Theo lịch Phụng Vụ, Chúa Nhật hôm nay, chúng ta bước vào tuần thứ ba mùa Phục Sinh. Trong những tuần này, qua phần phụng vụ Lời Chúa, chúng ta được nghe lại những biến cố đã xảy ra liên quan đến sự Phục Sinh của Đức Giê-su.
Vâng, được-nghe-lại, và tất nhiên chúng ta tin, tin và chúng ta vẫn luôn tuyên xưng vào mỗi thánh lễ Chúa Nhật, rằng: “Vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế. … Người chịu đóng đinh vào thập giá vì chúng ta, thời quan Phongxiô Philatô; Người chịu khổ hình và mai táng, ngày thứ ba Người sống lại như lời Thánh Kinh.”
Với các môn đệ xưa, niềm tin vào Đức Giê-su Phục Sinh, là một niềm tin tiệm tiến. Gọi là tiệm tiến vì đã có lần khi Ngài hiện đến, cac ông lầm tưởng đó “là ma”. Cho tới khi Đức Giê-su Phục Sinh “mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh”, các ông mới có được một niềm tin thật sự vào sự Phục Sinh của Thầy mình. Sự kiện này đã được ghi lại trong Tin Mừng thánh Luca.
Vâng, tính từ thứ sáu, ngày Thầy Giê-su bị bắt và bị đóng đinh trên thập giá tại đồi Golgotha, các môn đệ của Ngài tuy sống nhưng cũng như đã chết, các ông mất phương hướng, cuộc sống của các ông chỉ là sợ hãi và bất an.
Làm sao không bất an và sợ hãi cho được. Bởi, lúc đó chung quanh các ông toàn là những tin đồn bất lợi. Nhóm thượng tế và kỳ mục đã có một hành động hết sức ma mãnh. Họ chi một một số tiền lớn cho bọn lính canh mộ và bảo nhóm lính đó hãy tung tin đồn rằng, vào ban đêm “các môn đệ của ông Giêsu đã đến lấy trộm xác”, và đó chính là nguyên nhân khiến các ông bất an.
Sự bất an đó đã làm cho các ông, dù đã nhận được nguồn tin từ bà Maria Macdala, rằng bà ta “đã thấy Chúa”, vẫn cho là “tin vớ vẫn”. Ngay cả một nguồn tin thân cận, do hai người môn đệ trong lúc “nhọc nhằn lê gót chân buồn” trở về làng Emmau, cho biết, họ đã gặp Thầy Giêsu và họ “nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh”, vẫn chưa đem đến cho các môn đệ niềm xác tín rằng Thầy Giê-su Phục Sinh.
Hôm ấy, trong khi “các ông còn đang nói thì chính Đức Giê-su đứng giữa các ông và bảo: Bình An cho anh em.” Là một lời chúc bình an, ấy thế mà các ông lại bất an, bất an đến nỗi Phêrô cũng như toàn thể đồng môn mình “kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma”.
Ôi! không thể tin được! Mới chỉ có chưa đầy ba ngày mà các ông đã không nhận ra dung nhan Thầy mình. Phải chăng, vì các ông quá sợ, sợ rằng: nếu đúng là Thầy Giê-su, chắc hẳn Ngài sẽ quở trách về việc “chối Thầy… bỏ Thầy”?
Thưa, không phải thế. Trái lại, hôm ấy, Đức Giêsu tiến về phía các ông không một lời quở trách, mà là một lời trấn an, trấn an rằng: “Sao lại hoảng hốt. Sao lòng anh em còn ngờ vực. Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà. Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” Thế rồi, Đức Giê-su “đưa tay chân ra cho các ông xem”. Để khẳng định mình là “người”, Đức Giê-su hỏi: “Ở đây anh em có gì ăn không?” Vâng, hôm ấy Đức Giê-su đã “cầm lấy và ăn trước mặt các ông” sau khi “các ông đưa cho Người một khúc cá nướng” (x.Lc 24, 41-42)
Sau đó, như người mục tử xót xa trước đàn chiên bơ vơ không người chăn dắt, Đức Giêsu nói với các ông rằng: “Tất cả những gì sách luật Môse, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm”.
Cuối cùng Người “mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh”. Đức Giê-su muốn các ông hiểu rằng: “Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại… Chính anh em là chứng nhân về những điều này”.
