Ở đó sẽ có một đường đi mang tên là thánh lộ
Đó sẽ là con đường cho họ đi
Những ai được Chúa cứu chuộc sẽ bước đi trên đó
( Is 35:1-10)
Có Một Con Đường
Buỗi trưa, nhà tĩnh tâm thêm trầm lắng trong thinh lặng. Gần 24 giờ đồng hồ qua, tôi trở về trong thẳm sâu tâm hồn khi những bận rộn, lo toang đã xếp lại, bỏ bên ngoài cánh cổng ngăn cách những ồn ào thường nhật và khung trời thanh tĩnh bên trong.
Tĩnh tâm đã là một phần không thể thiếu trong đời sống của tôi. Mỗi lần trở về bầu khí thinh lặng, bên ngoài và nội tâm, là thêm một lần đi tới, tiếp nối con đường thiêng liêng đã khởi hành từ bấy lâu nay như một ơn gọi; để ngày càng nhìn thấy thêm, khám phá thêm những dấu chỉ siêu nhiên trong cuộc đời, như các cột mốc vô hình ghi dấu đọan đường tinh thần đã trải qua trên hành trình Đức Tin xa xăm mà gần gũi.
Tôi như một lữ khách miệt mài đi tìm Chân Lý. Dù biết thân phận nhỏ bé như loài ốc sên chậm chạp, tôi vẫn kiên trì tiến bước với những bất toàn, khiếm khuyết của con người chỉ với một niếm tin sắt son duy nhất, hoàn toàn phó thác trong tay Đấng Tạo Thành tôi. Con đường thiêng liêng thăm thẳm mà hành trang của tôi chỉ có những lời nguyện cầu tín thác vào Lời Hứa của Đấng Tín Thành không rời bỏ tôi, I will be with you, Thầy sẽ ở cùng con mọi ngày cho đến cuối thời gian.
Những ngày tĩnh tâm, đối với tôi, không phải là những ngày nghỉ ngơi như người ta thường nói: Vacation with The Lord. Nhưng là những ngày làm việc rất tích cực bằng tinh thần, dù thân xác có thoải mái với chút tiện nghi của nhà tĩnh tâm. Trưa nay, khi tìm đề tài cầu nguyện riêng, tôi với tay lấy quyễn Kinh Thánh rồi tìm một góc yên tỉnh, ngồi xuống đọc lại những ghi chép của hơn nửa ngày qua. Rất tình cờ, tôi chọn đọan sách Isaia 35, câu 1 tới 10, trong các đề tài do cha linh hướng đề nghị, lấy từ Cựu Ước. Có thể tôi đã đọc đoạn Sách Thánh nầy rồi trong một lần nào đó, nhưng chưa bao giờ những Lời Kinh Thánh ấy đánh động tôi mạnh mẽ bằng hôm nay. Đoạn sách ngắn lắm, mười câu thôi, nhưng sao như có luồng điện từ những dòng chữ trên trang giấy trắng chạy xuyên qua tâm hồn tôi. Ngồi bật dậy, tôi chăm chú đọc lại đoạn Is 35, 1-10 lần nửa, rồi lần nửa. Mười câu ngắn ngủi nhưng như chiếc chìa khóa mở toang cánh cửa nhiệm mầu, dẫn tôi vào lối thênh thang của một con đường trải rộng, bao la làm choáng ngộp linh hồn tôi.
Ngay từ buỗi tối đầu tiên, tôi đã tha thiết cầu xin: Lạy Chúa, xin cho con được thấy, con như người mù mà nếu Chúa không mở mắt cho con, con vẫn mãi hoài bước đi trong u tối tâm hồn ! Tôi tin là Chúa đã nghe và giờ đây, chính là lúc nầy đây, Chúa bắt đầu mở đôi mắt linh hồn tôi cho tôi được nhìn thấy con đường thiêng liêng mà bấy lâu nay tôi hằng tìm kiếm.
Người ta thường khuyên, hãy quên đi quá khứ để chỉ hướng về tương lai. Với tôi thì không, quá khứ là một vốn liếng quí giá cho tôi học biết con đường dẫn về tương lai. Trong quá khứ của tôi, dù cay đắng hay đau thương, vẫn có Chúa ở hiện diện. Ngài bước đi với tôi trên mọi nẻo đời, dù tăm tối hay gian nguy để hướng dẫn tôi, chỉ bảo tôi bằng Lời Hằng Sống qua mọi biến cố trong đời tôi. Đối với tôi, Lời đã thành lẽ sống, tôi vẫn thành khẩn van xin Ngài ban cho trên đường kiếm tìm Chân Lý, để bước theo Ngài.
