những đồng cỏ rộng lớn của đức tin. Vào Lễ Phục Sinh, Người sẽ dẫn họ ra khỏi căn phòng nhỏ bị đóng kín để vào trong sự vô biên nơi Thiên Chúa, ‘sự dồi dào của Chúa’[1]
Vậy chúng ta hãy cùng nhau lắng nghe Chúa Giêsu. Nhưng bằng cách nào? Một giám mục người Đức lo ngại về “giọng điệu gay gắt” trong các cuộc thảo luận của công nghị tại nước này. Ngài nói rằng các cuộc thảo luận ấy “giống như một cuộc trao đổi bằng những lời hùng biện” hơn là một cuộc thảo luận có trật tự.’[2] Tất nhiên, những cuộc thảo luận có lý lẽ thuyết phục và có trật tự là cần thiết. Là một tu sĩ Đa Minh, tôi không bao giờ có thể phủ nhận tầm quan trọng của lý trí! Nhưng còn phải hơn thế, nếu chúng ta muốn vượt qua sự khác biệt của mỗi người. Con chiên tin cậy vào tiếng của Chúa vì đó là tiếng của một người bạn. Thượng Hội đồng này sẽ gặt hái thành quả nếu đưa chúng ta đến một tình bằng hữu sâu sắc hơn với Chúa và với nhau.
Vào đêm trước khi chịu chết, Chúa Giêsu nói với các môn đệ sắp phản bội, chối bỏ và bỏ rơi Người rằng: “Thầy gọi anh em là bạn hữu” (Ga 15,15). Chúng ta được đón nhận tình bạn có sức chữa lành của Thiên Chúa, tình bạn ấy mở toang những cánh cửa ngục tù mà chúng ta tạo ra cho nhau. “Thiên Chúa vô hình đã ngỏ lời với loài người như với bạn hữu” (Vatican II, Dei Verbum, 2). Người đã mở con đường tiến vào tình bằng hữu vĩnh cửu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Tình bằng hữu này được dành cho các môn đệ của Người, cho những người thu thuế và những cô gái điếm, cho các nhà thông luật và ngoại kiều. Đó là hương vị đầu tiên của Vương Quốc.
Cả Cựu Ước lẫn Hy Lạp và La Mã cổ đại đều coi tình bằng hữu như trên là không thể. Vì tình bằng hữu chỉ nảy sinh giữa những người tốt. Tình bằng hữu với kẻ gian ác được coi là không thể. Như Thánh vịnh 26 viết: “Con không ngồi chung với quân xảo trá, chẳng giao du cùng bọn giả hình” (câu 4). Kẻ xấu không thể có tình bằng hữu vì họ chỉ cộng tác để làm những việc bất chính. Nhưng Thiên Chúa của chúng ta luôn hướng về những tình bạn khác thường. Người yêu Giacóp – kẻ lừa gạt; và Đavít một kẻ sát nhân và ngoại tình; và Salômôn – một ông vua thờ ngẫu tượng.
Ngoài ra, tình bằng hữu chỉ có thể có giữa những người cùng đẳng cấp. Nhưng ân sủng nâng chúng ta lên tới tình bằng hữu thiêng liêng. Thánh Tôma Aquinô nói: solus Deus deificat, “chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm cho chúng ta nên thần thánh.” [i] Hôm nay là lễ các Thiên thần hộ thủ, những dấu chỉ của tình bạn độc đáo mà Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta. Đức Thánh cha nói trong lễ các Thiên thần hộ thủ rằng: “Không có người lữ hành nào đi một mình và cũng đừng ai nghĩ mình cô đơn”[3]. Khi chúng ta bước vào cuộc hành trình, mỗi người đều được tình bằng hữu thiêng liêng bao phủ.
Việc rao giảng Tin mừng không bao giờ chỉ là truyền đạt thông tin. Đó là một hành động của tình bằng hữu. Một thế kỷ trước, Vincent McNabb OP đã nói: “Hãy yêu thương những người nghe bạn rao giảng. Nếu không thì đừng giảng. Hãy giảng cho chính mình.” Thánh Đa Minh được cho là được mọi người yêu mến vì ngài yêu thương tất cả mọi người. Xung quanh thánh Catarina Siena là một nhóm bạn hữu: nam nữ, giáo dân và tu sĩ. Họ được gọi là Caterinati, người của Catarina. Thánh Martinô Porres thường xuất hiện với một con mèo, một con chó và một con chuột đang ăn cùng một đĩa. Một hình ảnh đẹp về đời sống tu trì!