Hôm ấy, thông điệp Đức Giê-su đã truyền cho các ông, đó là: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này”. Các môn đệ có vâng nghe và thực thi lời truyền dạy của Đức Giê-su? Vâng, hỏi để mà hỏi mà thôi. Các môn đệ, tuy lúc đầu có thoáng chút nghi nan, nhưng sau này, nhất là sau khi nhận lãnh ơn Chúa Thánh Thần, các ngài đã trở thành những “chứng nhân” đích thực về một Đức Giê-su Phục Sinh.
Một điều chúng ta nên biết, hầu hết tất cả các tông đồ đều đã “tử đạo” để làm chứng cho niềm tin cứu độ, niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh. Máu tử đạo của các tông đồ đã xóa tan đi “lời than phiền” năm xưa của Đức Giêsu đối với các ông, rằng “Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực?”.
Thật vậy, sau này, dù phải đối mặt với các tư tế, các kỳ mục, các kinh sư, dù bị đánh đòn và cấm rao giảng Đức Giêsu Phục Sinh, nhưng những hình phạt đó vẫn không làm cho các ông “hoảng hốt”.
Ông Phêrô và các Tông Đồ khác vẫn hiên ngang làm chứng rằng “Đấng mà chính anh em đã nộp và chối bỏ… đã giết… nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết, về điều này chúng tôi xin làm chứng” (Cv 3, …13-14).
****
“Chính anh em là chứng nhân về những điều này”. Phải chăng, đây cũng là thông điệp Đức Giê-su truyền cho chúng ta, hôm nay? Thưa, đúng vậy. Trong một thế giới tục hóa như hôm nay, một thế giới “chối bỏ Chúa”, việc làm chứng của chúng ta lại càng khẩn thiết hơn.
Chúng ta làm chứng như thế nào? Phải chăng là tuân theo lời truyền dạy của Đức Giê-su: “Nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân… kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội?”
Thưa, làm chứng như thế là một cách làm chứng đúng truyền thống. Thế nhưng, không phải ai cũng làm được. Phương cách dễ dàng nhất, và ai cũng có thể làm được, đó là hãy sống Lời Chúa, bởi đó chính là lời chứng sống động nhất.
Lời chứng sống động nhất, đó là hãy sống “hiền lành và khiêm nhường” như Đức Giê-su đã mời gọi. Lời chứng sống động nhất, đó là “những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” như lời Đức Giê-su đã truyền dạy. Lời chứng sống động nhất, đó là “đừng thề thốt…có thì phải nói có, không thì phải nói không”, đúng như lời Đức Giê-su đã truyền dạy.
Cuối cùng, lời chứng sống động nhất, đó là hãy trở thành “khí cụ bình an của Chúa – đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm”.
Vâng, trong một thế giới đã và đang cổ võ cho một nền văn hóa sự chết, một nền văn hóa “sống chết mặc bay tiền thầy bỏ túi” việc làm chứng qua cách “sống chứng nhân” bằng những phong cách sống được nêu trên, mới có thể đánh động lòng người, mới có thể minh chứng cho thế giới rằng: Đức Ki-tô Phục Sinh của năm xưa, cũng là Đức Ki-tô Phục Sinh của hôm nay, của hiện tại, của bây giờ và mãi mãi.
Tấm gương sống chứng nhân của Mẹ Tê-rê-sa Calcutta, (chúng ta có thể tìm đọc trên internet), như một minh chứng điển hình. Và, cha Maximilien Kobe một chứng nhân “người liều mạng sống cho người mình yêu”, cũng là một mình chứng điển hình.
Xưa, Đức Giê-su Phục Sinh đã chẳng cho các môn đệ tiền tài, danh vọng, quyền lực gì “ráo” cả. Ngài chỉ tặng cho các ông một thông điệp: “Chính anh em là chứng nhân về điều này”.
Ngày nay, Đức chân phước Phao-lô VI có lời nói: “Con người ngày nay, họ cần chứng nhân hơn thầy dạy…” Giữa Đức Giê-su và ngài Phao-lo VI là một khung cảnh khác nhau về thời gian. Thế nhưng, nhu cầu thì chỉ là một. Đó là chứng nhân. Vâng, đó là chứng nhân. Là điều chúng ta tự hỏi: Tôi đã là chứng nhân của Chúa!
Petrus.tran