Thần học về Hôn Nhân Gia Đình 2/5
Ảnh hưởng thần học về gia đình theo Vatican II
với bộ giáo luật 1983
Lm Giuse Phan Tấn Thành OP
1. Cộng đồng thân thiết của cuộc sống và tình yêu vợ chồng
2. Tình yêu đôi lứa
3. Khế ước hôn nhân
4. Thiện ích của đôi bạn và con cái
Kính thưa quý vị và các bạn,
Trong bài trước, chúng tôi đã trình bày những chặng quan trọng trong lịch sử của thần học về hôn nhân. Chúng ta đã nhận thấy rằng thần học về hôn nhân không phải là những suy diễn rút từ những bản văn Kinh thánh, nhưng thường là cố gắng của Giáo hội để đối phó với những thách đố của thời đại, khi phải diễn tả những yêu sách của Phúc âm qua những nền văn hóa khác nhau. Vào thế kỷ 20, đã nảy ra một chiều hướng mới về thần học hôn nhân, dưới ảnh hưởng của Kinh thánh cũng như triết thuyết nhân vị, đưa tới bản văn của công đồng Vaticano II. Bộ giáo luật 1983 đã được cải tổ lại cho hợp với thần học ấy.
Trong bài hôm nay, chúng tôi cố gắng nêu bật mối liên hệ giữa thần học và pháp lý, nghĩa là giữa giáo huấn của Hiến chế “Vui mừng và Hy vọng” với những điều khoản của bộ giáo luật: không những bộ giáo luật 1983 đã du nhập một số từ ngữ mới, mà còn giải thích một số từ ngữ cổ điển theo một tâm thức mới. Một thí dụ cụ thể là sự thỏa thuận hôn nhân. Cả bộ giáo luật cũ lẫn bộ giáo luật mới đều coi sự thỏa thuận như là yếu tính của giá thú; tuy nhiên, bộ giáo luật hiện hành đã xác định lại đối tượng của sự thỏa thuận ấy dựa theo thần học mới; hậu nhiên, nếu ai không có khả năng để đạt tới đối tượng ấy thì cũng không có khả năng để kết hôn. Như vậy, thần học của công đồng Vaticano II không phải chỉ là lý tưởng để chiêm ngắm nhưng còn mang theo những hậu quả pháp lý nữa. Chúng ta đối chiếu hiến chế “Vui mừng và Hy vọng” với những điều giáo luật nói về bản chất hôn nhân.
1. Cộng đồng thân thiết của cuộc sống và tình yêu vợ chồng
Intima communitas vitae et amor coniugalis – Consortium vitae
Mở đầu cho số 48 của hiến chế “Vui mừng và Hy vọng” bàn về định chế gia đình theo chương trình của Thiên Chúa, công đồng Vaticano II đã mô tả hôn nhân như là “cộng đồng thân thiết của cuộc sống và tình yêu vợ chồng”. Từ ngữ này muốn diễn tả lối nói của Kinh thánh “hai người nên một” (St 2,18) ra thực tại, bao hàm sự bình đẳng giữa hai vợ chồng, đồng thời với sự kết hiệp giữa hai người (đồng tâm hiệp ý). Nhưng mà từ ngữ ấy có hậu quả pháp lý gì không, hay chỉ là ý tưởng thơ mộng? Trong khi duyệt lại bộ giáo luật, các chuyên viên đã đặt ra câu hỏi như vậy? Họ đã do dự rất nhiều, và đắn đo những từ ngữ pháp lý trong quá khứ (consuetudo, communio vitae, coniunctio vitae), để rồi đi tới hạn từ “consortium vitae” (GL đ. 1055 §1; 1096 §1; 1098; 1135). Thực ra tiếng “consortium” đã được dùng trong cổ luật Rôma rồi, để nói tới gia đình như là một xã hội bền vững. Theo nguyên ngữ, “consortium” (con + sors) có nghĩa là chia sẻ một số phận, do đó có thể bao gồm một nội dung rất phong phú. Đức Gioan Phaolô II đã dùng nó làm đề tựa cho tông huấn nói về gia đình (“Familiaris consortio).
Bộ giáo luật sẽ rút ra những hệ luận pháp lý của nó. Nói rằng hôn nhân là “consortium vitae” có nghĩa là một cộng đồng năng động với quyền lợi và nghĩa vụ hỗ tương giữa vợ chồng. Nó bao gồm: a) việc hai người chung sống với nhau, đùm bọc che chở nhau (communio vitae, mutuum adiutorium); b) việc thông hiệp với nhau cả hồn (yêu thương) cả xác (sự giao hợp hướng tới sự truyền sinh) một cách trường tồn và độc hữu. – Như vậy từ ngữ “consortium vitae” có nội dung rất bao quát để mô tả bản chất của hôn nhân cũng như những nghĩa vụ và quyền lợi của đôi bạn.
