Chiêm ngắm huyền nhiệm tình thương
nơi cuộc đời thánh Martinô
Nguyễn Trọng Viễn, OP.
Trong số Thời Sự Thần Học 56 mới đây, nhằm mừng kỷ niệm 50 năm tu sĩ Martino de Porres được phong hiển thánh, chúng ta đã được linh mục Phan Tấn Thành trình bày tóm tắt những quan niệm thần học về chữ caritas, dựa theo hai thông điệp của đức Bênêđictô XVI, Deus caritas est và Caritas in veritate. Những quan niệm này, theo ba song luận “eros-agape”; “caritas-veritas”; và “caritas-justitia”, đã được phân tích khá tỷ mỷ và súc tích.
Có một lối nhìn khác mà tôi thích thú hơn, đó là lối nhìn của linh mục Henri J.M. Nouwen, trong tác phẩm Những Dấu Chỉ của Sự Sống. Cha Nouwen, theo gợi ý của một người bạn chuyên phục vụ người khuyết tật, Jean Vanier, đã khám phá ba dấu chỉ đặc biệt của tình yêu Kitô giáo trong Tin Mừng : mật thiết, phong phú và xuất thần.
Có lẽ có thể nhìn một cách đơn giản hơn : trong Thiên Chúa, chân lý và tình yêu là một[1]. Rồi chân lý được gồm gói trong đức Kitô, đức Ái hay tình yêu cũng được gồm gói trong đức Kitô. Nơi Thiên Chúa, caritas và veritas là một, thì trong đức Giêsu Kitô, chân lý và đức ái cũng vẫn là một[2]; và là một trong mầu nhiệm Nước Trời. Mầu nhiệm Nước Trời thể hiện cả chân lý và tình yêu một cách phong phú vô tận và linh diệu bất ngờ. Với mầu nhiệm ấy, điều cần thiết không chỉ là nghiên cứu như một vấn đề, nhưng còn cần “chiêm ngắm”[3]. Đây là huyền nhiệm phong phú và linh diệu của Nước Trời nơi cuộc đời một con người hèn mọn nhất trong các vị thánh, và thánh nhất trong những người hèn mọn, đó là thánh Martino de Porres. Cũng cần phải nói thêm là : chân lý của Chúa ban cho ta là chân lý cứu độ; và tình yêu Thiên Chúa ban cho ta cũng là tình yêu cứu độ. Chỉ trong ý nghĩa cứu độ, chỉ trong vận hành của lịch sử cứu độ mà chân lý và tình yêu của Chúa mặc khải cho con người mới được sáng lên, sáng lên ý nghĩa huyền nhiệm. Điều này có nghĩa là chúng ta có thêm một tiêu chuẩn để phân biệt những thứ chân lý / tình yêu giả với chân lý / tình yêu thật; và để hiệp nhất những thứ chân lý và tình yêu có vẻ khác nhau nhưng lại đích thực là một trong cùng vận hành cứu độ.
1. Mầu nhiệm Nước Trời
Sám hối vì Nước Trời
Chúa Giêsu khởi đầu sứ vụ công khai bằng lời loan báo Mầu nhiệm Nước Trời, và Ngài cũng cho thấy cách thức để đi vào mầu nhiệm ấy chính là sự sám hối.
“Sau khi ông Gio-an bị nộp, Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Người nói : “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” (Mc 1,14-15)
Tại sao phải sám hối ? Sám hối là từ bỏ tội lỗi, sám hối là thay đổi lối sống, nhưng sâu xa hơn hết, sám hối là thay đổi não trạng, thay đổi cách nghĩ. Đó là vì mầu nhiệm Nước Trời luôn là điều bất ngờ có tính cách đảo ngược. Chẳng phải chỉ những người Do Thái thời Chúa Giêsu cần phải sám hối, thay đổi não trạng để có thể “hiểu” được Nước Trời, nhưng chính Hội Thánh trong suốt hành trình của mình, cũng như mỗi người Kitô hữu, trong suốt hành trình tâm của mình, vẫn luôn phải sám hối, vẫn luôn phải nhờ Thánh Thần Chúa để có thể thay đổi não trạng.
