1. Bức họa cuộc tử đạo của cha thánh Phêrô Lê Tùy,
ngày 11-10-1833 tại Nghệ An
Kim Ân
Bức hoạ cao 1,660 m, rộng 0,942 m, được vẽ trên giấy bồi trên vải mỏng. Bức họa chủ yếu được vẽ theo luật đồng hiện. Nét vẽ trong bức họa này khá sắc sảo. Chúng tôi tạm chia bố cục bức hoạ làm bốn phần: bị bắt – bị giam cầm – giải ra pháp trường – hành quyết.
a/ Bị bắt: Góc phải, phần dưới của bức hoạ vẽ cảnh thánh nhân bị bắt. Trước tiên là hình ảnh một xóm nhỏ, phía trước xóm có cổng và con đường với dòng chữ Hán “Thanh Trác (? [1]) thôn” (lương dân thôn Thanh Trác đã bắt cha Phêrô Lê Tuỳ trên đường ngài đi kẻ liệt vào ngày 25-6-1833 [2]). Con đường trước thôn Thanh Trác hướng về phía một khu nhà có tường bao quanh. Liền phía trên khu nhà này có dòng chữ Hán “Thanh Chương huyện” [3]. Ở góc dưới cùng của bức hoạ là hình một chòi canh, gần đó có dòng chữ Hán “Sa Nam đồn”. Cổng huyện lị Thanh Chương có con đường dẫn tới bến đò. Bên kia sông là đoàn người áp giải cha Phêrô Lê Tùy, người đeo gông, có một viên quan dẫn đầu và một nhóm lính vác gươm và gậy đi theo, đoàn người tiến về phía một toà thành nhỏ, phía trên có dòng chữ Hán “Anh (?) Sơn phủ”. Chếch về phía trái, góc dưới có một số ngôi nhà, phía trên là dòng chữ Hán “Vân Đồn xã”.
b/ Bị giam: Phía trên cùng, góc phải là một toà thành với dòng chữ Hán “Nghệ An tỉnh”, hai cổng một bên là “Nam môn”, một bên là “chính Đông môn”. Trong thành, tại một căn nhà, cha Phêrô Lê Tùy đeo gong, nơi ngôi ngà có chữ “ngục thất”.
c/ Giải ra pháp trường: Phía ngoài toà thành là đoàn quân gươm giáo tuốt trần áp giải thánh nhân ra pháp trường, có một viên quan cưỡi voi chỉ huy đoàn quân, trên đầu viên quan là dòng chữ “giám sát quan”. Chếch về phía trái là dòng chữ Hán “tống chí luận hình” – dẫn ra pháp trường. Một tên lính đi trước thánh nhân, trên vai vác bản luận tội với hàng chữ “Minh Mạng thập tứ niên bát nguyệt …”
d/ Hành quyết: Cảnh hành quyết chiếm phần trung tâm trên bức hoạ và được vẽ khá sinh động. Một đội quân cầm giáo tạo thành vòng tròn quanh pháp trường, bên ngoài có đám dân chúng với tư thế và y phục khá đa dạng; viên quan cưỡi voi cũng ở vòng này, phía trên đầu ông ta có mấy chữ “giám trảm quan”. Ngay sát nơi hành quyết, một viên quan mặc áo the đang đứng, tay cầm cuộn giấy, phía trên trên đầu ông ta là chữ “thị sát”. Đứng đối diện viên quan này, viên trưởng nhóm đao phủ mặc áo đỏ, đeo gươm và cầm roi. Bốn viên đao phủ với tư thế khác nhau vây quanh thánh nhân. Một thanh gỗ ghi bản án được cắm ngay tại nơi hành hình với nội dung bằng chữ Hán ở mặt trước: “NHẤT ĐẲNG danh Tùy Lê Tùy quán Hà Nội tỉnh Thường Tín phủ Thanh Trì huyện Ninh Xá tổng Bằng Sở xã cai phạm hệ bản quốc nhân cửu tập dị đoan tự xưng đạo trưởng tiềm hướng dân gia tứ hành phiến dụ nã liệp (?) tra tần khâm án xử trứ trảm lập quyết dĩ giới”; mặt sau: “Minh Mạng thập tứ niên bát nguyệt nhị thập bát nhật – thìn thời.” [4]
Chếch về phía dưới là chiếc gông vừa được gỡ khỏi cổ thánh nhân. Sau một hồi chiêng lệnh, viên đao phủ chém đầu thánh nhân bằng một nhát gươm duy nhất, sau đó hắn tung cho đầu rơi xuống đất. Máu phun lênh láng trên chiếu và trên đất. Liền phía dưới chiếc gông, một đám người tay cầm giấy đang chạy về phía vị tử đạo vừa bị hành quyết để thấm máu. Xác thánh nhân nằm sấp trên chiếu, tay bị trói giặt ra phía sau.
Chếch về góc phải ngang với pháp trường có vài ba căn nhà, phía trên có ba chữ Hán. Hai chữ đầu đã quá mờ, chữ sau cùng hẳn là chữ xã. Theo chúng tôi, đây rất có thể là họ đạo Trang Mìa (Trang Nứa?), nơi thánh nhân được an táng [5].
——-
[1] Chúng tôi đặt dấu hỏi chấm ở những chỗ chúng tôi nghi ngờ vì chữ Hán trong bức hoạ đã quá mờ.
[2] Xem MEP, La salle des Martyrs du séminaire des Missions-étrangères, Charles Douniol, libraire-éditeur, Paris 1865, tr. 107.
[3] Sau khi bắt được cha Phêrô Lê Tùy, người thôn Thanh Trác đã giải ngài lên quan huyện.
[4] Bản án bằng chữ Hán được chúng tôi ghi theo phiến gỗ ghi bản án cắm tại pháp trường lúc hành hình thánh nhân, hiện được lưu giữ tại Phòng tử đạo thuộc Hội Thừa Sai Paris. Ở phần dưới của phiến gỗ, mặt trước, còn có những chữ Hán: “Thiên Chúa giáng sinh nhất thiên bát bách tâm thập tam niên – quí tị”.
[5] Xem MEP, sđd, tr. 109.