2) Tình yêu đôi lứa : Amor coniugalis
Như chúng tôi đã trình bày trong bài trước, từ thế kỷ 17 về sau, thần học và luân lý coi mục tiêu chính của hôn nhân là sinh sản và giáo dục con cái, còn chuyện vợ chồng nâng đỡ nhau chỉ là mục tiêu phụ. Vào khoảng thập niên thứ 3 của thế kỷ 20, một khuynh hướng khác trong thần học đã muốn lật ngược lại thứ tự, và đặt tình yêu vợ chồng lên hàng đầu. Ý kiến này đã gặp nhiều chống đối, vì người ta e rằng nếu đặt tình yêu vào bản chất hôn nhân thì bao lâu còn yêu nhau thì còn hôn nhân, và ngày nào hết yêu thì hôn nhân cũng sẽ tan. Công đồng Vatican II đã chấp nhận rằng tình yêu vợ chồng nằm trong bản chất của hôn nhân, tình yêu có tính cách trao ban cho nhau và mở rộng tới mầm sống mới.
Thực ra, trong thông điệp Casti Connubii (30/12/1930), đức Piô XI đã nhìn nhận tầm quan trọng của tình yêu, nhưng chưa kể nó như là mục tiêu chính của hôn nhân. Sau công đồng, đức Phaolô VI (Humanae vitae) và Gioan Phaolô II (Familiaris consortio) đã đào sâu thêm ý nghĩa của tình yêu vợ chồng trong hôn nhân. Nhưng quan điểm ấy có ảnh hưởng gì tới pháp lý ? Ngoài vấn nạn đã được nêu trên đây (ngày nào hết yêu thì hôn nhân cũng sẽ tan hay sao ?) lại còn vấn nạn khác khi đối chiếu với các nền văn hóa mà “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”, nghĩa là trong đó vợ chồng bắt đầu yêu nhau sau khi đã kết bạn và chung sống với nhau: phải chăng giá thú chỉ thành hình từ lúc ấy ?
Có lẽ vì những vấn nạn ấy mà bộ luật không dùng từ ngữ “tình yêu” (amor coniugalis) khi định nghĩa bản chất của hôn nhân. Tuy vậy, không thiếu tác giả cho rằng tình yêu có giá trị pháp lý của nó, nếu hiểu tình yêu như là “amor benevolentiae”, nằm trong ý chí (chứ không phải chỉ là tình cảm xuông), nghĩa là khi chấp nhận trao ban cho nhau, khi muốn tìm thiện ích cho người bạn của mình và cho con cái: nếu thiếu ý chí đó vào lúc kết hôn thì giá thú sẽ vô giá trị. Tư tưởng đó làm nền móng cho đ. 1055 §1 và 1057 §2. Ngoài ra thiết tưởng cũng nên biết là theo đ.1061 §1, hôn nhân chỉ gọi là “hoàn hợp” (consummatum) khi hành vi ái ân diễn ra cách nhân linh (humano modo), chứ không phải qua vũ lực hay cuồng loạn !
3) Khế ước hôn nhân : Foedus coniugale
Thật khó dịch từ ngữ này ra tiếng Việt. Chúng ta thường nghe nói tới “hôn ước”, nhưng nó chỉ là tiếng tắt của “khế ước hôn nhân”. Tiếng “khế ước” (contractus) có tính cách pháp lý, bao hàm sự thỏa thuận chấp nhận những nghĩa vụ và quyền lợi. Từ thế kỷ thứ XII, nó đã đi vào thần học và giáo luật. Tuy nhiên, tại công đồng Vaticano II, nó đã bị chỉ trích nhiều vì quá vật chất: thực vậy, bộ giáo luật cũ coi hôn ước gần như một món hàng, trong đó đôi bên mặc cả về thân thể của nhau (jus ad corpus). Hiến chế “Vui mừng và Hy vọng” đã thay bằng một từ ngữ vừa có tính cách nhân bản vừa có tính cách đạo đức hơn đó là “foedus” (giao ước), một từ được Kinh thánh dùng để chỉ mối dây liên kết giữa Thiên Chúa với dân tuyển chọn; nó vừa nói lên tính cách bản vị lại vừa tính cách thánh thiêng; nó không phải chỉ có tính chất pháp lý nhưng còn bao hàm ý chí chọn lựa, thề nguyền.
