Nhìn lại 8 năm Triều đại ĐTC Benedicto XVI

 

Nhìn lại 8 năm Triều đại Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI

 

Nhìn lại 8 năm Triều đại ĐTC Benedicto XVIĐức Thánh Cha Bênêđíctô thứ 16 đã được các vị Hồng Y tín nhiệm trao trọng trách Kế Vị Thánh Phêrô từ ngày 19 tháng Tư năm 2005. Như vậy, đến ngày ngài thoái vị là ngày 28 tháng Hai năm 2013, Đức Thánh Cha ở ngôi Giáo Hoàng được 2873 ngày, tức là 7 năm, 10 tháng và 10 ngày.

Trong thời gian gần tám năm triều đại Giáo Hoàng của ngài, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 để lại cho thế giới những ấn tượng đẹp đẽ và hùng hồn của một thầy dạy đức tin khiêm nhường khi hướng dẫn người Công Giáo hướng đến các nguồn mạch đức tin, và thúc bách xã hội hiện đại đừng quay lưng lại với Thiên Chúa. Thế giới cũng sẽ nhớ đến ngài như một nhà lãnh đạo tôn giáo đối thoại thẳng thắn với cả những người không chia sẻ niềm tin của mình.

[youtube]zZ5ARrH5lAo[/youtube]

1. Một thầy dạy đức tin khiêm nhường

Với bản tính khiêm nhường, ngài giữ nguyên vẹn và trung thành phát huy những sáng kiến mục vụ được đánh giá là rất thành công của người tiền nhiệm chẳng hạn như các đại hội giới trẻ thế giới, và các cuộc tông du đến các quốc gia dù thừa biết rằng ngài không thể nào thu hút giới trẻ mạnh như Đức Gioan Phaolô II, và có thể tiên liệu được sự mệt nhọc của tuổi già khi phải vượt qua những đại dương bao la để đến với các dân tộc.

Vị Giáo Hoàng người Đức đã không cố gắng để có được sức thu hút mạnh người trẻ như vị tiền nhiệm của ngài là Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, nhưng hàng triệu người trẻ gặp ngài ở Rôma và hải ngoại đã đánh giá cao nụ cười của ngài, và những lời tâm sự chân thành từ con tim.

Mặc dù tuổi già không cho phép tông du nhiều, kết thúc triều Giáo Hoàng của mình, ngài đã thực hiện 24 chuyến tông du đến sáu lục địa và ba lần chủ trì Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới ở Đức vào năm 2005, tại Úc vào năm 2008, và ở Tây Ban Nha vào năm 2011.

Bên cạnh việc tiếp nối các sáng kiến mục vụ tốt đẹp của vị tiền nhiệm, Đức Thánh Cha Bênêđíctô thứ 16 cũng đưa ra hàng loạt các sáng kiến mục vụ của riêng ngài.

Trong năm Linh Mục 2010 và 2011, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã đề cao cha Thánh Gioan Vianney là linh mục sống ở Pháp hồi thế kỷ 19 như là một mô hình của sự thánh thiện trong hàng giáo sĩ, người đã chiến đấu chống lại sự thờ ơ và thù nghịch của một xã hội thế tục đầy bạo lực.

Ngài đã triệu tập một Thượng Hội Đồng Giám Mục về Thánh Kinh trong năm 2008, trong một nỗ lực để đưa Kinh Thánh trở lại là trung tâm của đời sống tâm linh cá nhân và các kế hoạch mục vụ. Ngài đưa ra Năm Đức tin trong tháng Mười năm ngoái và đã chủ trì một thượng hội đồng tập trung vào việc tân phúc âm hóa nhằm hồi sinh đức tin Kitô ở phương Tây thế tục, là một ưu tiên trong triều đại Giáo Hoàng của ngài.