Không có tình bằng hữu nào giữa nam và nữ xảy đến dễ dàng trong Cựu Ước. Nước Trời đã xuất hiện nơi Chúa Giêsu, xung quanh Người là bạn bè, cả đàn ông và phụ nữ. Ngay cả ngày nay, nhiều người vẫn cho rằng không thể có một tình bạn trong sáng giữa nam và nữ. Đàn ông sợ bị buộc tội; phụ nữ sợ đàn ông bạo lực; giới trẻ sợ bị lạm dụng. Chúng ta phải là hiện thân cho tình bằng hữu rộng lớn của Thiên Chúa.
Vì vậy, chúng ta rao giảng Tin mừng với tình bằng hữu vượt qua những ranh giới. Thiên Chúa đã vượt qua sự phân cách giữa Đấng Tạo Hóa và thụ tạo. Chúng ta có thể xây dựng những tình bằng hữu bất khả thi nào? Khi chân phước Pierre Claverie được tấn phong làm giám mục Oran ở Algeria vào năm 1981, ngài đã nói với những người bạn Hồi giáo của mình rằng: “Tôi nợ các bạn những gì tôi có ngày hôm nay. Trong việc học tiếng Ả Rập với các bạn, trên hết, tôi đã học được cách nói và hiểu ngôn ngữ của con tim, ngôn ngữ của tình bằng hữu huynh đệ, nơi các chủng tộc và tôn giáo hòa hợp với nhau… Vì tôi tin rằng tình bằng hữu ấy đến từ Thiên Chúa và dẫn đến Thiên Chúa.’[4] Hãy chú ý, tình bằng hữu đã tạo nên con người của ngài!
Chính vì tình bạn này mà ngài đã bị bọn khủng bố sát hại cùng với một người bạn Hồi giáo trẻ tuổi, Mohamed Bouckichi. Sau lễ phong chân phước, một tiểu phẩm về tình bạn của các vị đã được diễn lại, Pierre et Mohamed. Mẹ của Mohamed đã xem tiểu phẩm về cái chết của con trai bà và bà đã ôm hôn nhân vật đóng vai con bà.
Tin vui mà những người trẻ đang chờ được nghe từ chúng ta đó là Thiên Chúa đến gặp gỡ họ trong tình bằng hữu. Đây là tình bằng hữu mà họ khao khát và tìm kiếm trên Instagram và TikTok. Khi còn là niên thiếu, tôi kết bạn với các linh mục Công giáo. Với họ, tôi đã khám phá ra niềm vui của đức tin. Than ôi, cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục đã làm cho những tình bạn như vậy bị nghi ngờ. Hơn cả tội phạm đến điều răn thứ 6, đó là tội chống lại tình bạn. Vòng tròn sâu nhất trong Thần Khúc của thi sĩ Dante được dành riêng cho những kẻ phản bội lại tình bạn.
Vì vậy, những gì chúng ta sẽ thực hiện trong Thượng Hội đồng này phải đặt trên nền tảng của tình bằng hữu mà chúng ta xây dựng. Có vẻ như không nhiều lắm. Điều đó sẽ không gây chú ý trên các phương tiện truyền thông. ‘Họ đến tận Rome để xây dựng tình bằng hữu! Thật lãng phí!’ Nhưng chính nhờ tình bằng hữu mà chúng ta sẽ thực hiện quá trình chuyển đổi từ ‘tôi’ sang ‘Chúng tôi’ (IL A. 1. 25). Không có điều này, chúng ta sẽ không đạt được gì cả. Khi Tổng Giám mục Anh giáo Robert Runcie, của Canterbury, đến gặp Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, ông đã thất vọng vì dường như không đạt được tiến bộ nào hướng tới sự hiệp nhất. Nhưng Đức Thánh Cha bảo ông hãy tin tưởng. “Tình cảm trong một tập thể đi trước hiệu quả của tập thể”
Tài liệu làm việc đề cập đến sự cô đơn của nhiều linh mục và “nhu cầu của các linh mục là sự chăm sóc, tình bạn và sự hỗ trợ” (B. 2.4., b). Điều cốt yếu của ơn gọi linh mục là nghệ thuật tình bạn. Đây là tình bạn vĩnh cửu, bình đẳng của Ba Ngôi Thiên Chúa. Khi đó mọi khuyết điểm của chủ nghĩa giáo sĩ trị sẽ tan biến. Ơn gọi của các bậc cha mẹ cũng có thể cô đơn và cần có tình bạn bền vững.
