Chính anh em là chứng nhân về những điều này

Chính anh em là chứng nhân về những điều này

Chính anh em là chứng nhân về những điều nàyHôm nay, chúng ta bước vào tuần thứ III mùa Phục Sinh. Trọng tâm của mùa Phục Sinh, như lời Lm Charles E. Miller nói, đó là “cử hành các biến cố trọng đại về ơn cứu độ của chúng ta nhờ Mầu Nhiệm Vượt Qua: cái chết và sự sống lại của Đức Ki-tô”. Nói cách khác, cái chết và sự sống lại của Đức Giê-su Ki-tô chính là sự vẹn toàn chương trình cứu độ của Thiên Chúa, một sự vẹn toàn đem đến ơn cứu độ cho con người. 

Là một Ki-tô hữu, không ai trong chúng ta lại không xác tin và tuyên xưng niềm tin này, thế nhưng, với các tông đồ xưa, tin vào sự sống lại của Đức Giê-su, lại là sự thách đố của các ngài. Đã có một  lần Chúa Giêsu  hiện ra với các môn đệ, các ngài hoảng hốt tưởng là ma. Tại sao hôm đó các ông không tin Đức Giê-su Phục Sinh? Phải chăng, vì lúc ấy tâm hồn  các ông đang mang nặng tâm trạng “người đi một nửa hồn tôi chết, còn nửa hồn kia bỗng dại khờ”?

Vâng, rất có thể là vậy, bởi, sau những ngày Đức Giê-su bị bắt và bị chết treo trên thập giá tại đồi Golgotha, các môn đệ tuy sống nhưng cũng như đã chết, các ông mất phương hướng, cuộc sống của các ông chỉ còn lại sự sợ hãi và âu lo, sự âu lo và sợ hãi. Sự sợ hãi đã khiến các ông cảm thấy như “hồn đã chết”. Sự âu lo đã làm cho các ông cảm thấy “hồn kia bỗng dại khờ”…

Hãy nhìn xem, chung quanh các ông là  đầy dẫy những tin đồn bất lợi. Nhóm thượng tế và kỳ mục đã có một hành động hết sức “ma mãnh”. Họ chi một một số tiền lớn cho bọn lính canh mộ và bảo nhóm lính đó hãy  tung tin đồn rằng, vào ban đêm “các môn đệ của ông Giêsu đã đến lấy trộm xác”, và đó chính là nguyên nhân khiến nỗi dại khờ càng tăng cao trong hồn các ông.

Chính nỗi “dại khờ” tăng cao đã làm cho những nguồn tin về Thầy Giêsu, như nguồn tin bà Maria Macdala thuật lại cho các ông, rằng “Tôi đã thấy Chúa”, trở nên “vớ vẫn” đến lạ kỳ. Ngay cả một nguồn tin thân cận, do hai người môn đệ trong lúc “nhọc nhằn lê gót chân buồn” trở về làng Emmau, cho biết, họ đã gặp Thầy Giêsu và họ “nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh”, vẫn chưa đem đến cho các môn đệ niềm tin Đức Giê-su Phục Sinh.

Vâng, hôm đó, trong khi các ông còn đang băn khoăn về những nguồn tin trên, thì “chính Đức Giêsu đứng giữa các ông…” Với một động tác quen thuộc, Đức Giê-su Phục Sinh đưa tay về phía các ông và nói: “Bình an cho anh em”. Là một lời chúc bình an, ấy thế mà các ông lại bất an, bất an đến nỗi Phêrô cũng như toàn thể đồng môn sửng sờ  “kinh hồn bạt vía”.