Là mục tử toàn thể Hội Thánh, ngài đã tận dụng hầu như tất cả các phương tiện có trong tay – từ những phương tiện truyền thông cổ điển như sách báo đến các phương tiện tân tiến như Twitter, từ các tông huấn dài cho đến những lời nhắn tin ngắn trên mạng lưới toàn cầu – để dạy giáo lý cho các tín hữu về đức tin cơ bản và các thực hành Kitô giáo, với các chủ đề đa dạng, từ các bài giảng của Thánh Augustinô cho đến ý nghĩa của dấu Thánh Giá mỗi khi chúng ta làm dấu Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần.

Trong vai trò là thẩm quyền luân lý của Giáo Hội, ngài mạnh mẽ vạch ra những ranh giới đạo đức rạch ròi trong các vấn đề như an tử, trợ tử, hôn nhân, và đồng tính luyến ái. Các thông điệp của ngài cho xã hội tập trung vào nguy cơ mất đi những mối quan hệ cơ bản giữa con người và Đấng Tạo Hóa.

Ngài thường xuyên cảnh báo phương Tây rằng trừ khi xã hội tục hóa của nó tái khám phá các giá trị tôn giáo, nó không có chút hy vọng nào có thể tham gia vào các cuộc đối thoại thực sự với nền văn hóa Hồi giáo và với các tôn giáo.

Trong các thông điệp của ngài và trong cuốn “Chúa Giêsu thành Nazareth”, Đức Thánh Cha lặp đi lặp lại thông điệp đó, nhắc nhở độc giả của mình khám phá các liên kết cần thiết giữa tình yêu xả kỷ, các hoạt động bác ái, và sự tận hiến cho sự thật và Tin Mừng của Chúa Kitô.

Một trong những tài liệu quan trọng nhất được ban hành dưới triều Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 là hướng dẫn về đạo đức sinh học đưa ra năm 2008 trong đó cảnh báo về một số phát triển trong nghiên cứu tế bào gốc, liệu pháp gen và thử nghiệm phôi vi phạm các nguyên tắc đạo đức và phản ánh một nỗ lực của con người để “chiếm chỗ của Đấng Tạo Hóa.”

Những tác phẩm của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 thường xuyên khám phá mối quan hệ giữa đức tin cá nhân nơi Chúa Kitô và các hậu quả xã hội.

Thông điệp đầu tiên “Deus Caritas Est” (“Thiên Chúa là tình yêu,”) ban hành năm 2005, nhắc nhở tất cả mọi người rằng Thiên Chúa yêu thương họ và kêu gọi họ chia sẻ tình yêu trong quan hệ giữa các cá nhân và với xã hội.

Hai năm sau, thông điệp thứ hai “Spe Salvi” (Chúng ta được cứu rỗi trong hy vọng), đã cảnh báo rằng nếu không có đức tin vào Thiên Chúa, mà chỉ biết cậy dựa vào các ý thức hệ thì các hệ tư tưởng ấy chỉ dẫn đến “các hình thức tàn ác và các hành vi bất công.”

Thông điệp thứ ba của ngài, “Caritas in Veritate” (“Bác Ái trong Chân Lý”) được công bố năm 2009 khẳng định rằng các giá trị đạo đức là cần thiết để vượt qua các cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay trên toàn cầu cũng như để diệt trừ nạn đói và thúc đẩy sự phát triển thực sự của tất cả các dân tộc trên thế giới.

Vài tháng trước, Tòa Thánh cho biết Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã hoàn thành một thông điệp thứ tư về đức tin, và dự kiến sẽ được công bố trong nửa đầu năm nay. Cha Federico Lombardi khẳng định rằng cuối cùng thông điệp này sẽ được công bố dưới một hình thức thích hợp.

Cuốn sách gồm 3 tập với nhan đề “Chúa Giêsu thành Nazareth”, được xuất bản từ năm 2007 nhấn mạnh rằng Chúa Kitô phải được hiểu như là Con Thiên Chúa xuống trần để cứu rỗi nhân loại chứ không phải là một nhà đạo đức hay thậm chí chỉ là một nhà cải cách xã hội.

Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã yêu cầu bộ Phong Thánh kỹ lưỡng hơn trong việc lựa chọn ứng viên phong thánh, nhưng cuối cùng ngài cũng đã phong thánh cho 44 vị, bao gồm cả người Mỹ da đỏ Kateri Tekakwitha và Mẹ Marianne Cope Molokai. Ngài cũng đã tôn phong Chân Phước cho vị tiền nhiệm của ngài là Đức Gioan Phaolô II.

Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 đã tấn phong Hồng Y cho 90 vị, trong đó hiện nay có đến 67 vị vẫn còn dưới 80 tuổi và do đó đủ điều kiện để bỏ phiếu trong Cơ Mật Viện bầu Giáo Hoàng để bầu người kế nhiệm ngài.

2. Đối thoại nhiệt tình và thẳng thắn

Năm 2007, ngài mở rộng khả năng sử dụng Thánh Lễ Tridentino. Hai năm sau, năm 2009, trong một nỗ lực hòa giải với Huynh Đoàn Thánh Piô X, ngài giải vạ tuyệt thông cho bốn giám mục là những người được tấn phong bất hợp pháp vào năm 1988. Sau khi phục vụ trong độ tuổi 30 trẻ trung của mình như là một cố vấn có ảnh hưởng trong thời gian Công Đồng Vatican II từ 1962 đến 1965, ngài đặt để như một ưu tiên quan trọng trong triều Giáo Hoàng của mình là làm sao sửa chữa những diễn giải quá xa với ý hướng của Công ĐồngVatican II trong khi nhấn mạnh đến tính liên tục của Công Đồng với truyền thống đã có từ hai ngàn năm của Giáo Hội.

Đức Thánh Cha đã ba lần gặp gỡ tổng thống Mỹ George W. Bush, bao gồm một chuyến viếng thăm chính thức tới Nhà Trắng. Hai nhà lãnh đạo đã tìm thấy sự tâm đầu ý hợp trong những lãnh vực rộng lớn liên quan đến phò sự sống và gia đình. Khi tổng thống Barack Obama được bầu, Đức Giáo Hoàng gửi cho Obama một bức điện tín nồng nhiệt chúc mừng và lời hứa cầu nguyện cho tổng thống của ngài, nhưng khi họ gặp nhau tại Vatican vào năm sau đó, Đức Thánh Cha đã nói rõ ràng về sự phản đối của Giáo Hội đối với chính sách của chính quyền Obama liên quan đến các vấn đề như phá thai và nghiên cứu tế bào gốc trên phôi người.

Trong bài giảng tại Đại học Regensburg của Đức ngày 12 tháng Chín năm 2006, Đức Thánh Cha trích lời một hoàng đế Kitô giáo thời Trung cổ, người đã nói “Hãy chỉ cho tôi thấy những gì mới mẻ mà tiên tri Mohammed đã mang lại và anh chỉ thấy ở đó toàn những điều tàn ác và vô nhân đạo, chẳng hạn như lệnh truyền của ông hãy loan truyền niềm tin mà ông rao giảng bằng gươm giáo.” Vụ này gây ra những chỉ trích dữ dội từ thế giới Hồi Giáo.

Tuy nhiên, cuối năm đó, ngài đã đến thăm một đền thờ Hồi giáo ở Thổ Nhĩ Kỳ, và đã quay về phía Mecca thầm cầu nguyện cùng với chủ nhà. Cử chỉ này tạo ra sự cải thiện đáng kể, và trong những năm tiếp theo, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI tiếp tục gặp gỡ với các nhà lãnh đạo Hồi giáo khác.

Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 cũng đến thăm các hội đường Do Thái Giáo, ở Đức năm 2005, ở New York vào năm 2008 và tại Rôma vào năm 2010. Ngài lên án mạnh mẽ những trào lưu bài Do Thái, và đã giành được lòng quý mến của nhiều nhà lãnh đạo Do Thái.