Tình bạn là một sứ mệnh có tính sáng tạo. Trong tiếng Anh chúng ta nói rằng chúng ta yêu nhau (fall in love) nhưng chúng ta kết bạn (make friends). Sau khi kể dụ ngôn “người Samari nhân hậu”, Chúa Giêsu hỏi người thông luật: “Trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?” (Lc 10,36). Người bảo các môn đệ rằng hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè (Lc 16,9). Trong Thượng Hội đồng, sứ mệnh có tính sáng tạo của chúng ta là xây dựng những tình bạn tưởng như không thể, đặc biệt với những người không cùng quan điểm với chúng ta. Nếu bạn nghĩ rằng tôi đang nói những điều vô lý, hãy đến và làm bạn với tôi!
Điều này nghe có vẻ lạ lùng! Hãy tưởng tượng tôi sẽ chinh phục bạn với quyết tâm sắt đá để kết bạn với bạn. Bạn sẽ muốn chạy trốn! Nhưng nền tảng của tình bạn chỉ là ở bên nhau. Đó là niềm vui khi có sự hiện diện của người ấy. Chúa Giêsu mời gọi những môn đệ thân tín, Phêrô, Giacôbê và Gioan, lên núi với Người, ba môn đệ này cũng sẽ ở với Người trong vườn Ghếtsêmani. Sau khi Chúa về trời, các môn đệ tìm kiếm một người khác để thay thế Giuđa, một người đã cùng sống với Chúa và với họ. Phêrô nói rằng người ấy phải là “những anh em đã cùng chúng tôi đi theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người sống giữa chúng ta, kể từ khi Người được ông Gioan làm phép rửa cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời.” (Cv 1,21) Thiêng đàng sẽ chỉ là nơi chúng ta được ở với Chúa. Trong Thánh lễ, chúng ta được nghe lời này bốn lần: “Chúa ở cùng anh chị em”. Đó là tình bạn thiêng thánh. Sơ Wendy Becket mô tả việc cầu nguyện là “gần gũi trước nhan Thiên Chúa”. Và cũng không cần phải nói điều gì.
Trong cuốn sách đề cập về tình bạn thiêng liêng, Thánh Aelred thành Rivaulx, Viện phụ Xitô ở thế kỷ 12, đã viết “Bạn và tôi, chúng ta ở đây, tôi hy vọng rằng Chúa Kitô trở thành trung gian giữa chúng ta. Bây giờ không ai có thể làm phiền chúng ta… Vì vậy, bạn thân mến, ngay bây giờ, hãy đến đây, hãy bộc lộ cõi lòng và nói lên suy nghĩ của mình.” Liệu chúng ta có dám nói lên suy nghĩ của mình không?
Tất nhiên, trong Tổng Hội Dòng Đa Minh, chúng tôi thảo luận rồi đưa ra quyết định. Ngoài ra, chúng tôi cũng cầu nguyện, đi dạo, ăn uống, và giải trí cùng nhau. Chúng tôi trao cho nhau món quà quý giá nhất, đó là thời gian. Chúng tôi xây dựng một đời sống chung. Từ đó, nảy sinh tình bạn tưởng chừng như không thể. Thật là lý tưởng nếu chúng ta làm điều đó trong ba tuần của Thượng Hội đồng thay vì đi dạo một mình vào cuối ngày. Hy vọng rằng chúng ta có thể thực hiện điều này tại các phiên họp tiếp theo của Thượng Hội đồng.