Không thể tin được, mới chỉ có chưa đầy ba ngày mà các ông đã không nhận ra  dung nhan Đức Giêsu. Hôm trước, hôm bà Maria Mác-da-la ra ngôi mộ, khi  gặp Đức Giê-su Phục Sinh, bà ta tưởng là “người làm vườn”, còn hôm nay, tệ ơi là tệ,  các ông lại tưởng Thầy mình “là ma”…

Đúng là Thầy Giê-su đã trỗi dậy từ cõi chết – Hôm ấy, Đức Giêsu tiến về phía các ông và nói: “Sao lại hoảng hốt. Sao lòng anh em còn ngờ vực. Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà. Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây ?” 

Như người mục tử xót xa nhìn đàn chiên bơ vơ không người chăn dắt, Đức Giêsu nói với các ông rằng: “Tất cả những gì sách luật Môse, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm”.  Và cuối cùng Người “mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh”.

Người ta có nói “Kẻ thù của niềm tin là sự sợ hãi chứ không phải sự nghi ngờ”. Hôm đó, Đức Giêsu quả đúng là một bậc thầy về tâm lý. Ngài đã không trách cứ các môn đệ về sự nghi ngờ của các ông. Đức Giê-su, trái lại, chỉ gửi đến các môn đệ  một lời truyền dạy, như để các ông xác tín về niềm tin của mình, lời truyền dạy, rằng: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại…”, và rằng :  “Chính anh em là chứng nhân về những điều này”

Các môn đệ có vâng nghe và thực thi lời truyền dạy của Đức Giê-su không? Vâng, hỏi để mà hỏi mà thôi. Các môn đệ, tuy, lúc đầu có thoáng chút nghi nan, nhưng sau này, nhất là sau khi nhận lãnh ơn Chúa Thánh Thần, các ngài đã trở thành những “chứng nhân” đích thực của Đức Giê-su Phục Sinh.

Thật vậy, sau này, dù phải đối mặt với các tư tế, các kỳ mục, các kinh sư,  dù các Tông Đồ bị đánh đòn và cấm rao giảng Đức Giêsu Phục Sinh, nhưng những hình phạt đó vẫn không làm cho các ông “hoảng hốt”. Ông Phêrô và các Tông Đồ khác vẫn hiên ngang làm chứng rằng “Đấng mà chính anh em đã nộp và chối bỏ… đã giết… nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết, về điều này chúng tôi xin làm chứng” (Cv 3, …13-14).

Một điều cũng nên biết, hầu hết tất cả các tông đồ  đều đã “tử đạo” để làm chứng cho niềm tin cứu độ, niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh. Máu tử đạo của các tông đồ đã xóa tan đi  “lời than phiền” năm xưa của Đức Giêsu  đối với các ông, rằng “Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực?”.

Cuộc đời của một Ki-tô hữu là một cuộc lữ hành, cuộc lữ hành về Thiên Quốc. Cuộc lữ hành này, có phần chắc, không êm đềm như mặt nước mùa thu. Sẽ có nhiều sóng gió, sóng gió của chiến tranh, của khủng bố. Nó sẽ làm cho chúng ta “hoảng hốt”, hoảng hốt trước chết chóc, đói kém, bệnh tật, mất mát nhà cửa, mất mát người thân yêu v.v…

Sẽ có nhiều sóng gió, sóng gió của chủ thuyết, đại loại như chủ thuyết hiện sinh, chủ thuyết duy vật vô thần… Nó, không nhiều thì ít, sẽ làm cho ta  “ngờ vực”,  ngờ vực trước những lời tuyên cáo mà chủ thuyết đưa ra như “Thượng Đế đã chết rồi” hoặc những lời miệt thị xách mé, rằng thì-là-mà “thằng trời đi chỗ khác chơi, để cho nông hội tiến lên làm mùa” v.v…

Vâng, nếu hôm nay Đức Giê-su hiện đến bên chúng ta, hẳn nhiên, Ngài cũng sẽ nói với chúng ta rằng, “Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực?”.  Tại sao lại hoảng hốt? Cớ gì lại ngờ vực? Phải chăng là vì chúng ta  không có sự bình an của Chúa? Phải chăng là vì chúng ta quên đi lời phán truyền của Ngài?

