Tình yêu, đón nhận bản thân của nhau
1. Thế giới “ngoài đường” và thế giới “trong nhà”
Khi ta đi ra đường, mọi sự đều là đổi chác. Trong thế giới ngoài đường, từ những đồ vật cho đến thân xác con người, từ những tài năng cá nhân cho đến vị thế xã hội, và cả đức độ của một con người, tất cả đều được đưa vào bài toán kinh tế thị trường, nghĩa là được đặt lên một bàn cân để cân nhắc lời lỗ của một cuộc trao đổi. Nét đặc trưng của việc buôn bán này là làm sao hai bên cùng có lợi, nghĩa là bên nào cũng phải thu lời được cho mình. Mặt khác, việc mua bán đổi chác ấy luôn là chuyện thời vụ, hiểu theo nghĩa là trong từng “hợp đồng” có tính ngắn hạn, bởi vì đó không phải là giao ước đụng chạm đến bản thân.
Trong khi đó, khi về đến gia đình, người ta sống trong một bầu không khí khác, bầu không khí của một sự chấp nhận bản thân của nhau. Khi đó, những tương quan hằng ngày không phải là đổi chác, không phải là những trao đổi theo nguyên lý của sự công bằng.
Cuộc trao đổi của thế giới ngoài đường không đụng đến được bản thân của con người, chỉ là những trao đổi những sự vật (sự vật là tất cả những gì không phải là bản thân của con người). Trong thế giới trao đổi sự vật đó, nếu người ta có xúc phạm đến phẩm giá, hoặc đối sử lịch sự với nhau, thì thật ra đó cũng chỉ là chuyện “lễ nghĩa” mà thôi. Trên nền tảng ấy, cuộc đối thoại ngoài đường thật ra cũng chẳng phải là cuộc đối thoại thoả mãn được khát vọng sống với của con người.
Ở trong gia đình, người ta chấp nhận bản thân của nhau. Nơi đây, những gặp gỡ, trao đổi hằng ngày, không phải là trao đổi, nhưng hướng mở tới một sự liên kết sâu hơn, làm dày lên nghĩa tình trong hành trình cuộc sống. Trong gia đình, mọi “trao đổi sự vật” chỉ là một cách diễn tả của bản thân cho nhau; trong khi đó, nơi thế giới ngoài đường, chính bản thân lại có nguy cơ bị giản lược vào “sự vật” để đổi chác.
2. Giao ước móng nền
Khi người ta làm một căn nhà tạm thời, một căn nhà không có móng, thì điều quan trọng là phải nối kết kèo cột với nhau thật chắc. Nhưng khi người ta muốn dựng một căn nhà vững bền, thì điều quan trọng hơn là phải có nền móng vững chắc. Với căn nhà tạm thời, khi kèo cột bung ra, căn nhà sụp đổ. Nhưng với một căn nhà có móng, khi kèo cột rời ra, lung lay, lắc lư, nó vẫn có thể đứng được. Rồi người ta lại tìm cách nối kết kèo cột lại với nhau. Hình ảnh căn nhà như thế giống với những mối tương quan con người với nhau. Khi người ta “gá nghĩa” tạm thời, theo tình đồng nghiệp, tình nghĩa làng xóm… thì cần phải biết cư xử với nhau cho đẹp, phải biết điều, biết ngó trước nhìn sau, biết liệu cơm gắp mắm… bởi vì nếu “kèo cột” không ăn khớp với nhau, thì mọi sự sẽ đổ bể hết. Tuy nhiên, trong đời sống gia đình, khi người ta chấp nhận bản thân của nhau, thì mặc dù những điều ăn khớp trên kèo cột vẫn luôn cần thiết, nhưng điều quan trọng nhất lại chính là một sự “thuộc về nhau”, thuộc trọn về nhau; đây là một sự liên kết trong móng nền.
Nhiều khi, trong gia đình, anh chị em không hợp tính nhau, thường xuyên cãi vã… nhưng dù sao họ vẫn là anh chị em của nhau, vẫn thuộc về nhau từ trong dòng máu của mẹ cha. Do đó, dù nói gì thì nói, dù tức bực với nhau sao đó, người ta vẫn phải dành ưu tiên những gì quí nhất cho những người thuộc về mình chứ không phải cho một người ngoài, dù đây là người rất hợp tính với mình.
