Chúa Nhật XXXI Thường Niên - Năm C Kn 11:22-12:1 ; 2 Tx 1:11-2:2 ; Lc 19:1-10
An Phong op : Thiên Chúa là Ðấng Cứu độ Fr. Jude Siciliano, op : Thiên Chúa Kêu Mời Chúng Ta Vào Bàn Tiệc Fr. Jude Siciliano op : Tha Thứ Và Ra Đi Tìm Kiếm Người Khác Giuse Nguyễn Cao Luật op : Niềm Vui Của Thiên Chúa Giacôbê Phạm Văn Phượng op : Sám hối Giuse Nguyễn Hải Phương op: Con Người đến tìm kiếm những gì đã mất Đỗ Lực op : Một Vấn Đề Nhức Nhối Fr. Jude Siciliano, op : Đức Giêsu Luôn Thấy Kẻ Tìm Kiếm Người Fr. Jude Siciliano, op: Bạn có khao khát gặp Chúa không?
Thiên Chúa là Ðấng Cứu độ
Ranh giới giữa nhơ uế và thanh sạch Trong đạo Do Thái, có một ranh giới giữa thanh sạch và nhơ uế, giữa tội lỗi và công chính... một ranh giới rất "thiêng liêng", mà chỉ có một đời sống luân lý nghiêm khắc mới có thể giúp người ta vượt qua được. Như thế, yếu tố luân lý trở thành yếu tố quan trọng nhất. Họ quan niệm cuộc đời con người như một cuộc thi cử, ai đủ điểm trung bình thì vượt qua được ngưỡng cửa thi cử, đó là thi đậu; ai không đủ điểm thì không thể vượt qua và là thi rớt. Cách phân chia này làm cho người nào chưa vượt qua được mức trung bình thì sợ hãi; người nào vượt qua được mức trung bình thì yên tâm, an nghĩ và thỏa mãn với đời sống của mình. Chúa Giêsu nhiều lần phá bỏ ranh giới "siêu hình" này, vượt qua ranh giới giữa thanh sạch và nhơ uế. Chúa Giêsu tiếp xúc với những người thu thuế, ăn cơm với họ, Ngài để cho người đàn bà tội lỗi lấy tóc lau chân. Chúa Giêsu cho thấy Thiên Chúa chẳng từ nan để vượt qua những ranh giới úy kỵ giữa thanh sạch và nhơ uế, giữa thánh thiện và tội lỗi... để gặp gỡ những người Ngài yêu thương và kiếm tìm. Không phải luân lý nhưng là ơn cứu độ Ở đây cũng thế, Chúa Giêsu đã đi bước trước, Ngài vượt qua cái úy kỵ của người biệt phái : bị nhơ uế vì tiếp xúc với người tội lỗi, Ngài thân hành đề nghị trú ngụ ở nhà ông Giakêu, dù lúc đó ông chưa có "hành vi sám hối". "Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã hư mất"
Thái độ của Chúa Giêsu cho thấy một
nguồn mạch mới của đời sống đạo : điều chính yếu của Tin Mừng Ðức Giêsu
chính là ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa chứ không phải nỗ lực luân lý của con
người. Chính thái độ đi bước trước của Chúa Giêsu đã giúp cho ông Giakêu sám
hối và tìm được một đời sống luân lý tốt đẹp, chứ không phải ngược lại. "Hôm nay nhà này được cứu độ" Ơn Cứu độ tặng-không Trong thư Roma (5, 8), thánh Phaolô đã từng nói rằng : "Thế mà Ðức Kitô đã chết vì chúng ta ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta" Ðiều đó được thể hiện trong trình thuật Chúa Giêsu đến với Giakêu hôm nay. Ðiều "cần thiết" của Giakêu chỉ thái độ sẵn sàng để đón nhận hồng ân của Chúa. Một thái độ sẵn sàng, một lòng tin đơn thành, một sự chân nhận tình yêu của Thiên Chúa, đó là những điều thuộc về tự do của con người mà Thiên Chúa không muốn ép buộc. Với những ai sẵn sàng, Chúa Giêsu nhìn thấy con người đó trong dòng dõi những người tin; "bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham", và Ngài nhận thấy họ chính là đối tượng sứ vụ Ngài; bởi vì : "Con Người đến là để tìm và cứu vớt những gì hư hỏng". Lời nguyện Lạy Chúa Giêsu, Không phải con đến với Chúa, nhưng là Chúa đến với con trong bí tích Thánh Thể hôm nay. Con đến nhà thờ hôm nay như bày tỏ một chút thiện chí của con; những gì còn lại, là ơn cứu độ, là sự thay đổi đời sống,
xin Chúa rộng lòng ban cho con
Niềm Vui Hôm
Nay Thế giới ngày càng căng thẳng. Tìm được nụ cười như tìm thấy một bảo vật. Niềm vui thực sự là dấu chỉ của một cuộc giải tỏa tâm hồn hay một cuộc giải thoát khỏi một hoàn cảnh khó khăn. Hôm nay Ðức Giêsu đem lại một niềm vui cho nhà Dakêu. Cần dừng lại đôi phút để thấy niềm vui đó lớn lao chừng nào. Ông Dakêu là một người "đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có," (Lc 19:2) nghĩa là một "người tội lỗi" (Lc 19:7) nhất trong những người tội lỗi. Trong khi mọi người tránh xa những hạng người như thế, Ðức Giêsu lại "vào trọ" (Lc 19:7) nhà ông. Ông vô cùng kinh ngạc và xúc động vì thái độ thân thiện khác thường này. Từ kinh ngạc đến cảm phục, ông đã thay đổi hẳn cuộc sống. Ông "thưa với Chúa rằng : ?Thưa Ngài, tôi xin lấy phân nửa tài sản của tôi mà cho người nghèo ; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.?" (Lc 19:8) Ðức Giêsu không hề giảng cho ông một bài nào về công bình hay lên tiếng đánh động tấm lòng để thúc đẩy ông dốc hết tài sản cho những người nghèo và bị bạc đãi hay đàn áp. Nhưng dung nhan Chúa đã chiếu một luồng ánh sáng siêu nhiên phơi bầy tất cả sự thật về những việc ông làm cho đồng loại từ xưa đến nay. Ông chợt tỉnh và nhận ra tất cả những dơ bẩn trong cõi lòng mình. Thế là ông nhất quyết thanh tẩy tất cả để chuẩn bị đón nhận những hồng ân lớn lao. Ông đã đánh mất chính bản thân. Nhưng nhờ Ðức Giêsu, ông đã tìm lại những gì đã tiêu trầm trong vũng tội lệ. "Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất." (Lc 19:10) Hơn nữa, ông còn tìm được một giá trị tuyệt vời. Trước giá trị vô cùng lớn lao này, tất cả đều trở thành bóng mờ hay vô nghĩa. Bởi đấy ông mới có thể quyết liệt dứt bỏ những tài sản bất công ông đã chiếm đoạt của người khác. Lúc đầu ông Dakêu cứ tưởng mình là người tìm Chúa. Nhưng thực tế, Chúa đã tìm ông. Ông tìm Chúa để thỏa mãn tính tò mò. Ông tò mò vì thực tế quá khác với những ưu tư của mình. Ông giàu có và quyền lực như thế, nhưng vẫn không chiếm được lòng người. Trong khi một anh chàng khố rách áo ôm như Ðức Giêsu lại thu hút mọi người. Không hiểu mãnh lực nào đã khiến có sự sai biệt như thế. Mọi người xa lánh khiến ông cảm thấy cuộc đời thật trống rỗng và vô nghĩa. Ông mơ một ngày được quí mến như Ðức Giêsu. Một phần thôi cũng không bao giờ được ! Ðó là lý do tại sao ông "leo lên một cây sung để xem Ðức Giêsu." (Lc 19:4) Khi giáp mặt Người, ông mới cảm thấy một sức thu hút mãnh liệt từ Con Người Giêsu. Từ tấm lòng cảm phục sâu xa, tim ông bật thành tiếng bi thương vượt quá lòng mong đợi của những người nghèo khổ và bị áp bức. Ơn cứu độ đã có một chiều kích xã hội. Ðức Giêsu đã cho mọi người cảm thấy bầu khí ấm áp và thân mật của hồng ơn Thiên Chúa: "Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham." (Lc 19:9) Nghĩa là, đức tin đã dẫn ông Dakêu tới nguồn ơn cứu độ là Ðức Giêsu Kitô. Rõ ràng không phải vì tò mò mà "ông ta tìm cách để xem cho biết Ðức Giêsu là ai." (Lc 19:3) Nhưng lòng tin thúc đẩy ông muốn tìm một lối thoát cho những bế tắc hôm nay trong thân phận làm người. Ông đã mãn nguyện. Quả thực, Thiên Chúa "dùng quyền năng mà hoàn thành mọi thiện chí của anh em và mọi công việc anh em làm vì lòng tin." (2 Tx 1:11) Quyền năng đó đã thể hiện mãnh liệt khi Thiên Chúa tỏ lòng "xót thương hết mọi người, để họ còn ăn hăn hối cải." (Kn 11:23) Ông Dakêu đã phung phí bao nhiêu thời giờ và sức lực để tạo nên những bất công cho xã hội. Giờ đây, Thiên Chúa cho ông cơ hội nhìn lại con người mình. Tất cả những gì theo đuổi từ xưa tới nay đều vô nghĩa. Ông đã đánh mất chính mình khi quay cuồng với những tham vọng vật chất đó. Cứ tưởng có tiền là có tất cả. Ông đã vong thân và tha hóa cùng cực. Bởi vậy, ông thấy phải trả giá. Nói khác, tất cả những gì đã mất mát đều được tìm lại trong cuộc hội ngộ với Ðức Giêsu dưới mái ấm gia đình ông. Những mất mát do bất công ngoài xã hội đã được tìm lại trong bầu khí gia đình. Khi chạy ra bên ngoài, người ta dễ đánh mất những giá trị đích thực bên trong. Ra đi là mất mát, là chết chóc. Trở về là sống dồi dào, phong phú. Chỉ khi nào trở về với chính nội tâm, con người mới nhận ra "Ðấng yêu sự sống" (Kn 11:26) và "là sự sống" (Ga 11:25) đang hiện diện rất gần gũi với mình. Ông Dakêu đã cảm nhận sự sống ấy như một kho tàng vô cùng phong phú. Thế nên, ông đã đánh đổi tất cả. Những hi sinh của ông chẳng là gì so với ân sủng ông đón nhận qua bàn tay Ðức Giêsu. Sở dĩ ông Dakêu đã đón nhận được hồng ân cao cả đó, vì "Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải." (Kn 11:23) Chúa khác hẳn con người. Thế mới biết lòng Chúa vô cùng bao la. Trước mắt con người giàu có như Dakêu đáng bị lên án. Hình như Ðức Giêsu cũng đồng ý như thế : "Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao ! Quả vậy, con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa." (Lc 18:24-25) Nếu Chúa cũng giống con người, không bao giờ con người có thể được tha thứ. Người sống trên xương máu đồng bào như Dakêu chỉ có mỗi con đường duy nhất là xuống hỏa ngục ! Tình trạng vô cùng tuyệt vọng. Thế nhưng, đứng trước tình trạng vô phương cứu vãn đó, Ðức Giêsu đã bật sáng lên một tia lửa cuối đường hầm : "Những gì không thể đối với loài người, thì đều có thể được đối với Thiên Chúa." (Lc 18:27) Thực tế, "Chúa xót thương hết mọi người vì Chúa làm được hết mọi sự." (Kn 11:23) Người đến cứu rỗi cả người nghèo lẫn người giàu. Ơn cứu độ không hề lệ thuộc vào một ranh giới nào ! Người giàu nhưng có thiện chí như ông Dakêu, làm sao Chúa ngoảnh mặt làm ngơ cho đành ? Thực thế, Chúa "dùng quyền năng mà hoàn thành mọi thiện chí của anh em và mọi công việc anh em làm vì lòng tin." (2 Tx 1:11) Ông đã chứng tỏ thiện chí và lòng tin khi tìm mọi cách giáp mặt Ðức Giêsu. Một nỗ lực âm thầm như thế được Thiên Chúa đánh giá rất cao. Bởi vậy, Người mới lấy ơn cứu độ để đáp trả thiện chí ấy. Có lẽ trong quá khứ, đối với những người đã làm nhiều việc bất công như ông Dakêu, "Chúa sửa dạy từ từ, Chúa cảnh cáo họ, nhắc cho họ nhớ họ đã phạm tội gì, dể họ bỏ điều ác mà tin vào Chúa." (Kn 12:2) Cuộc hội ngộ với Ðức Giêsu chỉ là giọt nước tràn ly. Giọt nước nặng ký đó phủ ngập ân sủng. Việc gì phải đến đã đến. Ðức Giêsu là tất cả nguồn ân sủng lớn lao biến cải toàn thể cuộc đời ông. Ông còn sống sót tới lúc đón nhận nguồn ân sủng ấy. Ðiều đó không ngoài thánh ý Chúa. Biết bao người đã ghê tởm, nguyền rủa, lánh xa ông. Nhưng, "Chúa không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã làm ra, vì giả như Chúa ghét loài nào, thì đã chẳng dựng nên. Nếu như Ngài không muốn, làm sao môọt vật tồn tại nổi ? Nếu như Ngài không cho hiện hữu, làm sao nó có thể được duy trì ?" (Kn 11:24-25) Thế nên thời gian ông đang sống là một thời gian của lòng thương xót. Ơn cứu độ cũng trào ra từ lòng thương xót đó. Nhìn vào ông Dakêu, chúng ta mới thấy rõ tất cả sự thật về con người và cuộc đời mình. Cuộc sống chỉ thật có ý nghĩa và phong phú khi "danh của Chúa chúng ta là Ðức Giêsu, sẽ được tôn vinh nơi anh em, và anh em được tôn vinh nơi Người, chiếu theo ân sủng của Thiên Chúa chúng ta và của Chúa Giêsu Kitô." (2 Tx 1:12) Ân sủng Thiên Chúa chỉ biểu lộ nơi Danh Ðức Giêsu, Danh gói trọn toàn thể lòng thương xót của Thiên Chúa đối với loài người. Chính vì Danh ấy, chúng ta được kêu gọi làm Kitô hữu. Nghĩa là, chúng ta được kêu gọi để biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa !
Thiên Chúa Kêu
Mời Chúng Ta Vào Bàn Tiệc Thưa quý vị. Ngày xưa các cụ sống trong văn hoá Khổng Mạnh, việc đặt tên cho con cháu là hệ trọng. Các cụ chọn ngày tháng, bói quẻ, mở sổ sách kiếm tên cho đứa trẻ mới sinh. Nhưng việc đó không hẳn tự động tạo nên nhân cách cho nó. Ví dụ: Hùng, chưa chắc nó sẽ là một tay thể thao cừ khôi. Mến, chưa hẳn là một cô gái hiền hoà. Hoa, không báo trước đứa trẻ đẹp, có khi ngược lại còn xấu như ma mút. Nhung, đa số là phụ nữ dữ tợn, trộm cướp. Bên Phương Tây cũng vậy. "Marie" đâu phải là một người nhân đức như Ðức Maria. Steve không giống như thánh Têphanô. Bob đâu phải là thánh Giacôbê. Christina chưa chắc là một tín hữu nhiệt thành. Nhưng đôi khi tên cũng trùng hợp với hạnh kiểm người mang nó, nhất là khi đương sự được hưởng một ơn đặc biệt. Trường hợp này có trong Tin mừng hôm nay. Truyện của ông Giakêu. Trước khi gặp gỡ Ðức Giêsu, ông Giakêu sống ngược với ý nghĩa của tên mình. Vì Giakêu trong tiếng Do thái có nghĩa là trong sạch, người công chính được Chúa nhớ tới . Nhưng ông lại là đầu mục của phường thu thuế. Trong con mắt dân chúng lúc ấy, ông là kẻ đại tội lỗi. Thánh Luca còn miêu tả ông là người giàu có. Thu thuế, giàu có, chắc chắn là kẻ bất lương, phản bội dân tộc mình, nhờ uy đế quốc Roma đàn áp và bóc lột dân đen. Thời ấy, người La Mã không trực tiếp thu thuế dân thuộc địa mà cho thầy từng vùng, từng miền. Quan chức địa phương nào bỏ thầu cao nhất thì được thu thuế của dân chúng miền hoặc vùng đó. Hệ thống này cho phép những kẻ tham lam nhiều cơ hội làm giàu. Bởi lẽ họ biết rõ tình hình tài chính của dân chúng trong vùng, họ sẽ lợi dựng để vơ vét, bóc lột không thương tiếc. Họ sẽ thuê mướn những tay côn đồ khác để vắt cạn kiệt tiền bạc của các gia đình. Sau khi trả cho người Roma số tiền bỏ thầu, phần dư khổng lồ sẽ vào túi các quan chức địa phương này. Do đó họ tối đa hút máu mủ của dân địa phương. Quần chúng khinh bỉ coi họ là người tội lỗi , ngang hàng với đĩ điếm. Thánh Luca cho biết Giakêu rất giàu có, cho nên chúng ta có thể ước đoán ông đã lỗi phạm khá nhiều trong nghề nghiệp. Ở tình trạng như thế, việc Chúa Giêsu tìm gặp ông Giakêu không phải là ngẫu nhiên. Thiên Chúa đã xúi giục ông tò mò trèo lên cây sung để có thể xem thấy Ðức Giêsu đi ngang qua. Ðây là điểm chính yếu của câu chuyện hôm nay. Giakêu hoàn toàn bất lực không có khả năng thoát ra khỏi tình trạng luân lý của mình. Ông không có công trạng nào để được Chúa thương tha thứ. Tên Giakêu của ông là một trò cười đối với nghề nghiệp và nếp sống của mình. Ông sống hoàn toàn trái ngược với tiêu huẩn đạo đức của xã hội. Vậy mà trước khi câu chuyện kết thúc, Chúa Giêsu xác nhận ông là: "Con cháu tổ phụ Abraham", nghĩa là kẻ được thừa hưởng lời hứa cứu độ của Thiên Chúa, kẻ được sống trong Giao ước với Thiên Chúa. Câu chuyện thât lạ lùng, khiến cho dân chúng bàng hoàng và phái Pharisêu lộn ruột. Nếu như Giakêu thực sự như Chúa Giêsu nói, thì ông phải cảm thương đồng bào mình, không bỏ thầu, không cộng tác với người La Mã bóc lột dân chúng. Chí ít ông ăn ở công bình, không vơ vét, bằng lòng với số lương chính đáng. Nhưng thánh Luca lại nói ông là người giàu có, chứng cớ quá hiển nhiên, không thể chối cãi. Tuy nhiên khi câu chuyện kết thúc, Giakêu thay đổi hoàn toàn, ông ta là người ngược hẳn với lúc khởi đầu. Sau khi đối diện với Chúa Giêsu ông biến thành người Israel đích thật, là dòng giống Abraham đầy lòng tin, đúng như Chúa Giêsu tuyên bố, Ông sẵn sàng chia sẻ một nửa gia tài cho người nghèo khó, đền gấp bốn những thiệt hại ông đã gây nên. Luật Môsê không buộc phải đi xa đến như vậy. Tội gian lận theo như Lêvi ký, chỉ phải đền 1/5 tài sản thiệt hại (5,24). Giakêu lúc này đã trở thành con người lương thiện. Hậu quả, dĩ nhiên không thuộc về công nghiệp của ông mà là lòng thương xót rộng rãi của Ðức Chúa Trời, tha thứ cho ông. Ðây cũng là kinh nghiện của mỗi linh hồn trở lại. Họ sống tốt lành để đền bù ơn Chúa. Nếu không chẳng có dấu chỉ nào chứng minh chúng ta đã trở lại. Chúng ta vẫn sống trong ảo tưởng về đạo đức riêng của mình, chứ không phải là sự thánh thiện Phúc âm, như tuần vừa qua Chúa Giêsu chỉ rõ. Tin Mừng không nói cho độc giả hay tâm trạng ông Giakêu thế nào trước khi ông ra đi đón gặp Ðức Giêsu. Có lẽ ông bị thúc đẩy bởi phép lạ Chúa Giêsu chữa lành cho người mù ăn xin ở cổng thành Giêrikhô vừa xảy ra trước đó ít lâu. Ông tò mò muốn biết Chúa Giêsu là ai? Hoặc ông bị lương tâm cắn rứt, muốn thay đổi cuộc sống. Ông đã gian lận quá nhiều, bị cộng đồng khu phố khinh miệt. Hoặc giả con cái ông bị hàng xóm láng giềng tẩy chay, không được chơi chung với con cái họ. Gia đình ông bị lăng nhục vì nghề nghiệp bẩn thỉu. Liệu thời thế đã chín mùi để ông thay đổi nếp sống? Chúng ta chẳng có phương cách nào để biết rõ sự thật, bởi vì Phúc âm không nói . Mọi sự chỉ là phỏng đoán mà thôi. Tuy nhiên, có một điều chắc chắn ông muốn tìm hiểu Chúa Giêsu là người như thế nào? Phúc âm kể: "Ở thành Giêrikhô có một người tên là Giakêu, ông đứng đầu những người thu thuế và là người giàu có. Ông muốn tìm cách để xem Ðức Giêsu là ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông mà ông ta lại lùn. Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Ðức Giêsu, vì Người sắp đi qua đó. Ðức Giêsu tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông: "Này ông Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông". Như vậy ý định của Giakêu là được ngắm nhìn một nhân vật nổi tiếng! Còn những sự kiện khác chúng ta chẳng hề hay. Ví dụ: Cơ hội để xem một người cùi hủi khác được chữa lành, người mù được mở mắt cho trông thấy, đám đông được nuôi nấng cách lạ lùng, kẻ chết sống lại... Chúng ta chỉ được biết như thánh Luca muốn cho cho hay. Và đó là dụng ý của thánh nhân khi viết Tin Mừng. Tình trạng tâm hồn của Giakêu không được tỏ lộ. Chỉ biết rằng ông là người thu thuế mướn cho chính quyền bảo hộ, là kẻ tội lỗi công khai, được xếp chung với bọn đĩ điếm và bị khinh bỉ. Công việc bỉ ổi của ông ai cũng biết, không phải thầm kín. Ðến đây, thánh nhân cho hay vế thứ hai của câu chuyện, Chúa Giêsu hay làm bạn với hạng người này, chè chén với họ. Cho nên giới lãnh đạo đền thờ không mấy có cảm tình. Nhiều lần Ngài đã bị họ phê bình, chỉ trích, nhất là những người tự coi mình thanh sạch, đạo đức như Biệt phái, ký lục, kinh sư... Trước mắt họ xem ra Chúa Giêsu là một tên vô lại, không có hy vọng cải thiện, hay lui tới nhà người tội lỗi. Lần này là ông Giakêu, khét tiếng bóc lột. Ngài gọi ông xuống khỏi cây sung và đề nghị dùng bữa tại nhà ông. Sự thực, thánh Luca thuật: "Chúa Giêsu đi đến chỗ ấy, thì nhìn lên và nói với ông: Này ông Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay ta phải ở lại nhà ông". Tại sao Chúa Giêsu phải trú lại nhà Giakêu ? Bài đọc 1 cho chúng ta câu trả lời. Thiên Chúa toàn năng, Ðấng tạo dựng vũ trụ, hằng quan tâm đến mọi loài, đến từng cá thể, từng mỗi linh hồn. Ðó là sự quan phòng riêng biệt chứ không phải chung chung trên các sự vật Ngài đã tạo thành: "Lạy Chúa, trước Thánh Nhan, toàn thể vũ trụ ví tựa hạt cát trên bàn cân, tựa hạt sương mai rơi trên mặt đất". Nghĩa là từng chi tiết trong hoàn vũ, đặc biệt Ngài thương cảm những sinh vật có hơi thở, nhất là loài người. Ngài chăm lo cho chúng tốt tươi, hạnh phúc: "Quả thế, Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã dựng nên, và giả như Chúa ghét loài nào, thì đã chẳng dựng nên". Tình yêu ấy được cụ thể hoá nơi Ðức Giêsu Kitô, Thiên Chúa biến thành nhục thể, chăm lo cho mọi linh