Có lẽ đây là một điều mà người Kitô hữu hiện nay phải lưu ý nhiều. Với đa số người tín hữu, sám hối bị giản lược thành bản so sánh đời sống hằng ngày với Thập Điều của Cựu Ước. Với những linh mục, tu sĩ, hình như người ta lấy việc học hỏi, nghiên cứu để hiểu Nước Trời hơn là một sự rộng mở để Thánh Thần Chúa thay đổi não trạng. Nếu nghiên cứu và học hỏi có thể cho ta hiểu được một phần nào mầu nhiệm Nước Trời, thì sức mạnh để đi vào Nước Trời vẫn luôn là ân sủng, vẫn luôn bắt nguồn từ chính tình yêu và chân lý cứu độ được Thánh Thần khai mở ra cho Hội Thánh và cho mỗi người tín hữu. Chính vì thế mà một con người hèn mọn như thánh Martinô lại có thể biểu lộ mầu nhiệm Nước Trời rõ rệt hơn hết trong một tu viện Đa Minh cũng như nơi thành phố Lima thời ấy.
Quả thật, nếu để ý một chút, chúng ta sẽ thấy rõ tính mầu nhiệm Nước Trời luôn có tính cách đảo ngược. Từ việc Ngôi Lời trong vĩnh cửu nay trở nên xác phàm, từ việc Chúa chọn đức Maria, một cô gái đồng trinh, vô danh tiểu tốt, để làm mẹ, từ việc Chúa chọn một gia đình dân thường chứ không phải gia đình quyền quí, và chọn sinh ra trong hang đá bò lừa… cho đến Bài giảng trên núi; cho đến cung cách thể hiện “lòng nhân chứ không phải lễ tế” (Mt 9,13); cho đến lời dạy về quyền bính trong cộng đoàn Hội Thánh; cho đến những giáo huấn trong diễn từ cáo biệt; và cho đến cách người đi vào cuộc Tử nạn–Phục sinh…., tất cả đều là một sự đảo ngược kỳ lạ đối với cách nghĩ thông thường của con người. Ta có thể nói được rằng ai không thấy được tính đảo ngược của Chúa, thì cũng chưa thấm nhuần mầu nhiệm Nước Trời. Trong khi đó, cám dỗ của con người luôn là muốn thích nghi, thoả hiệp Nước Trời với nước thế gian, nước thế gian trong cách nghĩ đầy lý lẽ của mình, nước thế gian trong lối sống tà tà của mình, nước thế gian trong cơ chế tổ chức của cộng đoàn hay của chính Hội Thánh, nước thế gian trong những giá trị hão huyền như danh giá,…
Nước Trời mời gọi sám hối, mời gọi người tín hữu liên tục sám hối, mời gọi chính cơ chế Hội Thánh hay cộng đoàn sám hối. Nếu sống đức tin, theo tinh thần Vatican II, là sống đời mình như một lịch sử ơn cứu độ, nghĩa là sống chính lịch sử đời thường của mình trong sự sám hối cách nghĩ, cách chọn giải pháp, cách phản ứng… của mình trong sự so chiếu với mầu nhiệm Nước Trời, thì ta lại càng thấy rõ tính cách thiếu sám hối chân chính, cả nơi những nhà nghiên cứu Kinh Thánh, “đấng bậc” cũng như nơi đời sống người tín hữu nói chung. Nước Trời là một sự đảo ngược, nên cần thiết phải có một phương thức đảo ngược cách nghĩ, một lòng sám hối chân thực (métanoia) để đi vào Nước Trời.
Mầu nhiệm đảo ngược căn bản chính là mầu nhiệm Thập Giá. Thập giá xưa kia là sự điên rồ đối với người Hy Lạp, là sự chướng kỳ đối với người Do Thái, thì ngày nay, Thập Giá vẫn luôn là những khác biệt mang tính đảo ngược đối với cách nghĩ cũng như thực tế cuộc sống xã hội và Giáo Hội, ở đây và lúc này.
“Trong khi người Do-thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Ki-tô bị đóng đinh, điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. (1 Cr 1, 22-23 )
Tại sao lại đảo ngược ?
Chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời trong cách nói của ngôn sứ Isaia : đường lối của Chúa vượt cao hơn đường lối của con người (Xc. Is 55,9). Đường lối của Chúa cao hơn không phải chỉ vì Chúa khôn ngoan hơn, nhưng còn là vì Thiên Chúa yêu thương nhiều hơn, tình thương lớn hơn của Chúa vượt quá cách suy nghĩ tầm thường của con người. Như đã nói, nơi Thiên Chúa, chân lý và tình yêu là một; nơi đức Kitô, chân lý và tình yêu là một; nơi mầu nhiệm Nước Trời, chân lý và tình yêu cũng là một. Tính cách hoà hợp đó cũng thể hiện nơi những gì được sáng tạo trong Ngôi Lời có từ muôn thuở và sứ điệp Nước Trời của đức Giêsu. Tính cách hoà hợp ấy cũng thể hiện trong mầu nhiệm cứu độ mà những ai biết Chúa Cha thì cũng biết Chúa Giêsu… Thế nhưng, con người đã không dễ dàng thấy được sự hoà hợp ấy, nên đã phân ly những gì Thiên Chúa đã nối kết; để rồi nhân danh chân lý để làm những điều phản lại tình yêu, hoặc nhân danh tình yêu để làm những điều sai trái.
Làm sao giữ được nét hoà, nét duy nhất giữa chân lý và tình yêu ?
Chúng ta có thể thấy một chút ánh sáng hướng dẫn khi nhìn lại sự tiến triển về quan niệm mạc khải từ công đồng Vatican I đến Vatican II. Trong khi, đối với Vatican I, mạc khải là Thiên Chúa mạc khải những chân lý vô ngộ của Ngài, thì đối với Vatican II, mạc khải lại là mạc khải chính bản thân của Chúa.
“Thiên Chúa nhân lành và khôn ngoan đã muốn mạc khải chính mình và tỏ cho mọi người biết mầu nhiệm thánh ý Ngài [X. Ep 1,9]. Nhờ đó, loài người có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, ngôi Lời nhập thể trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần bản tính của Thiên Chúa [X. Ep 2,18; 2P 1,4]. (MK 2)
Chúng ta cũng biết, Vatican II đã thêm vào một phương thức mạc khải của Thiên Chúa, Thiên Chúa không chỉ mạc khải bằng Lời, nhưng còn bằng hành động. Cả Lời cũng như hành động của Thiên Chúa đều chỉ là mạc khải chính bản thân Ngài. Nơi bản thân Ngài, chân lý và tình yêu là một, và trong mạc khải cứu độ của Ngài, chân lý cứu độ cũng như tình yêu cứu độ chỉ là một.
“Công cuộc mạc khải này được thực hiện bằng các hành động và lời nói liên kết mật thiết với nhau. Nên các việc Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử cứu rỗi bày tỏ, củng cố giáo lý và những điều được giải thích qua lời nói. Còn lời nói thì công bố các việc làm và khai sáng mầu nhiệm chứa đựng trong đó. Nhờ mạc khải này, chân lý thâm sâu về Thiên Chúa cũng như về phần rỗi con người được sáng tỏ nơi Chúa Kitô, Đấng trung gian, đồng thời là sự viên mãn của toàn thể mạc khải” [MK 2a].
Thật ra, con đường của triết gia Parménide (khoảng 540-470), đồng nhất hữu thể với tư tưởng, để rồi triết lý chỉ việc ráp nối các tư tưởng, chính con đường đó đã chia lìa, phân đôi mọi thực tại, lãnh vực lý thuyết dần dần khác với lãnh vực thực hành; rồi đến một lúc nào đó, lãnh vực siêu hình lại trái ngược với lãnh vực luân lý. Ngược lại, từ tư tưởng của Héraclite (khoảng 540-475), người ta thấy rằng : ở đỉnh cao minh triết, siêu hình và luân lý đồng nhất với nhau; còn ở đáy sâu của thứ triết lý vụn vặt, thì siêu hình[4] khẳng định một đàng, luân lý lại đòi hỏi một đàng khác. Đó cũng là con đường lãng quên hữu thể của triết học Tây phương.
Cũng gần giống như vậy, chính con đường xa rời “bản thân Chúa”, khiến cho chân lý và tình yêu xa rời nhau; khiến cho nhiều khi ta muốn thực hành chân lý thì lại thấy ngược với đức ái, và nhiều khi thực hành đức ái thì lại ngược với chân lý.