Trong một lá thư được báo chí tại Do Thái công bố hôm 19 tháng Hai, tức là 10 ngày trước khi Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 thoái vị, thủ tướng Do Thái đã nồng nhiệt cám ơn triều đại Giáo Hoàng của ngài.

Lá thư của thủ tướng Benjamin Netanyahu đề ngày 18 tháng Hai năm 2013 gởi đến Đức Thánh Cha Bênêđíctô thứ 16 có đoạn viết:

“Nhân danh dân tộc Do Thái, tôi muốn cảm ơn ngài vì tất cả những gì ngài đã làm trong khả năng của mình với cương vị Giáo Hoàng để tăng cường mối quan hệ giữa Kitô hữu và người Do Thái, cũng như giữa Tòa Thánh và Nhà nước Do Thái”.

“Tôi cũng cảm ơn ngài đã dũng cảm bảo vệ các giá trị của Do Thái giáo và Kitô giáo trong suốt triều Giáo Hoàng của mình. Tôi không chút nghi ngờ rằng những giá trị ấy là rất quan trọng để xây dựng một thế giới tân tiến, và là thiết yếu để đảm bảo một tương lai an ninh, thịnh vượng và hòa bình

Đức Thánh Cha coi sự hợp nhất Kitô Giáo là một trong những ưu tiên trong triều đại ngài, và đã có những bước cải thiện đối thoại với các Giáo Hội Chính Thống. Dấu hiệu cụ thể nhất là việc Đức Thánh Cha chấp nhận lời mời của Đức Thượng phụ Đại kết Bartholomew của thành Constantinople để đến thăm các nhà lãnh đạo Chính Thống Giáo tại Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ, vào năm 2006. Hai năm sau, Đức Thánh Cha mời Đức Thượng phụ Đại kết Bartholomew phát biểu tại Thượng Hội Đồng Giám Mục. Tòa thánh Vatican cũng nối lại các cuộc đàm phán thần học với Chính Thống vào giữa năm 2006 và bắt đầu các hình thức mới của sự hợp tác văn hóa với Giáo Hội Chính Thống Nga.

Số phận của các nhóm thiểu số Kitô giáo trên toàn thế giới là một trong những mối quan tâm lớn khác của Đức Giáo Hoàng, đặc biệt là ở những nước cộng sản và các nước Hồi giáo. Trong bài diễn văn đầu tiên của ngài trước ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh hôm 12/5/2005, chỉ vài tuần sau khi lên ngôi Giáo Hoàng, Đức Thánh Cha Bênêđíctô bày tỏ mong ước của ngài là Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa có thể để cho Giáo Hội “có những điều kiện hợp pháp để thi hành sứ vụ của mình.”

Trong 27 năm triều Giáo Hoàng của mình, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã dành hơn 30 bài diễn văn để đề cập đến “đất nước Trung Hoa vĩ đại” và Giáo Hội tại Trung Hoa.

Rõ ràng, các vị Giáo Hoàng đều cảm thấy rất áy náy về tình trạng của anh chị em tín hữu tại đây và việc thực thi nghĩa vụ truyền giáo cho đất nước đông dân nhất hành tinh này.

Trong tiến trình vận động cho Thế Vận Hội 2008, Bắc Kinh tuyên bố rằng cái chết của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, người bị chúng coi là “có tội” làm sụp đổ các chế độ cộng sản trên thế giới, đã mở ra một trang mới trong quan hệ ngoại giao giữa Bắc Kinh và Vatican.

Trong các cuộc thảo luận không chính thức giữa Vatican và tòa đại sứ Trung quốc tại Ý, Bắc Kinh đồng ý cho 4 vị Giám Mục được tham dự Thượng Hội Đồng Giám Mục về Thánh Thể (10/2005) và cho các nữ tu của Mẹ Têrêsa được mở một nhà cho người nghèo và người già tại Hoa Lục. Năm 2006, một viên chức cao cấp của đảng cộng sản Trung quốc hứa với phái đoàn Tòa Thánh là sẽ cấm Hội Công Giáo Yêu Nước không được truyền chức Giám Mục trái phép nữa. Tất cả những điều ấy đã không xảy ra.