hồn được ơn cứu rỗi. Vì vậy khi Ðức Giêsu bước đi trên đường phố Giêrikhô hôm đó, Ngài đã thực hiện công việc của Ðức Chúa Trời và biểu lộ lòng thương yêu của Thiên Chúa luôn tưới gội trên con người. Quyền năng của Ngài là để phục vụ lòng hiền từ nhân ái của mình chứ không phải ra án phạt, tuy rằng án phạt vẫn là mặt khác của quyền bính cai trị. Ông Giakêu trèo lên cây sung để tìm kiếm Thiên Chúa, xem Ngài là ai ? Nhưng thực chất Chúa Giêsu đang kiếm tìm ông để cứu vớt ông. Ngài nhìn thấy ông, truyền cho ông bườc xuống và đề nghị ăn bữa tại nhà ông. Trường hợp này giống như Chúa Giêsu tìm kiếm Nathanael (tức tông đồ Bartôlômêô) dưới cây vả (Ga 1,48). Chúa Giêsu thấu suốt mọi tâm can, không chi có thể dấu được cái nhìn của Ngài. Vượt qua sự tò mò của Giakêu, Chúa Giêsu còn thấy rõ linh hồn ông. Ngài đã bày tỏ lòng yêu mến của Thiên Chúa cho ông, bởi rõ ràng ông là con chiên lạc, đáng được mang về đàn. Ðám đông xì xào bàn tán: "Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ". Chúa Giêsu trả lời: "Con người đến để tìm và cứu những gì đã mất". Rõ ràng đó là cách thức Thiên Chúa bày tỏ quyền năng, ngược hẳn với quyền bính thế gian và cũng khác với sức tưởng tượng của chúng ta. Nhân từ, thương xót là lúc Chúa biểu lộ uy quyền hơn cả. Sách Khôn ngoan và Tin mừng hôm nay đều đồng ý như vậy: "Lạy Ðức Chúa, sinh khí bất diệt của Ngài ở trong muôn loài, muôn vật. Vì thế, những ai sa ngã, Chúa sửa dạy từ từ". Thần khí bất diệt cũng ở trong ông Giakêu tội lỗi và Chúa Giêsu đã cho chúng ta hay, Thiên Chúa đối xử ra sao với những kẻ lầm đường, lạc lối. Ngài đã xót thương , tỏ lòng nhân từ đối với ông. Ông đã đứng dậy, thật lòng hối cải, ăn năn, thay đổi cuộc sống. Con mắt yêu thương hằng theo dõi Giakêu vì ông là thụ tạo của bàn tay Ngài dựng nên. Ngài không để mất một linh hồn nào trên cõi dương gian. Cho nên đừng vì thân xác lùn thấp và hành động kỳ quặc của ông mà cho ông như một người đãng trí, nực cười. Ðiều này có thể làm cho cuộc trở lại của ông không thành thực. Ông đã là người tội lỗi, vơ vét tài sản trên lưng đồng bào nghèo khó. Ðức Kitô đã phát hiện ra ông và ông đã đón tiếp Ngài vào nhà mình, tức cuộc đời mình. Ông đã mời Chúa dùng bữa với toàn thể gia đình, bữa tiệc bày tỏ tình bạn hữu chân thành. Mặc nhiên gia đình ông trở nên thân thiết với Chúa Giêsu. Vì thế Chúa tuyên bố: "Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham". Phần Chúa Giêsu, tình thương của Ngài cũng vươn tới gia đình Giakêu rõ ràng. Ngài không để mất thời giờ, vội vàng phán bảo ông: "Xuống mau đi, vì hôm nay ta phải ở lại nhà ông". Bổn phận của Ngài là cứu chữa linh hồn Giakêu, tội lỗi đầy mình. Tuy nhiên giữa Chúa Giêsu và Giakêu, ai là chủ, ai là khách? Thường tình Giakêu là chủ, nhưng thái độ tích cực của Chúa Giêsu chứng tỏ Giakêu là khách, Ngài là chủ. Bởi lẽ Ngài tìm kiếm và kêu gọi Giakêu. Ngài chủ động trong hoàn cảnh này, mặc dầu ngôi nhà là của Giakêu. Ngài đã mời Giakêu dự tiệc ngay trong nhà ông. Một điều hết sức gây ngạc nhiên cho người Biệt phái vì họ chẳng thể hiểu được tâm ý của Chúa Giêsu. Chúng ta xây dựng thánh đường, thấp hèn hay nguy nga tráng lệ, chúng ta họp nhau thờ phượng Ngài tại đó. Chúng ta mang bánh rượu dâng tiến Ngài trên bàn thờ. Nhưng xin nhớ chúng ta chỉ là khách được mời. Còn chính Chúa Giêsu mới là chủ sự bữa tiệc. Thiên Chúa đã dọn tiệc cho chúng ta trong Ðức Giêsu Kitô. Ngài đã tìm kiếm và kêu mời nhân loại vào bàn tiệc. Cho nên chúng ta phải có tâm tình thống hối, tạ ơn giống như ông Giakêu. Sau đó đến lượt mình, chúng ta cũng phải ra đi, tìm kiếm và kêu mời những kẻ còn bên lề ơn cứu rỗi. Họ là ai? Có thể là cha mẹ, anh em, bà con, láng giềng, hay những kẻ tha hương lữ thứ, hoặc xì ke, ma tuý, đĩ điếm, cướp giật, lừa đảo, buôn gian bán lận. Những người mà Chúa Giêsu "phải ở trong nhà họ"? Amen.
Tha Thứ Và Ra
Đi Tìm Kiếm Người Khác Thưa quý vị. Biết một chút về bối cảnh của bài đọc Khôn ngoan giúp chúng ta khai triển lời rao giảng dễ hơn. Sách Khôn ngoan của vua Salomon được viết khoảng năm 50 trước Thiên Chúa Giáng Sinh, không phải bởi vua Salomon, nhưng bởi cộng đồng Do Thái lưu lạc ở Ai Cập (Có lẽ tại Alexandria). Như vậy, bối cảnh gợi ý rằng dân tộc Do Thái đang sống giữa lòng một quốc gia hùng mạnh, tiến bộ về trí tuệ và kiến thức khoa học. Ðó là một môi trường có tính chất hết sức dụ dỗ. Những thành tựu của người Ai Cập được thể hiện chẳng hạn như trong các Kim tự tháp và các kỹ thuật công nghiệp, máy móc khác. Cộng đồng Do Thái phải chiến đấu nhiều lắm mới có thể trung thành với đức tin truyền thống của mình. Liệu họ có mặc cảm tự ty với người Ai Cập tiến bộ không ? Liệu họ có phải ngỡ ngàng rằng các thần thánh Ai Cập có sức mạnh vượt hơn Thiên Chúa Giavê của dân tộc Do Thái không ? Thật rất khó khăn để trung thành với Thiên Chúa mà không cảm thấy bị đe dọa bởi cái gọi là thành tựu của các dân tộc vô đạo chung quanh ! Lại còn khó khăn hơn nữa khi nhìn về tương lai, liệu họ có giữ được con cái khỏi lìa bỏ đức tin và truyền thống của cha ông mà lây nhiễm nền văn hóa ngoại lai ? Những lo lắng trên thật giống lo lắng của chúng ta ngày hôm nay. Chúng ta cũng bị bao vây bởi các nguồn khôn ngoan vô đạo. Nó lôi kéo chúng ta, không phải bằng tử đạo (khi bài này đang được in thì 200 tín hữu bị giết ở Phi Châu, 18 ở Pakistan) nhưng bằng làm xói mòn đức tin của chúng ta ngày này qua ngày khác. Con em chúng ta là những nạn nhân nhạy cảm nhất. Nội dung của sách khôn ngoan không phải là những lời dạy bảo mới mẻ cho người Do Thái, mà là sự tổng hợp những khôn ngoan, gia sản của dân Chúa, thấm đượm trong toàn bộ Kinh thánh Do Thái. Sách Khôn ngoan, nhất là trích đoạn cho bài đọc hôm nay phản ánh đức khôn ngoan của các nhà quân tử Do Thái thời Cổ, khi nó nhấn mạnh đến sự thánh thiêng của đời sống con người. Ðức Chúa Trời đã dựng nên mọi sự tốt lành (ám chỉ rõ rệt về sách Sáng thế) và Ngài yêu mến hết mọi sự Ngài đã làm nên. Hơn nữa, tất cả các tạo vật Chúa đã tạo thành được chia sẻ tinh thần bất tử của Ðấng Cực Thánh. Bài đọc cũng nhấn mạnh lòng thương xót của Thiên Chúa, lòng thương xót đặt nền tảng không phải trên sự nghiệp tốt lành của chúng ta, mà là trên tình thương yêu của Thiên Chúa đối với tất cả những gì Ngài đã tạo thành. Trong khi chúng ta cần đến lòng thương xót của Ngài, chúng ta không thể chỉ ra một công nghiệp nào để đáng được hưởng sự thương xót đó. Tuy nhiên, lòng thương xót của Ngài luôn luôn sẵn sàng hiện diện trong mọi sự, bởi vì Thiên Chúa yêu thương mọi loài Ngài đã làm ra và từ tình yêu đó Ngài thương xót chúng ta. Suy nghĩ này dẫn đến trách nhiệm của loài người và từng người trong thế giới môi trường chung quanh mình. Chúng ta đã được chia sẻ cách đặc biệt tinh thần bất tử của Thiên Chúa. Chúng ta phải phản ánh tinh thần ấy trong việc quản trị thiên nhiên. Chúng ta chỉ có thể là hình ảnh của Ðấng tạo thành khi chúng ta chăm lo, như Chúa chăm lo, cho tất cả những gì Chúa đã dựng nên. Chúng ta xây dựng đường sá, cầu cống, xí nghiệp, nhà ở, nhưng cũng phải nghĩ đến môi trường sống cho các thú vật, cây cối. Con kiến, con rắn, bọ cạp dù nhỏ bé thế nào đi nữa cũng cần có nơi để sống, để sinh sôi nảy nở và chúng ta cũng phải dự trù cho chúng. Cây xanh, rừng núi cũng là các tạo vật của Chúa và cần thiết cho môi trường trái đất, chúng ta không thể tàn phá vô trách nhiệm. Thực ra mọi sự, mọi vật trong vũ trụ được Chúa ấn định cho một thứ "quyền". Xúc phạm đến quyền đó, thiên nhiên sẽ có cách trả thù, lúc ấy tai họa thật ghê gớm. Cho