Cuộc sống nhân trần thì không có sự đồng nhất tất nhiên giữa hai lãnh vực khác nhau, không có sự hoà hợp dễ dàng giữa chân lý và đức ái, nhưng người tín hữu thì, đúng ra, chỉ có một điều cần thiết mà thôi, đó là chọn Chúa Giêsu, theo Chúa Giêsu. Chính bản thân Chúa Giêsu là Đường, là sự Thật và là sự Sống (Xc. Ga 14,6), chứ không phải một con đường nào, một sự thật hay sự sống nào khác. Người Kitô hữu chọn Chúa Giêsu thì chỉ có một tiêu chuẩn duy nhất, đó là muốn những gì Chúa muốn, làm những gì đẹp ý Chúa… Cũng thế, Thánh Thần, trong Tân Ước, không còn được hiểu là một năng lực mà người tín hữu có thể chiếm hữu và “cất trong túi”, nhưng là một Đấng mà người tín hữu chỉ có thể sống-với, để cho Ngài đồng hành và để Ngài “nói” khi ta phải ra trước “công hội” (Xc. Mc 13,11).
Có con đường của thánh Thomas, thiết tha đi tìm chân lý của Chúa, nhưng vẫn luôn là khát vọng “con chỉ cần chính Chúa” như lời Thomas trả lời với Chúa trong những ngày tháng cuối cùng của cuộc đời; và có con đường của Martinô, khởi đi từ tình thương, khám phá lòng nhân ái của Chúa đổ xuống những người cùng khổ, và chính cách thức sống ấy trở nên một sự cật vấn cho những người chỉ biết có một thứ chân lý khô khẳng. Cả hai con đường đó đều là con đường tìm kiếm chính Chúa, tìm kiếm Nước Thiên Chúa, cả hai đều là phương thức thể hiện con đường “tìm kiếm Nước Thiên Chúa” trước hết (Xc. Mt 6,33). Đây chính là con đường của những vị thánh, khác với con đường của những học giả hoặc những người làm việc xã hội thuần tuý. Con đường tìm kiếm Thiên Chúa, “tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước” sẽ đưa các thánh vượt qua những đối lập trong thế giới con người, để hoá giải những đối lập ấy trong chính bản thân của Chúa Giêsu. Cái “trước” ở đây không phải chỉ theo nghĩa thời gian, nhưng là một sự ưu tiên, một sự nắm chắc lấy chính Chúa trong nỗi thiết tha đi tìm “Danh Cha, Nước Cha và Ý Cha”. Những gì Ngài sẽ ban cho sau cũng không phải chỉ là của cải, không phải chỉ là sự thành đạt, nhưng còn là nét hoà trong chân lý và tình yêu mà trước đó ta chưa thấy được. Như thế, ai đó gắn bó với bản thân Chúa Giêsu và thiết tha đi tìm Nước Thiên Chúa thì vẫn có thể hoặc “đào bới sách vở”, hoặc “lấy đường phố làm phòng tu”.
Từ nẻo đường của Martino, chúng ta có thể tìm ra động lực sám hối bằng con đường tình yêu. Thay vì những hiểu lầm của người Do Thái về Đấng Mêsia quyền lực cũng như về mầu nhiệm Nước Trời như vương quốc trần gian, người Kitô hữu có thể khám phá thấy trong mầu nhiệm Nước Trời có động lực của mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa luôn cao hơn cách nghĩ của con người. Chúng ta có thể chiêm ngắm huyền nhiệm tình yêu Thiên Chúa trong mầu nhiệm Nước Trời, xét như một sự đảo ngược cách hiểu của con người, để rồi nhận ra chính tình yêu thương lạ lùng của Thiên Chúa là căn nguyên tạo nên mọi sự đảo ngược ấy. Tình yêu Thiên Chúa trở thành một thách đố với cách hiểu thông thường, và thôi thúc sám hối. Sám hối là sám hối vì tình yêu Thiên Chúa và sám hối là thay đổi não trạng để hiểu huyền nhiệm tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, vì chính huyền nhiệm tình yêu cứu độ của Thiên Chúa như một bóng dáng bao trùm và ẩn khuất trong mầu nhiệm Nước Trời.
+ phần 2/3
+ phần 3/3
[1] Xc. T/đ Caritas in veritate, s.1. Xin nói thêm : Deus caritas est / Deus veritas est. Như vậy, nói đùa theo kiểu ngắn gọn hiện nay : Deus Ca-ve-ritas est; mà cave lại có nghĩa là gái bao !!!, một loại người hèn mọn được Chúa yêu thương và dẫn dắt đến chân lý cứu độ. Đây là “lý luận” kiểu huyền nhiệm !!!