Tình yêu sáng tạo của Thiên Chúa cho chúng ta một khoảng không gian. Herbert McCabe OP đã viết: ‘Quyền năng của Chúa là quyền năng siêu việt để mọi thứ diễn ra như chúng là. “Hãy có ánh sáng” – sức mạnh sáng tạo chính là sức mạnh làm cho mọi sự trở nên là chính nó, hữu thể người là cái làm cho con người là, không thể can thiệp vào các thụ tạo. Rõ ràng việc sáng tạo không gây ra sự bất đồng nào đối với sự vật, hãy để chúng là chính chúng. Sự sáng tạo duy nhất và tuyệt đối chính là để mọi thứ diễn ra theo cách tự nhiên, và cách nào đó, tình yêu của chúng ta minh họa cho sự sáng tạo ấy.’[5]
Không nói lời nào cũng có thể coi là đủ. Một phụ nữ trẻ người Algeria tên là Yasmina đã để lại một mẩu giấy nhỏ nơi chân phước Pierre Claverie tử đạo. Cô ấy viết trên đó, “Thưa Cha, tối nay, con không có lời nào để nói. Nhưng con chỉ có nước mắt và hy vọng.’[6]
Nếu chúng ta ở bên nhau như thế này, chúng ta sẽ gặp nhau như thể mới gặp nhau lần đầu! Khi Chúa Giêsu dùng bữa với một người thuộc nhóm Pharisêu tên là Simon, thì có một phụ nữ, có thể đó là cô gái điếm, cô ấy bước vào và khóc, lấy nước mắt mà rửa chân cho Chúa Giêsu. Simon thấy ngạc nhiên. Ông Giêsu này có vẻ không biết cô ấy là ai? Nhưng Chúa Giêsu trả lời: “Ông thấy người phụ nữ này chứ? Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau” (Lc 7,44).
Dân Israel đã khao khát được nhìn thấy tôn nhan Thiên Chúa. Trong nhiều thế kỷ, Israel đã hát: ‘Xin toả ánh tôn nhan rạng ngời để chúng con được ơn cứu độ’ (Tv 80,4). Nhưng không thể thấy Thiên Chúa mà còn sống. Dân Israel khao khát một điều vượt quá sức chịu đựng, đó là ánh tôn nhan Thiên Chúa. Nơi Đức Giêsu, tôn nhan Thiên Chúa đã được mạc khải. Các mục đồng có thể nhìn Thiên Chúa như một trẻ thơ đang ngủ trong máng cỏ mà vẫn còn sống. Tôn nhan của Thiên Chúa trở nên hữu hình, nhưng đó cũng chính là Thiên Chúa – Đấng đã chết, đôi mắt của Người đã nhắm lại trên cây thánh giá.
Trong Kinh nguyện Thánh Thể II, chúng ta cầu nguyện cho những người đã qua đời được hưởng ánh sáng tôn nhan Chúa. Việc Nhập Thể làm cho Thiên Chúa trở nên hữu hình. Một nhà thần học cổ xưa, có lẽ là thánh Augustinô, ngài tưởng tượng ra cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và Tên trộm lành, người đã chết cùng với Chúa Giêsu. Người trộm lành nói: ‘Tôi không nghiên cứu chuyên sâu về Kinh Thánh. Suốt cuộc đời, tôi là một tên cướp. Nhưng trong nỗi đau và sự cô đơn, vào một thời điểm cụ thể, tôi thấy Chúa Giêsu đang nhìn tôi và qua cái nhìn của Người, tôi hiểu được tất cả.”[7]
Trong khoảng thời gian, từ khi Chúa Kitô đến lần thứ nhất cho đến ngày Người quang lâm, chúng ta phải hướng về nhau. Chúng ta nhìn thấy những người được xem như vô hình và nụ cười trên những người cảm thấy xấu hổ. Brian Pierce, một anh em Đa Minh người Mỹ, đã đến dự cuộc triển lãm tranh của các trẻ em đường phố ở Lima, Peru. Dưới bức ảnh của một em bé có chú thích: ‘Saben que existo pero no me ven’- “Họ biết tôi tồn tại, nhưng họ không nhìn thấy tôi”. Họ xem sự hiện diện của tôi như một vấn đề, một sự phiền toái, một con số thống kê, nhưng họ không nhìn thấy tôi!