nên, Khôn ngoan dạy chúng ta phản ánh tình yêu của Thiên Chúa trên mọi sự sống, nhất là những sự sống nhỏ bé nhất. Phá thai hẳn là một trọng tội đối với thiên nhiên, giết người là trọng tội khác. Bởi vì "Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, và không ghê tởm một loài nào Ngài đã làm ra". Viễn vọng kính Hubble ngoài không gian đã khám phá ra nhiều chùm sao Thiên Hà mới. Càng nhìn ra xa vũ trụ, nhân loại càng thấy được bàn tay Thiên Chúa. Những dòng chữ mở đầu bài đọc một đã nhấn mạnh về thế giới được tạo dựng và về sự vô biên của Thiên Chúa. Liệu vị Thiên Chúa mà trước mặt toàn thể vũ trụ chỉ là hạt cát trên cán cân, hạt sương mai rơi xuống đất… có chăm lo đến những chi tiết nhỏ nhặt cuộc sống hằng ngày của bạn ? Sách khôn ngoan dạy: "Ngài thương xót hết mọi loài." Thiên Chúa vĩ đại của vũ trụ chăm lo cho chúng ta từng chi tiết và tha thứ tội lỗi chúng ta do bởi tình yêu Ngài. Chúa Giêsu đã xác thịt hóa tình yêu này khi Ngài mời gọi chúng ta đến ăn uống tại nhà người thu thuế Giakêu. "Hôm nay, nhà này được cứu độ". Chúa Giêsu đã biến sự chăm lo của Ðức Chúa Trời trên mọi sự, ngay cả trên những người bị khinh rẻ nhất, thành hành động và lời giảng dạy. Thiên Chúa, Ðấng yêu thương mọi loài, trong bài Phúc Âm hôm nay, đã cất công đi kiếm tìm. Ông Giakêu leo lên cây sung tưởng mình tìm kiếm Chúa Giêsu, nhưng sự thực, kết quả của câu chuyện cho thấy rõ, Chúa Giêsu đã kiếm tìm ông. Chính ông là con chiên đi lạc. Ông đâu có thuộc về đám đông theo sau Chúa Giêsu, những người tò mò rỗi rãi. Cũng như ngày nay, đám đông vây quanh các siêu sao điện ảnh, thể thao, chính trị, v.v… Nhưng như thánh Luca cho biết, ông Giakêu hôm ấy có mặt tại quãng đường Chúa Giêsu đi qua với lý do khác hẳn : "Ông tìm xem Chúa Giêsu là ai ? ông là mẫu gương của những kẻ kiên trì tìm kiếm, ông đã đi tìm Chúa Giêsu, nhưng té ra Chúa Giêsu đang đi kiếm tìm những chi đã mất. Giakêu là kẻ bị thất lạc. Một thực tại đáng buồn, ông ta giàu có những đồng tiền bất chính, bị cộng đoàn Do Thái khinh bỉ vì nghề thu thuế, phục vụ đế quốc Rôma, ông cũng chẳng được người La mã hoàn toàn chấp nhận. Như thế về mặt tôn giáo ông không thể được liệt vào hàng kính sợ Chúa hoặc được Chúa ưu ái. Dựa trên những gì ông làm, ông không phải là con người đáng yêu. Chúa yêu ông ta không phải vì công nghiệp của ông ta, nhưng hoàn toàn vì Ngài là tình thương. Bản chất của Ngài là yêu mến. Cho nên Ngài đã gửi Chúa Giêsu xuống để tìm kiếm ông ta. Chân tướng của Giakêu là như vậy. Của chúng ta cũng như thế thôi. Nếu chúng ta cảm thấy mình đáng yêu, đáng công nghiệp trước mặt Chúa. Phúc âm hôm nay không đề cập tới. Ông Giakêu đã nhận ra rằng, mặc dầu ông không xứng đáng, Chúa Giêsu đã kiếm ông và muốn đồng bàn với ông. Thiên Chúa cũng muốn dọn bàn tiệc cho chúng ta hôm nay, bàn tiệc bánh và rượu Thánh thể. Tại đó, chúng ta được lắng nghe lời khôn ngoan của Ngài, nhận ra mình được yêu mến và dưỡng nuôi, bởi chính Ðấng đã tìm kiếm chúng ta ! Phân đoạn Phúc âm hôm nay tiếp liền phân đoạn 18, 35 nói về câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành người mù thành Jericho, tức nói về sứ vụ của Ngài nơi những kẻ bất hạnh, bị xã hội ruồng bỏ. Giakêu là một người giàu có, là thu thuế trưởng, thật khó mà ra khỏi hoàn cảnh của mình, mặc dù nghề nghiệp đáng khinh bỉ. Ông ta chẳng thể tự cứu nổi mình, lối sống đã thành thói quen. Não trạng đã bị giam hãm trong một thế giới hạn hẹp, ông không thể ra khỏi đấy, trừ phi có người dẫn dắt ra, cho ông khả năng để trỗi dậy, người đến từ thế giới rộng lớn hơn. Chúa Giêsu đã vào nhà ông, mang đến cho ông nhãn quan rộng lớn đó. Cả hai người, ông Giakêu và người mù thành Jericho, đã nhận được ánh sáng từ Chúa Giêsu. Mắt họ mở ra và nhìn thấy thế giới huy hoàng đẹp đẽ của tình thương. Ông hứa sẽ trả lại cho những người ông đã bóc lột gấp bốn. Người nghèo thì được nửa phần gia tài của ông. Ý định đó không mang lại cho ông ơn cứu độ. Nó là kết quả của việc ông lắng nghe sứ điệp của Chúa Giêsu. Sứ điệp mở tai mở mắt cho ông. Tác giả Andrew Greely nói rằng có hai nguồn ảnh hưởng lớn trong đời sống tôn giáo của chúng ta. Một là thái độ sống đạo của người phối ngẫu. Hai là nghe giảng ngày Chúa Nhật. Những ảnh hưởng khác không mấy quan trọng. Như vậy ơn cứu độ đã tới nhà ông Giakêu và ông đã ăn năn trở lại. Chúng ta là nguồn ảnh hưởng lớn cho những ai cùng sống với chúng ta. Trong thánh lễ hôm nay, xin Chúa cho chúng ta trở nên nguồn ảnh hưởng tốt lành. Nhờ chứng kiến nếp sống của chúng ta, gia đình chúng ta, Giáo hội của chúng ta mà Chúa Giêsu đến mang ơn cứu độ cho mọi người trong ngôi thánh đường này. Bài Tin Mừng cũng nói rất nhiều với chúng ta về bí tích Thánh thể. Chúa Giêsu bị người Do Thái tố cáo là tiếp rước những kẻ tội lỗi, ăn uống với họ. Ðiều mà Ngài dự tính thực hiện ở Jericho, Ngài cũng dự định làm hôm nay. Ngài thu thập các tội nhân xung quanh bàn ăn. Ngài đã kiếm tìm họ, tha thứ cho họ. Việc chúng ta rước Chúa vào lòng nhắc nhớ, chúng ta đang ở trước mặt Ðấng đã biến đổi cuộc đời chúng ta cực kỳ sâu thẳm. Biến đổi cả cộng đoàn giáo xứ và nhân loại. Ngài đã tìm ra chúng ta, chúng ta cũng phải ra đi tìm kiếm người khác để đồng bàn với họ. Yếu tố chính yếu của Tin Mừng hôm nay là sự tha thứ. Chúng ta phải tìm kiếm người khác bằng sự tha thứ của mình, cảm thấy thân ái với họ. Thánh thể kêu gọi chúng ta tha thứ. Ước chi ơn cứu độ hôm nay đến trong nhà thờ này bởi lẽ mọi người đều đã được thứ tha. Amen.
Niềm Vui Của
Thiên Chúa Vẫn có một khát vọng Ðức Giêsu sắp đi ngang qua Giê-ri-khô, chặng cuối cùng trước khi băng qua sa mạc để lên Giê-ru-sa-lem. Cuộc đi qua này xác định thêm một lần nữa sứ vụ của Ðức Giêsu ; đó là tìm kiếm những gì đã hư mất. Ông Da-kêu là một người bị dân chúng coi thường, vì ông là người cộng tác với quân chiếm đóng Rô-ma. Ông là một nhân viên thuế vụ luôn tìm cách thu lợi cho quân chiếm đóng và nhờ vậy mình được giàu thêm. Trước mắt dân chúng, đó là một con người bị khinh bỉ, mặc dù tên gọi của ông có nghĩa là trong sạch, là công chính.
Tuy nhiên, con người này lại muốn
nhìn thấy Ðức Giêsu. Trong tâm hổn ông đang trào lên một khát vọng gặp được
Ðức Giêsu, một con người lừng danh vì các phép lạ, và cả vì lời giảng của
Người. Nhưng ông lại là một người thấp bé. Ông chen chúc trong đám đông. Ông
nghển cỗ, kiểng chân, nhưng vô ích ! Ông chẳng nhìn thấy Ðức Giêsu, ông thật
là một con người nhỏ mọn, không giá trị. Ông không dám chịu đến gần Ðức
Giêsu. Ông không dám tỏ mình ra. Quả thật, vì Ðức Giêsu, ông Da-kêu chẳng kể gì đến địa vị của mình. Ông chấp nhận tầm vóc nhỏ bé đích thực của mình. Ông chỉ là một người bé nhỏ khốn khỗ, và ông chấp nhận tình trạng này. Ông khiêm tốn, và bỏ hết mọi sự che đậy, mọi vẻ bên ngoài giả tạo. Ông trở về với sự giản dị của mình. Những gì vẫn bao phủ ông từ trước tới nay, lúc này rơi xuống hết. Ðối với người khác, có thể chẳng có gì thay đỗi, nhưng đối với ông tất cả đang bắt đầu ! Tất cả đã thay đỗi - như phần sau của câu chuyện cho thấy. Ông Da-kêu được tái tạo, khi ông khiêm tốn hạ mình. Ông đã leo lên cây (hình bóng của thập giá) và con người cũ đã chết trên đó. Một đời sống mới được khởi đầu, một con người mới được nảy sinh. Người đến để đem niềm vui Ðức Giêsu đi ngang qua và thấy có gì khác lạ. Ngước mắt lên, Người nhìn thấy ông và ngỏ lời với ông, một con người bị dân Do-thái coi là kẻ bất lương. Người nhận ra nơi con người này có điều gì đó đặc biệt : hành động leo lên cây của ông là một tiếng kêu gửi đến Người.