Tôi cũng đã học biết, bằng kinh nghiệm trải qua, Chân Lý của Thiên Chúa thì rất khác xa với sự thật của con người. Với lý luận bằng trí óc hẹp hòi, giới hạn, con người thường lừa dối chính mình và người khác, nên đã lạc xa Chân Lý. Trong khắc khoải kiếm tìm, tâm hồn tôi đôi lúc như sa mạc hoang vu mất Chúa. Đức Tin như miền đất cằn khô, khát khao những giọt mưa ơn sủng để cây Đức Tin của tôi không ủ rũ héo tàn. Thiên Chúa là Đấng ẩn mình, nhưng không bỏ mặc con người, Ngài lắng nghe và Ngài đáp trả những tâm hồn tha thiết tìm kiếm Ngài. “Vui lên nào ! Hỡi sa mạc và đồng khô cỏ cháy, vùng đất hoang hãy mừng rỡ trổ bông ” ( Is 35, 1 ). Tiếng gọi đến đúng lúc, như mạch nước vọt lên trong sa mạc, giữa vùng đất hoang vu cằn khô, để sỏi đá của tâm hồn bỗng được thẩm thấu ơn thiêng mà vội vã trổ bông. Không phải một sớm, một chiều tôi đón nhận được ơn huệ hiểu biết, nhưng đoạn đường tinh thần trải qua biết mấy chờ mong trong chân thành nguyện ước, và cậy trông vào Đấng thấu suốt tâm hồn, đem niềm hy vọng.
Ôi hạnh phúc biết bao cho tôi khi tâm hồn được nhìn thấy vùng đất cằn khô bỗng chốc được biến đỗi thành màu mở phì nhiêu, đâm chồi nẩy lộc đầy kỳ hoa dị thảo của Ơn Thiêng. Rồi giữa cánh đồng bát ngát đang trổ hoa ấy bỗng xuất hiện một con đường huyền diệu cho chúng ta, vâng chính chúng ta, những con người được Chúa cứu chuộc bước đi trên đấy. Tôi muốn la to lên, muốn nói cho anh chị em của tôi biết rằng: Đừng khóc nữa, đừng lo sợ nữa, hãy mạnh dạn đứng lên những đôi chân bũn rũn, hãy vươn cao lên những cánh tay rã rời vì Chúa của chúng ta đây rồi, Người đã đến và Người ở kề bên, để cho chúng ta cùng bước đi trên Đường Sự Sống với Người. Ôi hạnh phúc biết bao cho những người tội lỗi được Chúa thương vì chính Người đã đến cứu chúng ta, và cùng với Người chúng ta được bước đi trên đường Thánh Lộ công chính. Lạ lùng quá, kỳ diệu quá, và tôi bật khóc.
Trên thánh lộ ấy, kẻ ô uế sẽ chẳng được qua, những con người cuồng dại, cuồng tín, u mê, bất chính cũng chẳng được lang thang trên đó. Con đường thánh sẽ chẳng có bóng dáng một thú dữ nào, những dã tâm, những bạo tàn, cho dù mãy may cũng hoàn toàn vắng bóng. Thánh Lộ, con đường của thiện hảo, của tỉnh thức và của từ tâm tuyệt đối mà nếu không có Đấng Cứu Thế, Đức Kitô của Thiên Chúa, nhân loại trong thân phận bất toàn mấy ai đã được vào. Đẹp quá, tuyệt vời quá, con đường ẩn dấu mấy ngàn năm của tiên tri Isaia nhìn thấy, bỗng hiện ra rất thật trong tâm hồn tôi.
Thánh Lộ của Isaia trình bày không phải chỉ là con đường dẫn đưa nhân loại về thiên đàng, nhưng thật sự là con đường mà nhân loại muốn sống còn phải tìm kiếm để bước đi trong thế giới đầy nhiễu nhương, loạn cuồng của thời đại vô minh, vô độ đến mất dần phương hướng như hiện nay.