Ở Nam Phi, lời chào phổ biến là ‘SAWABONA’, ‘Tôi thấy bạn’. Hàng triệu người cảm thấy vô hình. Không ai nhìn họ với sự công nhận. Thường thì người ta bị cám dỗ thực hiện hành vi bạo lực chỉ vì muốn người khác nhìn thấy họ! Nhìn này, tôi ở đây! Cảm giác bị coi là kẻ thù còn tốt hơn là bị xem như vô hình.
Thomas Merton bước vào đời sống tu trì vì muốn thoát khỏi sự gian ác của thế gian. Những năm sống trong Dòng Xitô đã mở mắt ngài trước vẻ đẹp và sự tốt lành của con người. Một ngày nọ, trên đường đi, mắt của ngài như sáng ra. Ngài viết trong nhật ký của mình: ‘Rồi như thể tôi chợt nhìn thấy vẻ đẹp ẩn giấu trong trái tim họ, sâu thẳm nơi trái tim họ, nơi mà tội lỗi, dục vọng hay sự hiểu biết về bản thân đều không thể chạm tới, đó là cõi thâm sâu của chính họ, mỗi người đều ở trong ánh nhìn của Thiên Chúa. Giá như họ có thể nhìn thấy con người thật của mình. Giá như chúng ta có thể nhìn nhau như vậy mọi lúc. Sẽ không còn chiến tranh, không còn hận thù, không còn ham danh lợi.’[8]
Thế giới của chúng ta khao khát tình bằng hữu, nhưng nó bị biến chất bởi những khuynh hướng mang tính phá hoại: Sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân túy, trong đó mọi người gắn kết với nhau bằng những câu chuyện đơn điệu, những khẩu hiệu dễ dãi, và sự mù quáng của đám đông. Có một chủ nghĩa cá nhân cực đoan, nghĩa là tất cả những gì tôi có đều thuộc câu chuyện đời tư của tôi. Terry Eagleton đã viết ‘Những cuộc hành trình không còn mang tính cộng đồng nhưng chỉ còn là phục vụ cho bản thân, giống như đi nhờ xe hơn là một chuyến du lịch bằng xe khách. Những chuyến hành trình không còn là dịch vụ cho một số đông người nữa mà hầu hết được thực hiện một mình. Thế giới đã không còn là những tường thuật sống động nữa, nghĩa là bạn có thể tự tạo dựng cuộc sống của mình khi bạn tiến bước.’[9] Thế nhưng, ‘câu chuyện của tôi’ là câu chuyện của chúng ta, câu chuyện Tin mừng có thể được kể theo những cách tuyệt vời khác nhau.
Một điểm ngắn gọn cuối cùng, C. S. Lewis nói rằng những người yêu nhau thì nhìn vào nhau, còn bạn hữu thì cùng nhìn về một hướng. Họ có thể không đồng ý với nhau, nhưng ít nhất họ có chung một số nghi vấn. Tôi xin trích dẫn: “Bạn có quan tâm đến cùng một sự thật không?” Nếu một người đồng ý với chúng ta về một số vấn nạn, nhưng lại ít được những người khác – những người có vị thế, quan tâm, thì người ấy có thể là bạn của chúng ta. Người ấy không nhất thiết phải đồng ý với chúng ta về câu trả lời.’[10]
Điều dũng cảm nhất mà chúng ta có thể làm trong Thượng Hội đồng này là chân thành về những nghi ngờ và thắc mắc của chúng ta với nhau, những câu hỏi mà chúng ta không có câu trả lời rõ ràng. Khi đó chúng ta sẽ gần nhau với tư cách là những người cùng tìm kiếm, những người hành khất đi tìm chân lý. Trong tác phẩm Don Quixote của Graham Greene, có một linh mục Công giáo người Tây Ban Nha và vị thủ tướng cộng sản cùng nhau đi nghỉ. Một ngày nọ, họ dám chia sẻ những nghi ngờ của mình cho nhau. Vị linh mục nói, ‘thật kỳ lạ khi việc chia sẻ những nghi ngờ lại có thể gắn kết con người lại với nhau, có lẽ còn hơn cả việc chia sẻ một đức tin. Người có đức tin sẽ đấu tranh với một người có đức tin khác vì sự khác biệt; người nghi ngờ chỉ chiến đấu với chính mình.’[11]