Người đòi lòng hiếu khách của ông và
tỏ ý muốn dùng bữa tại nhà ông. Ông cảm thấy quá hạnh phúc và "vội vàng tụt
xuống". Từ đây cuộc sống của ông hoàn toàn thay đỗi : từ một người bị cộng
đoàn khinh chê ruổng bỏ, ông được Ðức Giêsu đưa nhập vào cộng đoàn con cháu
tỗ phụ Áp-ra-ham. Như thế, từ cái nhìn yêu thương và mời gọi yêu thương, Ðức Giêsu không loại trừ ai cả, dù người đó thế nào chăng nữa. Lòng thương xót của Người đủ rộng để bao phủ mọi tội lôỵi của con người. Ông Da-kêu đã lọt vào trong tấm lưới là lòng từ ái của Thiên Chúa. Ông tìm lại được niềm tin nơi người đã cứu ông, và ông đã trở thành người được tha thứ. Còn niềm vui nào lớn lao hơn nữa ! Niềm vui chính là câu trả lời của Thiên Chúa cho con người chấp nhận để mình được cứu thoát khỏi chính bản thân mình và khỏi tội lôỵi. Ông Da-kêu vui và làm cả nhà rối loạn lên vì niềm vui. Ông thúc giục gia nhân chuẩn bị đón tiếp Ðức Giêsu. Từ trước đến nay do bản tính keo kiệt, chưa bao giờ ông tỗ chức một cuộc tiếp đón tưng bừng như thế. Nhưng chưa hết, do sức mạnh của ơn giải thoát, của niềm vui đang dào dạt trong lòng, ông đã sẵn sàng chia một nửa tài sản cho người nghèo, và hứa đền gấp bốn cho những người đã bị ông cưỡng đoạt tài sản. Ông Da-kêu đã bị tình yêu Ðức Giêsu chinh phục, ông sẵn sàng bỏ mọi sự để sống đời sống mới do Ðức Giêsu đem lại. Nhờ lòng thương xót của Người, tâm hổn ông đã hoán cải. Ông không nhận ra chính mình nữa, người khác cũng không nhận ra ông : đó là phép lạ lớn nhất. Có lẽ có người nghĩ rằng ông đã mất trí. Thực ra, sự quảng đại khó tin nỗi này là hệ quả đơn giản do lòng rộng rãi của Thiên Chúa, là dấu chỉ bên ngoài của sự hoán cải bên trong. Khi người ta thực sự được thứ tha, làm sao người ta lại không ước muốn trao tặng tất cả ? Bởi vì lúc ấy người ta là một người khác : một con cháu của tỗ phụ Áp-ra-ham, một người được cứu thoát, một người tin vào tình yêu đầy bất ngờ do Thiên Chúa đem lại. Thiên Chúa cần đến chúng ta Qua khát vọng của ông Da-kêu, Ðức Giêsu đã mở một con đường. Chính Người đã đưa ra sáng kiến, đã lôi ông từ trên cành cây xuống, đã làm vỡ tung những vỏ bọc bên ngoài con người ông. Người cần đến ông Da-kêu, như đã cần đến các ông Phê-rô, An-rê, và những người khác nữa như các cô Mác-ta, Ma-ri-a. Người cần đến họ để ở trong nhà họ, để sống với họ, biến họ thành những người bạn, những người anh em. Người cũng cần đến môỵi người chúng ta, Người muốn đến cư ngụ nơi chúng ta. Thế nhưng, môỵi lần Ðức Giêsu đến với một người nào thì Người trở thành người quấy rầy, người phá vỡ những tình trạng an toàn sẵn có. Những chuyện như thế không chỉ xảy ra nơi ông Da-kêu, nhưng còn nơi nhiều người khác như chúng ta đọc thấy trong Tin Mừng. Chẳng hạn như Mác-ta, cô phải thay đỗi cách nhìn ; như ông Phê-rô buộc lòng phải thả lưới, như Ðức Ma-ri-a và thánh Giu-se phải lên đường về Bét-lem, rổi sau đó từ Bét-lem sang Ai-cập. Luôn là những con đường hướng đến nơi không biết trước, không an toàn, kèm theo một thái độ từ bỏ quyết liệt buộc con người phải ra khỏi mình để lao vào trong tấm lòng của Thiên Chúa. Ðức Giêsu cũng đang ở trong chúng ta : Người muốn lôi chúng ta xuống khỏi cái cây của chúng ta. Người muốn phá vỡ sự phòng vệ cá nhân của ta, Người muốn đập tan những gì chúng ta coi là cần thiết để giữ thể diện. Người đang nhìn chúng ta và thôi thúc chúng ta môỵi ngày. Ðể đáp lại, chúng ta phải để cho lòng thương xót của Người xâm chiếm, đổng thời cũng để niềm vui của chính Thiên Chúa tràn ngập tâm hổn chúng ta. Nhưng Ðức Giêsu ngỏ lời với chúng ta bằng cách nào ? Nên nhớ rằng Thiên Chúa đã làm người để nói với chúng ta bằng ngôn ngữ loài người, ngôn ngữ bình thường của cuộc sống. Chúng ta có khát mong được nghe lời ấy không ? * * * Con chẳng biết làm thế nào để kính chào Chúa, phải chăng là dùng luật lệ của con ? Lạy Chúa, xin chỉ dạy con đường nẻo của Chúa, xin giải thoát con khỏi cảnh nô lệ là sự điên rổ của con. Xin hướng dẫn con, con vẫn còn đủ sức hạ mình, trước khi chính con trở thành gánh nặng cho con. theo J. Halevy
Sám hối Cách đây ít lâu, đài truyền hình Nhật Bản đã trực tiếp truyền hình cho khán giả trên cả nước được xem toàn bộ ban quản trị của một công ty dược phẩm cung cấp máu có tên là “Thập tự xanh” đã ra trước ống kính truyền hình để thú nhận vai trò của họ trong việc phân phối máu có nhiễm vi-rút HIV hồi năm 1986 làm cho nhiều người phải mang bệnh Si-đa. Sau khi ông chủ tịch công ty đọc lời thú tội, thì trong đám đông có tiếng la lớn : “Hãy quì gối xuống”. Đó là tiếng kêu của một trong những nạn nhân của hành động thiếu trách nhiệm trên đây. Liền sau đó, một người khác cũng hô lớn : “Hãy nhận lấy trách nhiệm của các ngươi về tội ác”. Tức khắc, ông chủ tịch và năm người trong ban quản trị công ty đã quì gối trước mặt cử tọa và gục đầu xuống sàn nhà trong 10 phút để nhận tội và tỏ dấu sám hối. Sám hối về những sai lỗi là điều bình thường, không có gì là hèn hạ và nhục nhã. Đạo của chúng ta xem việc sám hối ăn năn là một trong những đòi hỏi tiên quyết của niềm tin. Vì thế, sám hối là một đề tài mà không một ngôn sứ nào, không một tông đồ nào, không một nhà giảng thuyết nào không đề cập tới, chẳng hạn, thánh Gio-an Tẩy Giả khi bắt đầu giảng dạy, ngài kêu gọi mọi người : “Hãy sám hối để đón Chúa đến”. Chúa Giêsu cũng vậy, bắt đầu cuộc đời công khai, lời truyền giảng đầu tiên của Ngài là kêu gọi mọi người : “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Sám hối là chân thành nhìn nhận những lỗi lầm, những thiếu sót của mình và quyết tâm đổi mới đời sống. Do đó, sám hối không phải chỉ là hối tiếc những hành vi quá khứ, lại càng chẳng phải là thực thi cho đủ một nghi thức bên ngoài theo luật định, nhưng là thay lòng đổi dạ, đổi mới đời sống và cách sống của mình. Hiểu như vậy thì sám hối là việc bình thường nhưng cần thiết đối với tất cả mọi người. Tin Mừng kể lại nhiều mẫu gương sám hối, một gương mẫu điển hình là ông Da-kêu. Ông là một người tội lỗi nhưng đầy thiện chí. Ông ước muốn được nhìn thấy Chúa Giêsu, nhưng dân chúng đông quá, ông lại lùn, nên ông trèo lên một cây sung ở bên đường mà không sợ mọi người chế diễu. Quả thực, ông đã có thiện chí, bấy nhiêu thôi đã đủ để Chúa thưởng cho tấm lòng chân thành của ông, không những cho ông thấy mà Chúa còn đến nhà ông. Trước tình thương của Chúa, ông đã mở rộng tâm hồn, sẵn sàng chuộc lại tội lỗi, đem nửa gia tài phân phát cho người nghèo, không những thế, ông còn thực hiện sự công bình, làm thiệt hại ai ông sẽ đền gấp bốn. Kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Giêsu của ông Da-kêu là cái mẫu gặp gỡ Chúa của chúng ta, và yêu cầu chúng ta cũng hãy thực hiện một cuộc gặp gỡ Chúa như thế. Thực vậy, ông Da-kêu là gương mẫu người sám hối như Chúa Giêsu mong muốn, nhìn vào ông chúng ta sẽ kinh nghiệm được thế nào là sám hối. Vậy điều quan trọng chúng ta hãy nhớ : việc sám hối là một đặc ân của Thiên Chúa, chứ không phải là sáng kiến của chúng ta. Đó là tiếng gọi của Chúa mà chúng ta có nhiệm vụ đáp lại. Ông Da-kêu vì tò mò muốn xem Chúa, nên trèo lên cây mà nhìn, nhưng tâm hồn ông chỉ thay đổi hẳn khi Chúa nhìn ông, kêu tên ông và vào nhà ông. Những chi tiết đó nói lên cho chúng ta biết một cách hùng hồn vai trò của ơn Chúa, của tình thương Chúa trong việc sám hối : ơn Chúa đi trước, kêu gọi và mời đón. Tuy nhiên, chúng ta phải đáp lại tiếng gọi của Chúa, đáp lại sự trông đợi của Chúa thì công việc mới hoàn thành. Chúng ta cần đến gặp Chúa Giêsu và sám hối để được tha thứ và đổi mới cuộc đời. Chúa Giêsu là tình thương, là đại dương tình thương, nên dù chúng ta là ai, dù chúng ta đang sống trong tình trạng nào, dù cuộc đời chúng ta có xấu xa, bê bối thế nào, thậm chí tội lỗi chúng ta có nhiều và nặng nề đến đâu, vẫn không sao, Chúa sẽ tẩy xóa hết, Chúa sẽ tha thứ hết, để mỗi người chúng ta sẽ là một giọt tình thương trong đại dương yêu thương bao la của Chúa. Nhưng với điều kiện chúng ta phải đến với Chúa, phải gặp gỡ Chúa và thành thật nhìn nhận thân phận yếu hèn và tội lỗi của mình.
Con Người Đến Tìm Kiếm
Những Gì Đã Mất “Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Kitô, vì Người sắp qua đó”. Dakêu là một người giàu có, vì ông là trưởng phòng thuế của thị trấn quan trọng như Giêricô. Các lời đồn đại về Chúa Giêsu đã cuốn hút Dakêu, ông đã tìm cách xem Chúa Giêsu là người thế nào ? Nghe tin Đức Giêsu sắp đi ngang qua nhà, Dakêu tìm mọi cách để gặp Đức Giêsu, cho dù phải chen lấn, thậm chí phải leo lên cây để được xem thấy Đức Giêsu, Đấng ông hằng ước ao. Sự khao khát đó đã được Đức Giêsu cho thoả mãn khi Ngài nói :” Này ông Dakêu, xuống mau đi vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”. Hơn thế nữa, Chúa Giêsu đã biến đổi cuộc đời ông nên tốt, trở nên con người mới và ban cứu độ. Lạy Chúa Giêsu thánh thể, Ngài là Đấng mà ai gặp gỡ cũng tìm được hướng sống mới, tốt đẹp và hữu ích cho đời. Nơi Ngài đã toả lan một sức sống kỳ diệu. Sự lôi cuốn này không khước từ một ai, từ Maria Mađalena, một cô gái điếm, đến Phaolô, một người chuyên bách hại các Kitô hữu. Điều quan trọng hơn, Ngài đã biến đổi cuộc đời họ. Ngài biến đổi đời họ với một cái nhìn bao dung và đầy yêu thương. Chúa ơi, đã biết bao lần chúng con chối bỏ Ngài. Ngọn lửa mến Chúa yêu người trong tâm hồn chúng con đã tắt lịm hoặc chỉ leo lét. Những lo lắng vật chất hàng ngày đè nặng trên tâm trí, khiến chúng con chỉ biết lao vào vòng xoáy tiền tài danh vọng mà quên rằng xung quanh chúng con còn biết bao người cần giúp đỡ, cần sự sẻ chia. Xin đốt lên trong tâm hồn chúng con sự khao khát tìm gặp Chúa, biết sẻ chia với anh em. Chúa hãy biến đổi con người chúng con. Con người hẹp hòi, ích kỷ trở nên bao dung, biến đổi hận thù ghen ghét thành yêu thương. “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”. Lạy Chúa Giêsu, Ngài đã từ bỏ ngôi vị cao sang trên Thiên quốc, vâng lời Thiên Chúa xuống thế làm người để tìm và cứu loài người khỏi ách thống trị của ma quỉ. Kể từ lúc ông bà nguyên tổ phạm tội, cuộc sống con người mất hẳn ý nghĩa. Nhưng Thiên Chúa đã không bỏ mặc con người, Ngài đã sai Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế để tìm kiếm những tâm hồn lầm lạc, đến những người bị xã hội khinh khi,.. Ngài đã đến nhà ông Dakêu và biến đổi con người của ông. Thiên Chúa không muốn để mất một ai. Ngài luôn mở rộng vòng tay yêu thương để chờ đón chúng ta. Chúa Giêsu đã từ bỏ địa vị cao sang, xuống thế làm người để cứu chữa những tâm hồn tội lỗi. Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Vì yêu thương và không muốn con người bị hư mất, Ngài đã xuống thế làm người mang lấy tội lỗi của loài người và chết nhục nhã trên cây thập giá. Ngài đã đến để tìm những con chiên lạc. Ngài là cầu nối yêu thương để chung chuyển tình yêu của Chúa Cha xuống cho loài người. Phần chúng con, đã biết bao lần chúng con sống xa cách khinh miệt những người nghèo, những người thương tật, những kẻ bị ruồng bỏ. Thậm chí không ít lần đã góp phần chối bỏ nhân vị. Đó là những lúc chúng con làm ngơ trước những vấn nạn của xã hội, chạy theo những lối sống không phù hợp với đạo lý Tin Mừng. Xin ban cho chúng con biết quý trọng những người anh em xung quanh. Biết tôn trọng dù họ là người tội lỗi trước con mắt thế gian. Xin giúp chúng con mở rộng vòng tay đón nhận những người anh em mình, những người đau yếu bệnh tật. Xin dạy chúng con tìm đến với tha nhân để cùng sẻ chia những gánh nặng của cuộc đời. Sau hết xin lấy khỏi lòng chúng con quả tim chai đá và ban tặng quả tim biết yêu thương. Amen