Dù thế, những lời hứa cuội và các hoạt động ngoại giao sôi nổi đã làm nức lòng một số viên chức Tòa Thánh, đặc biệt là những vị không có chút kinh nghiệm nào với cộng sản. Đối thoại với cộng sản Trung quốc thất bại vì những nhượng bộ quá sớm và quá chân thành của một số viên chức Tòa Thánh, Giáo Hội tại đây xơ xác và hoang mang với con số đông đảo các linh mục hầm trú bị bắt trong hai năm 2008 và 2009; và ngày càng có những vụ truyền chức giám mục trái phép bất kể vạ tuyệt thông của Tòa Thánh.

Cuộc đối thoại với cộng sản Việt Nam tuy có dẫn đến sự hiện diện của Đức Tổng Giám Mục Leopoldo Girelli là vị đại diện Tòa Thánh không thường trú tại Việt Nam, nhưng tình trạng nhân quyền tồi tệ, tình trạng chà đạp tự do tôn giáo đặc biệt là ở các vùng biên giới phía Bắc và vùng Cao Nguyên Trung Phần, tình trạng cướp bóc, chiếm đoạt trái phép tài sản của Giáo Hội Công Giáo và các tôn giáo khác tại Việt Nam vẫn chưa được cải thiện và cũng chẳng có chút tín hiệu nào cho thấy sẽ được cải thiện.

3. Lời Kết

Khi được bầu làm Giáo Hoàng ngày 19 tháng 4 năm 2005, Đức Thánh Cha Bênêđíctô thứ 16 đã 78 tuổi nhưng rõ ràng ngài có sức khỏe tốt. Tuy nhiên, ngài đã nói với các Hồng Y rằng triều đại Giáo Hoàng của ngài không thể dài như của người tiền nhiệm. Trong một cuộc phỏng vấn với tác giả Peter Seewald hồi năm 2010, Đức Thánh Cha nói: “Nếu một vị Giáo Hoàng rõ ràng nhận ra mình không còn đủ thể chất, tâm lý và tinh thần để cáng đáng các nhiệm vụ của mình, ngài có quyền, và thậm chí, trong một số hoàn cảnh, có nghĩa vụ phải thoái vị. “

Trong diễn văn thoái vị hôm 11 tháng Hai, sự khiêm nhường của một vị thầy dạy đức tin vĩ đại cũng được bộc lộ rõ ràng. Ngài nói:

“Tôi chân thành cảm ơn tất cả anh em vì tình yêu và những công việc mà anh em đã ủng hộ tôi trong sứ vụ của mình và xin tha thứ cho tất cả các khiếm khuyết của tôi. Và bây giờ, chúng ta hãy ủy thác Giáo Hội cho sự chăm sóc của vị Mục Tử tối cao của chúng ta, là Chúa Giêsu Kitô, và khẩn cầu Mẹ Maria chí thánh của Ngài trợ giúp các Hồng Y Giáo Phụ với lòng ưu ái từ mẫu của Mẹ trong việc bầu Đức Tân Giáo Hoàng. Liên quan đến bản thân mình, tôi cũng muốn tận tụy phục vụ Giáo Hội Thánh của Thiên Chúa trong tương lai thông qua một cuộc sống tận hiến cho việc chuyên tâm cầu nguyện.”

Cảm tạ ơn Chúa đã ban cho chúng ta một vị Giáo Hoàng vĩ đại trong một thế giới đang biến chuyển nhanh đến mức ranh giới giữa đúng và sai, giữa thiện và ác có lẽ mờ nhạt hơn bao giờ.

J.B. Đặng Minh An
(Vietcatholic.net)

Để lại một bình luận