Như thế, chúng ta hiểu ra rằng bí quyết của tình yêu không phải là sự ăn khớp tính tình, không phải chỉ là yêu thích những nét đẹp của nhau, nhưng căn bản hơn, đó là sống trong một nền tảng “thuộc về nhau”. Bí quyết đó là một thực tế hết sức quen thuộc của đời thường, ta có thể dễ dàng kiểm chứng và mọi người có thể sống được. Chẳng hạn : chúng ta có thể vào nhà thương ung bứu để thấy bao nhiêu cảnh khổ của cuộc sống con người, nhưng chiều về chúng ta vẫn cảm thấy thư thái, ăn ngon và ngủ ngon; vì những người đau khổ ấy, một cách nào đó, chưa dính dáng đến ta bao nhiêu. Cũng thế, chúng ta có thể chia vui với một người bạn xây xong một ngôi nhà khang trang, hoặc có con mới thi đậu đại học, những niềm vui đó chẳng sống động và sâu xa bao nhiêu so với bao nhiêu chuyện đang quay quắt trong quỹ đạo sinh hoạt thường ngày của cuộc đời mình. Ngược lại, nếu người nằm trong nhà thương Việt Pháp bị mổ ruột dư là em của tôi, người thi đậu tiểu học là cháu của tôi,… thì chắc chắn nỗi lo lắng và niềm vui của tôi sẽ sâu xa và mạnh mẽ hơn nhiều. Cái ruột dư bị đau chẳng quan trọng bằng cái bứu ác tính đang đe dọa tính mạng, văn bằng tiểu học chẳng là gì so với tờ giấy báo trúng tuyển đại học; nhưng những điều ấy lại dính dáng đến tôi, chúng được sống động do nguyên lý “thuộc về nhau”. Cũng thế, người thân của chúng ta chắc chắn chẳng hay hơn, chẳng tốt hơn, chẳng dễ thương hơn tất cả mọi người, nhưng điều quan trọng hơn là : đó là những người thuộc về tôi. Một khi đã xây dựng được một sự thuộc về nhau, tức là một sự đón nhận bản thân của nhau, người ta có thể vượt qua được những mâu thuẫn, những xung đột, hoặc những chướng ngại của một tật xấu nào đó, để có thể đón nhận người thuộc về mình một cách quảng đại và vô điều kiện.
3. Thiên Chúa giao ước móng nền với con người
Nếu như trong Cựu Ứơc, giao ước giữa Giavê với Dân còn có phần tính toán, tìm lợi lộc và chưa dính dáng trọn vẹn đến bản thân của mỗi người, thì Tân Ước mới thực sự là giao ước ở mức độ bản thân. Nơi đây, Thiên Chúa trao trọn bản thân của Ngài trong Đức Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa, và người Kitô hữu cũng dâng trao trọn vẹn bản thân mình cho Chúa.
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. (Ga 3,16)
Chúng ta có thể thấy rõ giao ước của bí tích Rửa Tội không phải là một thứ giao ước thuận mua vừa bán. Trong loại giao ước như thế, mỗi bên chỉ góp vào một phần sự vật nào đó của mình chứ không đóng góp chính bản thân mình. Ngược lại, trong giao ước “móng nền”, giao ước “ngôi vị” sẽ làm nên một “cộng đồng ngôi vị”, trong đó, người ta đem chính bản thân mình ra để “ký kết”. Trong giao ước ngôi vị như thế, mỗi bên trao phó trọn vẹn bản thân mình cho nhau và cũng đón nhận trọn vẹn bản thân của người kia.
Thiên Chúa đã ban Con Một của Ngài cho chúng ta; và mỗi người Kitô hữu, khi lãnh bí tích Rửa Tội, chấp nhận chết đi cho con người cũ để sống một con người mới hoàn toàn, con người mới hoàn toàn thuộc về Chúa, từ lối sống cho tới cả những ý nghĩ thầm kín nhất….
* “Thật vậy, không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa” (Rm 14,7-8)
* “Đức Ki-tô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình”. (2Cr 5,15)
Sống trong giao ước “móng nền” của bí tích Rửa Tội, người Kitô hữu nhận ra Thiên Chúa là Đấng “cùng phe” với mình, Thiên Chúa giúp mình “trả nợ đời” chứ Ngài không phải là ông chủ nợ. Thiên Chúa là người Cha với tất cả phẩm chất của người Cha chứ không phải là một ông chủ :
” Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng : ‘Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng ! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.’ Và họ bắt đầu ăn mừng.” (Lc 15, 21-24)
Thiên Chúa trao ban chính bản thân mình, chứ không phải chỉ là trao ban một đồ vật, một món hàng nào đó. Điều đó giống như một người “nắm đàng chuôi”, chỉ có niềm tin vào tình yêu được đáp trả là sức mạnh duy nhất để đợi chờ. Tình yêu trao bao cần phải được chờ đợi, để lãnh nhận chính bản thân của người tín hữu tự do trao tặng. Thiên Chúa đã muốn chọn con đường yêu thương như thế.