Một
Vấn Đề Nhức Nhối
Nền giáo dục Việt Nam đang gặp khủng hoảng lớn. Giữa một xã hội đầy bạo động, lừa dối, tham nhũng, thối nát, nhà giáo làm được gì để cải tiến con người cho tương lai dân tộc? Làm sao thoát được ma lực của đồng tiền để có thể hướng dẫn bạn trẻ hôm nay? Muốn tìm được lối thoát cho nền giáo dục hôm nay, thiết tưởng nên tìm đến Tin Mừng để thấy được nơi Ðức Giêsu con đường giáo dục đầy sáng suốt, khoan dung và thực tế. Lịch sử cứu độ cũng chỉ là đường lối giáo dục đầy khôn ngoan, kiên nhẫn của Chúa dành cho dân Người mà thôi. ÐỨNG TRƯỚC ÐÁM ÐÔNG Trên đường về thành Giêrusalem, Chúa Giêsu muốn tập trung cao độ vào mục đích sứ mạng cứu thế giới. Người biết mình sắp phải hy sinh mạng sống. Trước giờ phút khắc nghiệt ấy, dĩ nhiên Chúa chẳng quan tâm tới của cải vật chất. Nhưng khi những biến cố tử nạn và cái chết sắp đến, Người cấp bách kêu gọi những ai muốn theo Người phải từ bỏ của cải. Ðối với Chúa, của cải là một trở ngại, vì nó cột chặt con người vào những trách nhiệm và làm cho họ quá bận tâm. Chúa Giêsu muốn chúng ta tập trung vào những điều cốt yếu, những điều quan trọng thực sự. Người nói chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng. Người truyền chúng ta phải thi hành công lý, yêu người nghèo khổ, hy sinh để chiếm lấy vinh quang cuối cùng. Quá nặng nề với của cải vật chất, không thể chu toàn bổn phận đó. Quần chúng chỉ biết có tiền. Chẳng hạn trước chương Lc 19 ít câu, thái độ người thanh niên giàu có cho thấy anh không thể vượt trên lối sống và nếp nghĩ quần chúng. Xung quang vấn đề ông Giakêu hôm nay cũng chỉ là tiền. Quần chúng uất hận, vì nếu không có bọn người tay sai như Giakêu, họ không bao giờ bị bóc lột tận xương tủy như vậy! Bởi đó, dứt khoát họ không thể đội trời chung với Giakêu. Dĩ nhiên Chúa chia sẻ quan điểm này với quần chúng. Chúa thông cảm, nhưng không thể đánh giá con người phiến diện như họ. Ðồng tiền có thể làm cho con người hư hỏng. Nhưng thần tài làm sao mạnh hơn Thiên Chúa? Một đàng Chúa kêu gọi môn đệ phải dứt khoát từ bỏ của cải. Ðàng khác, Chúa cho ta thấy của cải cũng không thể phá hủy con người hoàn toàn. Nơi sâu thẳm vẫn còn tiếng lương tâm, tiếng nói của Thiên Chúa. Trừ phi cố chấp buông theo đam mê vật chất, con người luôn là đối tượng cứu độ. Ðó là chỗ khác biệt giữa Chúa và quần chúng. Quần chúng không thể hiểu nổi tại sao Chúa lại ghé nhà Giakêu, một người “đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có.” (Lc 19:2) Phải chăng Chúa muốn chơi với người giàu có và quyền lực ? Phải chăng Chúa cấu kết với bọn đế quốc ? Thực ra, Chúa đến với ông để cho mọi người thấy Tin Mừng cứu độ không có một biên giới nào. Chúa không trục lợi hay tìm một chỗ ẩn núp nơi ông. Bằng chứng, ông chẳng hứa cho cá nhân Chúa điều gì. Ông quá giàu tiền của, nhưng thật nghèo nàn về tình cảm. Không ai chơi với ông. Mọi người đều lánh xa. Mặc dù đầy quyền lực và giàu có, nhưng ông bị nỗi cô đơn gậm nhấm theo thời gian. Ðó là cái giá ông phải trả cho những việc ông đã làm tổn thương nhiều nguyên tắc đạo đức và lòng ái quốc, cũng như đã cộng tác với quân Roma để được vinh thân phì da. Nhưng của cải không đủ lấp đầy con tim. Ông mơ ước ai đó sẽ đem lại cho mình môt ý nghĩa cuộc sống. Bởi đó, sau bao ngày thầm phục trước con người đã tạo thời cuộc là Ðức Giêsu, giờ đây ông làm mọi cách để có thể đối diện với Người. Ông tin gặp gỡ Ðức Kitô biến đổi cuộc đời mình, vì Người sẽ ban cho mình sư sống và lẽ sống. Hơn nữa, hiện hữu trên đời để làm gì, nếu không phải là để sống đời đời ? Ông tin Chúa sẽ chỉ cho ông con đường ngắn nhất đi đến cuộc sống đích thực. Trong nỗi cô đơn chất ngất, ông cảm thấy thèm khát được gặp một người lừng danh như Chúa. Hêrôđê cũng đã từng muốn gặp Chúa như vậy. Nhưng khác Hêrôđê, ông liều mình ra tận ngoài đường, chen chúc với đám đông và leo lên tận cây cao để dễ phóng tầm nhìn đến Chúa. Ra ngoài gặp đám đông quả là một cực hình, vì mọi người đều biết ông đã từng lừa đảo và ức hiếp. Ðám đông ồn ào chen lấn và ngăn cản ông. Kích thước khiêm tốn đã là một cản trở. Bây giờ cơn giận quần chúng càng làm ông mất thế trước Chúa nữa. Quần chúng muốn Chúa phải dừng lại để nói với họ đôi điều. Giữa lúc mọi người đều tẩy chay như thế, ông lại được Chúa đoái thương. Thật là một điều kinh ngạc đối với ông. Ông quá vui mừng, vì nhận thấy Chúa khác hẳn và vượt xa quần chúng, mặc dù ông chưa thấy Chúa làm phép lạ nào. Khi được Chúa gọi đích danh, ông giật mình và nhận ra tất cả sự thật và hạnh phúc lớn lao đang đến với mình. Có bị mọi người xa lánh và khinh bỉ, mới cảm thấy sâu xa cử chỉ yêu thương và lời ngỏ đầy thân ái của Chúa hôm nay có nghĩa gì. Giakêu đã chìm sâu trong biển lặng cô đơn và tủi nhục giữa đồng bào mình. Họ chỉ muốn không những xa lánh mà còn đòi công lý trừng phạt con người tội lỗi ấy. Nhưng thay vì giáng phạt, Chúa đã cứu vớt ông lên. Đòi hỏi của quần chúng hoàn toàn không hoàn toàn nghịch công lý. Nhưng công lý không có tình yêu sẽ đem lại hậu quả khốc hại. Phải bắt nguồn và đặt nền tảng sâu xa trong tình yêu, công lý mới đem lại hạnh phúc đích thực cho mọi người. Phép lạ lớn nhất hôm nay là tình yêu đã mở mắt và biến cải con người Giakêu hoàn toàn. Quá xúc động trước tình thương trời bể, Giakêu đã rũ bỏ hoàn toàn tất cả. Từ một người bóc lột dân nghèo, ông trở thành vị đại ân nhân của họ (x. Lc 19:8). Chỉ tình yêu mới có sức mạnh biến đổi lớn lao như vậy! Nhưng đó chưa phải là kết quả lớn nhất của tình yêu. Kết quả lớn nhất chính là “hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này.” (Lc 19:9) Chúa đã vận dụng mọi cách để cứu con người, dù họ có bị mọi người bỏ rơi và khinh bỉ. Dưới mắt Chúa, không một ai cô đơn. Mọi người chỉ đánh giá theo hình dáng bên ngoài, nên không thể thấy những biến chuyển bên trong tâm hồn Giakêu. Ðây mới là điều đáng kể đối với Chúa. Thực vậy, Giakêu đã trải qua một cuộc sám hối. Ðiều Chúa Giêsu yêu cầu đã có một tầm ảnh hưởng quá sức lớn đối với ông. Chúa Giêsu, Ðấng Thánh của Thiên Chúa, muốn hiện diện để chúc lành cho ông. Ðáp lại, ông muốn từ bỏ những lợi lộc bất chính và cho đi tất cả. Làm sao quần chúng có thể nghe được những điều ông hứa với Chúa ? Những đầu óc hẹp hòi và tầm thường làm sao thấy cuộc biến đổi sâu xa trong cuộc đời ông mà cảm tạ Thiên Chúa? Có chăng chỉ còn những ghen tương và oán hận. Tâm hồn họ không thể rộng mở để đón làn gió canh tân và không hiểu nổi tình trạng tội lỗi của chính mình. Có nhìn vào chính mình, mới thấy mình cũng cần Thiên Chúa xót thương không kém. Nếu giàu có như ông, chắc họ cũng xử sự như ông mà thôi. Họ không thấy một phép lạ nào. Nhưng đối với Giakêu, còn có một cái gì giá trị và mãnh liệt hơn phép lạ, đó là tình yêu. TÌNH YÊU LÀ TẤT CẢ Ngay cả phép lạ cũng phải phát xuất từ tình yêu và được nhận ra trong tình yêu. Không tin vào tình yêu Thiên Chúa, dù có chứng kiến cả ngàn phép lạ, con người cũng không nhìn thấy gì. Tình yêu là tất cả. Khi gặp Giakêu, Chúa Giêsu đã chứng tỏ cho mọi người thấy “tình yêu bao hàm và vượt trên công lý. Công lý được hoàn bị trong tình yêu.” (1) Chúng ta có thể thấy rõ điều đó nơi hình ảnh Chúa đang vượt đám đông để đến với Giakêu và gọi đích danh ông. Ðó là tiếng gọi tình yêu, khác hẳn với tiếng quần chúng gào thét đòi hỏi công lý. Càng thét gào đòi hỏi công lý, quần chúng càng làm Giakêu xa rời Thiên Chúa, cộng đoàn và bản thân. Thực vậy, “tình yêu và chỉ tình yêu (gồm cả lòng thương xót) mới có khả năng làm cho con người trở về với chính mình. (2) Quần chúng quá tin vào một thứ công lý nghiêm khắc. Bởi thế, họ mới có lý mà xầm xì với nhau khi Chúa xin trọ tại nhà một người tội lỗi (x. Lc 19:7) Họ không biết rằng “tương quan nhân loại không thể chỉ bị tiêu chuẩn công lý chi phối. Có thể nói, trong mọi lãnh vực tương quan liên vị, công lý phải được tình yêu ‘điều chỉnh’ tới một mức độ đáng kể. Như thánh Phaolô nói, tình yêu đầy ‘kiên nhẫn và khoan dung,' hay nói khác, những đặc tính của lòng thương xót là yếu tính của Tin Mừng và Kitô giáo.” (3) Với những đặc tính đó, Chúa đã kéo ông Giakêu từ tình trạng tội lỗi vì bất công sang tình trạng đầy ân sủng và biết chia sẻ với những nạn nhân. Nói khác, lòng thương xót đã giúp ông sửa lại những lỗi lầm quá khứ. Ðó là kết quả rất tốt đẹp do công cuộc hòa giải với Thiên Chúa và tha nhân khi Chúa đến thăm viếng. Hơn nữa, ông còn đươc giải thoát khỏi vòng nô lệ ma lực thần tài để bay bổng trong bầu trời tư do và hưởng ơn cứu độ. Ông tìm lại được sự bình an đã mất từ lâu do những tham vọng ngông cuồng về quyền lực và của cải, vì ông đã gặp gỡ tình yêu Thiên Chúa ngay trong tâm hồn và gia đình mình. Ông đã bước vào cảnh “trời mới đất mới.” (Kh 21:1) Không gì đứng ngoài hồng ân cứu độ này. Ðó là dấu chứng tỏ Chúa đã hoàn thành sứ mạng cách vẻ vang, vì Chúa đã hòa giải con người và thế giơi với Thiên Chúa. (4) Dưới ánh sáng chân lý là chính Ðức Kitô, ông đã tự tạo được một phán đoán, làm chủ các hành vi với một ý thức trách nhiệm và cố gắng đạt tới chân lý và công lý khi tình nguyện hợp tác với mọi người. Ông đã tự nguyện đền bù cho các nạn nhân và quảng đại hứa giúp đỡ người nghèo. Có đi sâu vào lòng người bằng chính tình yêu Thiên Chúa, Ðức Giêsu mới có thể vượt trên mọi người và đưa con người Giakêu về nẻo chính đường ngay. Trái lại, nếu nhất quyết đòi công lý cách quyết liệt, quần chúng sẽ mất luôn Giakêu. Trước mắt là không có những món tiền và của cải lớn lao ông Giakêu tình nguyện cúng cho người nghèo. Nhất là, Nước Thiên Chúa sẽ mất đi một người “con tổ phụ Abraham” (Lc 19:9)!