Đức Thánh cha Phanxicô đã nói trong cuộc đối thoại với Rabbi Skorka rằng: ‘Người lãnh đạo cao cả nhất của dân Chúa phải là những người phải biết dành chỗ cho sự hoài nghi…Và ai muốn trở thành người lãnh đạo dân Chúa thì phải dành cho Chúa một không gian; đó là phải thu mình lại, trải nghiệm nội tâm về việc không biết phải làm gì. Đó chính là dành không gian cho Thiên Chúa và hành động của Người.[12] Vì thế, để thu mình lại, rút lui vào bên trong với sự nghi ngờ, trải nghiệm nội tâm về sự tăm tối, về việc không biết phải làm gì; tất cả những điều đó, cuối cùng đều rất thanh khiết. Người lãnh đạo tồi là người tự tin nhưng bướng bỉnh. Một trong những đặc điểm của một người lãnh đạo tồi là quá chuẩn mực trong sự tự tin của mình.[13] (Thiên Đàng và Trần Thế, 52)
Nếu không chia sẻ những mối bận tâm về chân lý, vậy điều gì là nền tảng cho tình bằng hữu ở đây? Rất khó để có tình bằng hữu trong xã hội của chúng ta, một phần bởi vì xã hội hoặc đã mất sự tin tưởng vào chân lý, hoặc vẫn bám vào những chân lý nền tảng hạn hẹp mà không thể bàn cãi. Solzhenitsyn nói ‘một lời chân lý có giá trị hơn toàn bộ thế giới’[14]. Một trong những người anh em của tôi đi xe buýt nghe thấy câu chuyện của hai người phụ nữ ngồi trước anh. Một người phàn nàn về những đau khổ mà cô phải chịu, người còn lại nói: “Em tôi ơi, em phải thản nhiên về điều đó”. “Thản nhiên” có nghĩa là gì? “Nó có nghĩa là đừng suy nghĩ về điều đó.”
Tình bằng hữu triển nở khi chúng ta dám chia sẻ những nghi ngờ của nhau và cùng nhau tìm kiếm sự thật. Điều gì có thể trao đổi với những người đã biết mọi thứ rồi, hoặc những người hoàn toàn đồng ý? Nhưng làm thế nào chúng ta có thể làm được điều này? Đó là chủ đề của bài chia sẻ tiếp theo.
Chuyển dịch: Raymunđô Hoài Thanh OP & Đa Minh Anh Vũ OP
Hiệu đính: Giuse Nguyễn Cao Luật OP
[1] Earliest use found in Thomas Bacon (1512/13–1567)
[2] The Tablet, Christa Pongratz-Lippitt 20 March 2023
[3] Homily for the Feast of the Guardian Angels, 2014
[4] Cardinal Murphy O’Connor, A Life Poured Out, p. viii
[5] God Matters, Darton, Longman and Todd, London, 1987, p. 108
[6] Paul Murray OP, Scars: Essays, poems and meditations on affliction, Bloomsbury 2014, p. 47
[7] Quoted by Paul Murray OP, Scars p. 143
[8] quoted Willam H. Shannon Seeds of Peace: Contemplation and non-violence New York 1996 p. 63
[9]Terry Eagleton, “What’s Your Story?”, in London Review of Books, February 16, 2023 https://www.lrb.co.uk/the-paper/v45/n04/terry-eagleton/what-s-your-story
[10] P. 66
[11] Monsignor Quixote. New York: Peguin Classics (1982) 2008, pg 41
[12] Theo bản dịch tiếng Ý.
[13] Bergoglio, Jorge Mario and Abraham Skorka. On Heaven and Earth. New York: Image (2010) 2013 p.52 quoted in Marc Bosco, SJ ‘Colouring Catholicism: Green in the Age of Pope Francis?
[14] Discorso al conferimento del premio Nobel 1970, “Una parola di verià”
Nguồn https://catechesis.net/