Hãy nghe, Đức Giêsu, trong bữa tiệc ly, Ngài đã nói rằng: “Thầy để lại bình an cho anh em. Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.” (Ga 14 : 27).

Bình An Chúa ban “không theo kiểu thế gian”, đó chính là bình an trong nghịch cảnh. Sự bình an trong nghịch cảnh chấp nhận thương đau, chấp nhận hy sinh, chấp nhận từ bỏ… Và một khi chấp nhận thương đau, chấp nhận từ bỏ, chấp nhận hy sinh thì đó chính là lúc chúng ta trở thành “khí cụ bình an của Chúa”.

Một khi trở thành khí cụ bình an của Chúa, hãy tin, cuộc lữ hành về Thiên Quốc của chúng ta sẽ là một cuộc lữ hành “bừng cháy” tình yêu thương, một tình yêu thương giống như chính tình yêu mà Đức Giê-su đã thể hiện trên thập giá, đó là “hy sinh mạng sống vì người mình yêu”.

Thưa Bạn, bộ mặt của thế gian rồi sẽ thay đổi, và những chủ thuyết của nó rồi sẽ lụi tàn, nhưng niềm tin Đức Giê-su Phục Sinh thì không. Bạn có tin thế không? Dù bạn và tôi không tin, nó đã và đang xảy ra như chúng ta đã thấy và đang thấy.

Đức Giê-su Phục Sinh của năm nay cũng chính là Đức Giê-su Phục Sinh mà các thánh tông đồ đã gặp vào “ngày thứ nhất trong tuần” năm xưa, mà các ông đã đặt niềm tin vào Người.

Làm thế nào để chúng ta có được niềm tin mạnh mẽ như các thánh đồ năm xưa? Thưa, rất giản dị. Hãy để một vài phút thinh lặng và hãy cất tiếng nguyện cầu, lời khẩn cầu tha thiết, rằng: “Xin Thầy ở lại với chúng con, vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn”. Đừng quên, nhờ lời khẩn cầu tha thiết này mà hai môn đệ trên đường về Emmau đã có cơ hội nhận ra Đức Giê-su Phục Sinh như thế nào.

Vâng, thế giới hôm nay, với cuộc chiến đẫm máu giữa ISIS  và các nước ở Trung Đông, rồi cuộc chiến “thổ tả” ở Ukraine do nhóm thân Nga khởi xướng, cộng với cuộc nội chiến ở Châu Phi, cùng với cuộc chạy đua vũ trang của các nước ở quanh Biển Đông, nó như lời cảnh  báo cho chúng ta biết rằng, thế giới “sắp tàn” rồi.   

Thế nên, một lần nữa, hãy tự hỏi, tôi đã nhận ra Đức Giê-su Phục Sinh chưa? Nếu đã nhận ra, chúng ta hãy dành thêm một phút để cùng nhau nguyện cầu, rằng: “Lạy Chúa Kitô phục sinh, Chúa luôn đồng hành cùng chúng con trong cuộc sống. Xin cho tất cả chúng con biết nhận ra sự hiện diện của Chúa, để chúng con luôn vui sống giữa những phiền muộn của cuộc đời. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.” (trích: Sách Lời nguyện)

“Luôn vui sống giữa những phiền muộn của cuộc đời”. Vâng, có được một cuộc sống như thế, cuộc đời Ki-tô hữu của chúng ta sẽ là một cuộc đời “chứng nhân” của bình an, của tình yêu, của hy vọng.

Nói tắt một lời, sống một cuộc sống như thế, đó chính là chúng ta đã sống trọn vẹn một cuộc sống “chứng nhân cho Đức Kitô”, một cuộc sống xưa kia Người đã truyền dạy “Chính anh em là chứng nhân về những điều này”.

Petrus.tran   

Trả lời