Tôi cũng nhìn thấy trong tầm nhìn của tiên tri Isaia, Thánh không phải là những người vĩ đại đầy phép lạ ơn thiêng, nhưng Thánh theo ngài là những con người tỉnh thức, thiện hảo và từ tâm. Con đường nên thánh của tiên tri Isaia không phải là ảo tưởng của ảo giác mơ hồ, nhưng thật là con đường biến đổi con người, từ bỏ bóng tối dâm ô, trụy lạc, đầy bạo lực và mù quáng. Mù quáng trong suy tư, trong hành động và trong cả tín ngưỡng cuồng tín, suy đồi. Muốn bước vào Thánh Lộ, con người phải cố gắng thay đổi bằng chính ý muốn được thay đổi và sự trợ giúp của Ơn Thiêng từ Đấng giải thoát đầy quyền năng và xót thương nhân loại vì cuộc biến đổi quá lớn, con người vốn yếu hèn không thể tự mình bước đi mà không có trợ giúp của Đức Chúa, Đấng Toàn Năng. Trên Thánh Lộ ấy, Hòa Bình sẽ xuất hiện, nhân loại sẽ hớn hở tươi cười vì bạo lực đã bị loại trừ, đau khổ và khóc than không còn nữa.
Hòa Bình không chỉ là Ơn Thánh từ Trời Cao, nhưng Hòa Bình còn là một báu vật mà nhân loại phải thiết tha tìm kiếm, vun trồng, nuôi dưỡng bằng tình thương chân thật trong từng trái tim của con người bước đi trên thánh lộ không bị lầm lẫn bỡi dâm ô; không bị dối trá, che đậy cho bạo lực; cũng không phải bất chính đầy tham vọng, cuồng si.
Mở cửa bước ra ngoài căn nhà tĩnh tâm khép kín, tôi bắt đầu giờ cầu nguyện với những bước chầm chậm đi trên lối cỏ bình yên. Tôi xin Chúa dẫn tôi đi trên lối nào theo Thánh Ý vì tôi biết tự sức tôi sẽ chẳng làm được điều gì. Trời thật lặng, những cơn gió thoãng dịu dàng mở cánh cửa tâm hồn, cho tôi lắng nghe những tâm tình tận đáy lòng tôi. Tôi bước xuống thung lũng, lần theo lối mòn của đường Thánh Giá, rồi tình cờ dừng lại trước chặng đàng nơi bà Verônica lau mặt Chúa. Trên phiến gỗ đơn sơ của đường Thập Giá, hình ảnh gương mặt Chúa Giêsu được khắc ghi trên tấm khăn nhỏ, như dấu ấn Ngài muốn đặt vào trái tim tôi. Bước qua bên phải, tôi nhìn thấy chặng Chúa Giêsu gặp Đức Mẹ. Bước về bên trái là chặng Chúa Giêsu gặp các phụ nữ thành Giêrusalem. Cả ba chặng đàng tôi dừng lại tình cờ, đều có bóng dáng các phụ nữ trên đường Thánh Giá của Chúa. Tôi cũng là một phụ nữ, các hình ảnh tôi gặp trên những chặng đàng Thánh Giá tạo cho tôi một xúc động trong tâm hồn, như lời Ngài khẻ nói trong tim: “ Này con, con có hiểu ước mơ nào đã khiến Thầy phải đi trên đường Thánh Giá nầy không ? Và để ước mơ đó được hoàn tất, biến đổi trái tim con người, canh tân thế giới trong con đường mới, đem nhân loại về Sự Sống thật, con có dám cùng bước đi với Thầy không ? ” Câu hỏi bất ngờ quá, lớn quá, nhưng tôi lặng thinh vì tôi đã hiểu thế nào là Thập Giá. Tôi bỗng hiểu một phàm nhân yếu hèn như tôi làm sao bước được vào Thánh Lộ của Sự Sống mà không có Đấng khai mở cho bằng chính Thánh Giá của Ngài. Tự nhiên tôi cảm thông được nỗi đau đớn, lo sợ của Ngài trong vườn Dầu đêm xưa, cho linh hồn tôi bỗng run rẩy trên đường trở về nhà tĩnh tâm.
Trong Thánh Lễ cuối ngày, lúc rước lễ tự dưng một anh bạn trong nhóm cất cao giọng hát : “ Từ đây hỡi chúng con Thầy sẽ không gọi chúng con là hạng tôi tớ, vì từ đây hỡi chúng con Thầy đã ưng nhận chúng con là bạn hữu thâm tình …” Tiếng hát thâm trầm quá, mạnh mẽ xoáy vào tim tôi như lời thúc bách : “ Sao con thinh lặng? Trả lời đi con, con có muốn làm bạn hữu của Thầy không ? ”. Và tôi đã phủ phục xuống trong nước mắt để thưa : Vâng, lạy Thầy, con Xin Vâng .
Nam Hoa