(1) Gioan Phaolô II, Sứ Ðiệp Ngày Hòa Bình Thế Giới, 10:AAS, 96 (2004), 120, trích từ Toát Yếu Giáo Lý Công Giáo về Xã hội, 206. (2) Gioan Phaolô II, Tông Thư “Thiên Chúa Giàu Lòng Thương Xót,” 14, AAS 72 (1980), 1223. trích từ Toát Yếu Giáo Lý Công Giáo về Xã hội, 206. (3) ibid. 1224, trích từ Toát Yếu Giáo Lý Công Giáo về Xã hội, 206. (4) x. ibid, 455.
Đức Giêsu Luôn Thấy Kẻ Tìm Kiếm Người, Điều gì đã khiến chúng ta khựng lại ? Gần đây ở Raleigh, nơi tôi sống, một đại lý xe hơi bắt đầu bán loại xe Maserati. Giá khởi điểm cho mỗi xe là 100.000 Mỹ kim – hoặc hơn nếu như quý vị muốn thêm những phụ kiện. Tờ báo địa phương có đăng tải bức ảnh của một trong những chiếc xe hơi đắt tiền, bóng bảy màu đỏ này. Giả như một chiếc Maserati chạy xuống đường phố của quý vị, liệu hình ảnh đó có khiến cho những khách bộ hành khựng lại dòng suy nghĩ của mình hay không. Có phải nó bắt mắt không? Gần đây, tôi đi cùng với chị tôi ngang qua một cửa hàng. Tôi thấy một cậu bé hai tuổi đang bám lấy áo khoác của mẹ. Thấy thế, chị tôi dừng lại, reo lên “Ôi, dễ thương quá đi thôi!”Rồi chị khen bà mẹ đó. Ngay cả lúc chúng ta đang vội vã thì một vài thứ cũng tóm lấy chúng ta và khiến chúng ta khựng lại. Bài Tin mừng hôm nay nói với chúng ta rằng đức Giêsu “cố ý” đi ngang qua Giêricô. Nhưng Ngài dừng lại. Không phải vì một cỗ sa mã nhanh nhất và hiện đại nhất chạy ngang qua. Cũng chẳng phải vì một cậu bé hai tuổi cực kỳ dễ thương đã gọi Ngài – dù có Ngài dừng lại vì điều đó. Nhưng là một vị trí ngớ ngẩn của một người trưởng thành, một người lớn giàu có, đang ở trên một cây sung – tất cả chỉ có thế! Những người khác cũng bận tâm đến hình ảnh của Giakêu ở trên cây. Có lẽ họ đã nhìn lên ông đầy khinh bỉ. Dân chúng trong vùng chắc là chẳng ưa gì ông – ông “đứng đầu những người thu thuế”. Những người thu thuế là người Dothái nhưng lại đi thu thuế cho người Rôma. Họ biết rõ hoàn cảnh địa phương nên biết cánh đồng nào thu hoạch được nhiều, và dân chúng có bao nhiêu chiên, dê. Họ biết làm thế nào để tận thu từng đồng Seken (tiền của người Dothái) - tất cả để phục vụ cho quân đội, cho sự đàn áp của Rôma và để tiế tục đô hộ những người láng giềng Dothái của họ. Thế nên, người dân trong vùng đã chẳng thích Giakêu một tí nào, và người ta có thể không ngần ngại chỉ vào Giakêu ở Hội đường và nói toặc ra với nhau rằng “Hãy nhìn tên thu thuế này, và tất cả tiền bạc của hắn ta, và hắn đang hành xử như một tên ngốc”. Nhưng khi đức Giêsu nhìn thấy Giakêu, Ngài đã dừng lại. Ngài có lẽ đã nhìn thấy người đàn ông giàu có ăn mặc đẹp. Ngài có thể nhìn thấy một kẻ phản bội dân tộc của Ngài. Dĩ nhiên, Ngài nhìn thấy những gì láng giềng của ông ta nhìn thấy – người đàn ông đó đang cử xử như một tên ngốc. Tại sao Giakêu lại làm hành vi ngờ nghệch như vậy nơi công cộng? Kinh thánh nói ông đang: “tìm cách để xem Đức Giêsu là ai.” Đó là điều khiến Đức Giêsu dừng lại. Giakêu là một người tìm kiếm; ông bước ra ngoài để tìm gặp Đức Giêsu. Có lẽ Giakêu muốn thấy liệu Đức Giêsu có thứ mà ông đang tìm kiếm hay không. Đó có thể là gì? Có phải ông đã chán ngấy lối sống của ông? Có phải ông chán dù có nhiều tiền của và tất cả mọi thứ đều được cung cấp nhưng vì khi ông có mọi thứ ông muốn thì ông lại không thể có thứ ông cần – một cuộc sống chân thật. Ông cũng không được bà con láng giềng tôn trọng. Phải chăng gia đình ông cũng bị tẩy chay? - “Có vợ và các con của người thu thuế không tốt đó.” Ông ta biết mình làm giàu trên công sức của những người láng giềng. Ông ta cũng biết mình đã quay lưng lại với Đức Chúa, vì ông đã giúp đỡ ủng hộ người ngoại bang. Ông “đứng đầu những người thu thuế” như thánh Luca cho chúng ta biết. Ông có rất nhiều vàng bạc trong túi nhưng lại chẳng có một tẹo Thánh Thần. Vì thế, chúng ta thấy ông chạy ra ngoài để cố gắng gặp đức Giêsu. Ý định của Giakêu có thể không hoàn hảo. Chúng ta cũng không nhất định phải hoàn hảo để được Thiên Chúa chú ý hay quan tâm. Có phải chính cuộc sống bất tiện của ông đã đưa ông ra bên ngoài ngày hôm ấy? Có lẽ đức Giêsu đã thấy sự bất mãn hay khốn khổ trên gương mặt Giakêu. Có phải có cả sự tò mò trong đó nữa? Và Đức Giêsu có lẽ cũng thấy sự căm thù và khinh bỉ trên nét mặt của những người hàng xóm của Giakêu. Trong khi ông ta không phải là mẫu người cần được tha thứ (vì Ngài chẳng gọi ông ta ra để nhận sự tha thứ), tuy nhiên Đức Giêsu đã dừng lại và tác động đến ông ta, Ngài tự mình vào nhà kẻ tội lỗi. Điều gì khiến cho dân chúng thấy buồn vì Đức Giêsu vào trong nhà của Giakêu? Bởi vì trong thế giới Trung Đông của Đức Giêsu, bước vào nhà một người, “bẻ bánh” cùng với họ, là bước vào một không gian linh thánh và riêng tư. Ngay cả nhà của một kẻ nghèo cũng là nơi thánh. Kẻ thù không được phép vào. Bước vào trong nhà, như Đức Giêsu làm, là trở nên thành viên của gia đình đó. Nếu kẻ thù được mời vào trong nhà để bẻ bánh, dùng bữa, thì đó được xem như hành động hòa giải. Nghĩa là, quá khứ được bỏ qua, và tương quan mới được dựng nên. Thánh Thể đến từ truyền thống Trung Đông, nơi đó khi kẻ thù ăn uống cùng nhau thì được hòa giải. Đó là điều mà chúng ta cần nghĩ đến trong mỗi thánh lễ chúng ta tham dự. Ai là người chia sẻ cùng một bữa tiệc với chúng ta? Nhìn xung quanh, đón nhận, và hành động trong sự hòa giải với những gì đang xảy ra. Đức Giêsu nhìn thấy kẻ tìm kiếm và đã đi bước trước. Ngài chẳng quan tâm xem Giakêu đã tự chuẩn bị nhiều như thế nào. Ngài cũng chẳng cần ông phải công khai bày tỏ đức tin, hay “ăn năn cách trọn”. Đức Giêsu lấp đầy chỗ trống và chỗ thiếu và bước vào nhà ông Giakêu cũng như chính cuộc đời của ông. Đức Giêsu bảo Giakêu: “hôm nay ơn cứu độ đã đến nhà này”. Tất cả mọi người trong gia đình đều được hưởng ơn phúc khi mà chỉ mình người này mời Đức Giêsu vào cuộc đời ông. Chúng ta biết đến kinh nghiệm như thế khi mà một người có đức tin trong gia đình có ảnh hưởng đến tất cả những người khác xung quanh họ…khi mà một người tin thì phúc lành đổ xuống cho tất cả mọi người sống dưới cùng một mái nhà đó. Giakêu không hoàn hảo, ông ta cũng bất tất, linh tinh và chưa đâu vào đâu. Thế mà Thần Khí của Đức Chúa đã đánh động ông để hôm ấy ông rời nhà mình và trở thành kẻ tìm kiếm. Ông ta nghĩ mình sẽ nhìn Đức Giêsu bằng cặp mắt thể lý của mình. Nhưng việc xảy ra cho ông còn nhiều hơn thế: khi Đức Giêsu nhìn thấy Giakêu, Ngài khựng lại và đón nhận ông như chính ông, rồi bước vào cuộc đời của ông và cuộc sống của gia đình ông. Giống như Giakêu, tất cả chúng ta cũng được Thánh Thần thúc đẩy. Thực ra, sự thúc đẩy này bắt đầu ngay từ khi chúng ta được rửa tội, khi chúng ta được thanh tẩy để bước vào cuộc sống thần linh. Và chúng ta được tác động luôn mãi. Được tác động khi chúng ta gặp một người cần chúng ta giúp, hay cần chúng ta chia sẻ, lắng nghe. Được thúc đầy khi chúng ta thức dậy vào buổi sáng mùa đông và vẫn cố gắng đến nhà thờ. Được thúc đẩy khi chúng ta đứng lên bảo vệ cho những người áp bức hay bị bỏ rơi. Được Thánh Thần thúc đẩy khi chúng ta tình nguyện đến nhà thờ để “giúp một chút xíu” và điều đó biến thành rất nhiều – và chúng ta thích làm thế! Được thúc đẩy khi chúng ta cần sức mạnh để vượt qua những thử thách và đau khổ. Được thúc đẩy để phá vỡ những thói quen mà dường như chúng ta cảm thấy không thể thay đổi, và chúng ta đã làm được. Còn những cách khác mà chúng ta kinh nghiệm được sự thúc đẩy của Thánh Thần. Chúng ta nhận ra rằng tinh thần của chúng ta đang đói và chúng ta bắt đầu tìm kiếm thức ăn. Có lẽ chúng ta tham dự tĩnh tâm cuối tuần; đọc sách thiêng liêng do một người bạn đề nghị; nói đến linh hướng, đặt mua báo về đời sống thiêng liêng; tìm kiếm trên Internet những chủ đề về cầu nguyện, … Khi chúng ta đáp lại những thúc đẩy như thế, chúng ta giống như Giakêu, người đã trèo lên trên cây. Chúng ta trở thành kẻ tìm kiếm và nóng lòng muốn lấp đầy cơn đói khát bên trong chúng ta. Chúng ta nhận ra mình đang ở khúc ngoặt của cuộc đời mình và muốn nhìn thấy Đức Giêsu. Nhưng lại giống như Giakêu, khi chúng ta còn đang tìm kiếm Đức Giêsu thì Ngài đã dừng lại vì chúng ta rồi. Ngài luôn nhìn thấy chúng ta, dù chúng ta còn lâu mới hoàn hảo và còn bất toàn, linh tinh, điên cuồng hay tội lỗi. Ngài biết chúng ta đang tìm kiếm và Ngài đáp lại chúng ta, với chính con người của chúng ta. Ngài muốn vào nhà chúng ta, như vào nhà ông Giakêu, theo cách đầy ngạc nhiên và mới mẻ. Và chúng ta cũng muốn những gì xảy ra cho Giakêu thì cũng xảy đến cho chúng ta: là cả gia đình chúng ta đều được chúc phúc: bỏ qua một bên quá khứ đau buồn, mọi thành viên trong nhà được hòa giải và trái tim bao dung hơn với nhau. Có một khoảnh khắc trong câu chuyện của Giakêu khi quý vị chứng kiến việc trao đổi ánh mắt giữa ông Giakêu với Đức Giêsu. Cái nhìn trao đổi đó cũng xảy mỗi khoảnh khắc trong mọi ngày của chúng ta. Chúng ta sẽ làm gì khi cảm nghiệm ánh mắt của Ngài nhìn chúng ta. Chúng ta có đang tìm kiếm Ngài không ? Tại sao chúng ta lại không nói với Đức Giêsu như cách chúng ta mời khách vào nhà chúng ta… “Xin mời vào. Hãy cứ tự nhiên như ở nhà. Rất vui được gặp anh / chị”. Lm. Jude Siciliano, O.P. (Anh em HV Đaminh chuyển ngữ)