Bộ giáo luật 1983 đã du nhập từ ngữ “foedus” vào các điều mô tả bản tính hôn nhân (đ.1055 §1; 1057 §2) tuy cũng còn duy trì từ ngữ “khế ước” ở điều 1055 §2. Tuy nhiên ngoài việc du nhập từ ngữ mới, ta cần phải ghi nhận tâm thức mới khi nói tới đối tượng của sự thỏa thuận hôn nhân. Nhà lập pháp không còn nói tới “quyền trên thân thể” nữa, song là “sự trao ban và lãnh nhận lẫn nhau” (sese mutuo tradunt et accipiunt). Họa theo giao ước của Kinh thánh, giao ước vợ chồng cũng phải mang tính cách bền vững (irrevocabilis). Tính cách thánh thiêng của giao ước sẽ siết chặt thêm thêm tính cách bất khả ly của hôn nhân. Và dĩ nhiên, sự chung thủy của vợ chồng cũng đòi hỏi tính chất đồng nhất, một vợ một chồng.
Hậu nhiên, nếu ai tự ý loại bỏ sự đồng nhất hoặc bất khả ly (thí dụ: chấp nhận cho phép được ngoại tình, hay đồng ý sẽ ly dị chừng nào tình yêu phai nhạt), thì giá thú sẽ vô hiệu. Hơn thế nữa, án lệ còn đi xa hơn khi áp dụng đ.1095 để tuyên bố giá thú vô hiệu không những vì đôi bạn đã tự ý loại trừ tính cách duy nhất và bền vững của nó, nhưng còn vì họ thiếu khả năng để đảm nhận bổn phận chung thủy do hậu quả của vài chứng tật tâm lý (thí dụ những người mắc tật đồng tính luyến ái).
4) Thiện ích của đôi bạn và con cái : Bonum coniugum et prolis
Như đã nói trên đây, trong thần học và giáo luật trước đây, người ta xếp mục tiêu cả hôn nhân thành hai cấp bậc: chính yếu là sinh sản và giáo dục con cái; thứ yếu là vợ chồng nâng đỡ nhau. Công đồng Vaticano II đã loại bỏ cách xếp đặt thứ bậc mục tiêu, và sử dụng một dụng ngữ khác, đó là: hôn nhân nhắm tới thiện ích của đôi bạn và của con cái. Bộ giáo luật đã lấy lại từ ngữ đó ở đ.1055 §1.
a/ Nói tới thiện ích của đôi bạn, hiến chế “Vui mừng và Hy vọng” số 48 và 49 đã kê ra vài thí dụ: sự phát triển nhân vị, sự kết hợp khắng khít, sự giúp đỡ lẫn nhau về dịch vụ, kinh nghiệm; tình bạn hữu nghĩa thiết. Các học giả tìm cách đào sâu thêm khái niệm về “thiện ích của đôi bạn” dưới những khía cạnh tinh thần lẫn thể lý.
b/ Thiện ích của con cái. Dựa theo giáo huấn của công đồng Vaticano II, bộ giáo luật hiện hành coi rằng việc sinh sản và dưỡng dục con cái nằm trong chính tình yêu vợ chồng, ra như là hoa trái của việc trao ban hỗ tương của vợ chồng. Như vậy ta có thể hiểu thiện ích của con cái theo hai nghĩa:
(i) một đàng con cái được coi như thiện ích của tình yêu hôn nhân, kết quả của tình ân ái vợ chồng;
(ii) đàng khác vợ chồng phải nghĩ tới thiện ích của con cái, theo nghĩa là không những là sinh ra chúng mà còn phải nghĩ tới sự dưỡng dục chúng. Điều 1136 đã liệt kê 5 khía cạnh của sự giáo dục: thể lý, xã hội, văn hóa, luân lý, tôn giáo.
Học lý và án lệ bắt đầu rút ra những hậu quả pháp lý của những nhận xét vừa nói. Thí dụ: vào lúc kết hôn, nếu hai vợ chồng cương quyết sẽ không sinh con, (hoặc quyết định rằng sẽ phá thai trong trường hợp người vợ mang bầu), thì giá thú sẽ vô hiệu. Nhưng liệu có thể coi một giá thú vô hiệu nếu đôi vợ chồng không có khả năng dưỡng dục con cái, hoặc chủ trương loại bỏ sự giáo dục tôn giáo hay không ?
Những đặc điểm trên đây nói đựơc là nằm trong bản chất của hôn nhân theo luật tự nhiên, nhưng đựơc phân tích dưới ánh sáng của mặc khải và với sự đóng góp của các triết thuyết chịu ảnh hưởng của Kitô giáo. Tuy nhiên thần học về hôn nhân còn thêm một đặc tính riêng biệt nữa: hôn nhân là một bí tích. Thế nhưng đây lại là một vấn đề rất gay cấn của thần học hiện đại: phải hiểu thế nào về tính cách bí tích của hôn nhân ? Chúng tôi sẽ trình bày trong bài tới.