BẠN CÓ KHAO KHÁT GẶP CHÚA KHÔNG? Kn 11,22-12,2; 2Tx 1,11-2,2; Lc 19,1-10 Kính thưa quý vị, Bài đọc I trích sách Khôn ngoan thật cảm động và thú vị làm say đắm lòng người. Ai lại không cảm thấy an toàn và vinh dự trước một Thiên Chúa như được mô tả trong đoạn văn này? Có lẽ đây là một trong những cơ hội thuận tiện cho người giảng thuyết làm nổi bật bản văn Kinh Thánh Hípri. Đây cũng là cơ hội để hạ bệ những mẫu người nổi tiếng hà khắc, mà lại sở hữu Đấng được gọi là “Thiên Chúa Cựu Ước.” Nếu phải liệt kê danh sách những thụ vật mà tôi nghĩ Thiên Chúa không nên tạo ra, thì tôi sẽ kể đến những loài sau đây: ruồi, muỗi, rắn độc (tôi không thích bất cứ loại rắn nào!), chuột, đĩa và cỏ dại. Những thứ này chẳng mang lại cho tôi một ý nghĩa gì; Thế còn Thiên Chúa nghĩ gì về chúng? Nhưng không giống như tôi, bài đọc trích sách Khôn ngoan hôm nay nói rằng, Thiên Chúa yêu thương mọi loài và “không ghê tởi loài nào”, ngay cả con muỗi cũng không ghét bỏ. Giả như Thiên Chúa không yêu một loài nào đó, thì Người đã chẳng dựng nên. Nhưng đây, Người bảo vệ mọi loài. Chẳng lẽ chúng ta chỉ bàn về mấy con muỗi thôi sao, phải không? Thiên Chúa yêu thương từng người, thậm chí yêu cả những kẻ sát nhân, dù cho chúng ta mang thân phận phải chết. Thiên Chúa yêu thương các băng nhóm sa đọa ở Mêxicô, và kẻ buôn bán ma túy trên các đường phố hay những khu vực gần trường học. Những điều không mang lại ý nghĩa thì chính chúng ta cũng như giới trẻ chẳng phải ra sức bảo vệ làm gì. Nếu là tác giả sách Khôn ngoan, liệu chúng ta có làm được gì khác trong hệ thống công bằng về tội phạm và các chương trình cải tạo cách nghiêm túc không? Người dân có bị giam cầm trong những nhà tù đông đúc với các chương trình cải tạo sơ sài hay không? Các chương trình chăm sóc sức khỏe về mặt tinh thần có bị rút ruột hay không? Trong khi quân đội vẫn được rót ngân sách, thì chương trình trợ cấp thực phẩm có bị cắt giảm hay không? Nếu thực sự tin vào những gì sách Khôn ngoan nói cho chúng ta biết về Thiên Chúa, thì liệu chương trình chính phủ giám sát môi trường ở Bắc Cực (Arctic) có ngưng hoạt động, trong khi dự thảo ngân sách này đang còn tranh luận hay không? “Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm loài nào Chúa đã làm ra.” Trước Thiên Chúa toàn năng và vô biên, chúng ta cũng như toàn thể vũ trụ ví tựa “giọt sương mai rơi trên mặt đất.” Dù chẳng được kể là gì trước mắt Chúa, nhưng chúng ta vẫn được Thiên Chúa yêu thương. Qua lăng kính tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta, nếu ngày nay tôi nhìn vào mỗi người và mỗi sự vật, thì điều gì sẽ tạo ra sự khác biệt? Chúng ta có thể biết được lý do tại sao Giáo Hội chọn bài đọc trích sách Khôn ngoan để ăn khớp với bài Tin Mừng hôm nay. Ông thu thuế sẽ bị mọi người khinh miệt và xa lánh. Ông ta là người Dothái đã thu thuế anh chị em đồng bào Dothái của mình cho quân Rôma. Thánh Luca nói cách xác tính với chúng ta rằng, ông thu thuế này là một người giàu có, lại thêm nhiều lý do hơn nữa để khinh miệt ông. Sự giàu sang của ông có được là dựa trên lao nhọc của người nghèo. Những người thu thuế được quân Rôma chia cho phần huê lợi. Họ có thể giữ lại bất cứ phần phụ trội nào mà họ thu được. Nếu ông Dakêu giàu có, thì ông cũng đã thu nhiều phần phụ trội. Để tìm cách biết Đức Giêsu là ai, ông Dakêu phải rèo lên cây. Ngày đó nhiều người có mặt ở Giêrikhô để xem Đức Giêsu. Ắt hẳn trong số những người yêu mến và đồng bàn với Đức Giêsu ở nhà, có nhiều tâm hồn đạo đức và tốt lành. Sau những công việc phục vụ ở nhà thờ, các cha xứ thường được các ông trùm nhiệt thành mời về nhà dùng bữa. Cũng như vậy, Đức Giêsu đã cân nhắc chọn dùng bữa ở nhà ông Dakêu. Những thực khách khác đồng bàn với Đức Giêsu không phải là người thân thuộc trong các chỗ ngồi hàng danh dự ở Hội đường, mà là những người bạn của ông Dakêu. Nếu Đức Giêsu cứ hành xử như thế này trên đường đến Giêrusalem, Người sẽ gây tai tiếng cho những bạn đồng hành không mấy hài lòng. Điều này Người thực sự đã gây tai tiếng rồi (Lc 15,1: “Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng”). Tại các giáo xứ đến giảng tĩnh tâm, tôi đã gặp những người giống như ông Dakêu, họ ra ngoài tìm kiếm điều gì đó để xem thấy Đức Giêsu tốt hơn. Giống như chúng ta, họ không phải là những người xấu, nhưng cuộc sống của họ có những điều muốn được Đức Giêsu quan tâm. Hoặc một số người có tì vết nào đó cần sự tha thứ và được chữa lành. Một số người khác nữa có thể muốn “xem Đức Giêsu”, đơn thuần nhìn thấy Người hiện diện giữa những giằng co của họ, hoặc muốn thấu hiểu sâu hơn nữa Đức Giêsu là ai, và Người đã làm nên điều gì khác biệt trong cuộc đời của họ. Có thể họ nhận ra ông Dakêu có “vóc dáng khiêm tốn”. Có một điều nhỏ nhoi nào đó trong tâm hồn mà họ muốn Đức Giêsu chạm đến và mở ra một đời sống mới. Những người ra ngoài để tỉnh tâm là đã chọn phương thế đó như một “thân cây”, từ thân cây họ phải trèo lên để xem thấy Đức Kitô rõ hơn. Nhưng cũng còn những phương thế khác nữa để xem thấy Đức Giêsu. Mỗi ngày chúng ta phải biết gác lại mọi sự qua một bên, để dành thời gian cho cầu nguyện; tập thói quen nghiên cứu nghiêm túc về Kinh Thánh (“Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” Tv 119,105); nói chuyện thân tình với một người bạn tinh thần về những thụ tạo của Thiên Chúa, v.v… Câu chuyện về ông Dakêu đã cho biết rằng, những gì chúng ta chọn để thực hiện sẽ đòi hỏi nhiều nỗ lực hơn, tựa như hành động trèo lên cây. Thậm chí nỗ lực này gây ra ít nhiều hoang hoang mang cho người bạn chúng ta, những người nghĩ rằng họ biết rõ chúng ta, nhưng thực ra chẳng hiểu gì về sự thăng trầm trong những đặc quyền đặc lợi của ta. Sự kiện mà đám đông phàn nàn về việc Đức Giêsu tự gợi ý dùng bữa với ông Dakêu không ngăn cản Người tiếp tục hành xử như vậy, hoặc ông Dakêu nhận lời mời qua việc thay đổi đời sống của mình. Ngày nay liệu chúng ta có thực hiện một “việc Dakêu” bằng cách rời gia đình để đến nhà thờ hay không? Chúng ta có cùng nhau tụ họp để xem thấy Đức Giêsu rõ hơn chăng? Ai biết được điều này? Người chỉ dừng lại ở chỗ chúng ta ngay bây giờ, đồng thời, giữa những khó khăn và giằng co làm chúng ta khó xử, thì Người hiện diện để thấu hiểu chúng ta rõ hơn nữa. Hôm nay chúng ta sẽ ở lại “cây” đã chọn, nhưng chỉ một lúc thôi. Sau đó chúng ta sẽ leo xuống để trở về với cuộc sống thường ngày. Đối với những nơi, như gia đình, công sở, trường học, khu giải trí, chúng ta sẽ mang đến một tầm nhìn rõ ràng hơn mà chúng ta đã nhận được nơi Đức Giêsu trong Bữa Tiệc Thánh Thể này. Chúng ta đã xem thấy Đức Giêsu qua Lời Người, qua việc rước Mình và Máu Người, và qua thái độ cùng với những người tìm kiếm khác ra đi để xem thấy Chúa. Ông Dakêu không gặp gỡ Đức Giêsu nơi điện thờ trên đỉnh núi, cũng không rảo bước cùng Người dưới những cây tuyết tùng. Chắc chắn rằng, đó là những nơi mà các cuộc gặp gỡ với Đấng Thánh đã xảy ra. Nhưng ngày hôm nay không phải như thế, ông Dakêu đã gặp Đức Giêsu trong thế giới hàng ngày của mình. Khía cạnh quan trọng của sự kiện là ông Dakêu muốn nhìn xem Đức Giêsu, và niềm khao khát đó đã thôi thúc ông có được buổi gặp gỡ này.
|