|
Chúa Nhật Phục
Sinh 03 - Năm C
Cv 5,27b-32.40b-41 / Kh 5,11-14 /
Ga 21,1-19
Lm An Phong : Khiêm tốn là điều kiện
để trở thành người môn đệ
Lm Như Hạ op : Tình Yêu Và Quyền Bính
Fr.Jude Siciliano,op. : Neo chặt vào hy vọng “trời
mới đất mới”
Fr.Jude Siciliano, op. : Vị Thủ Lãnh “Nhát Gan”
G.
Đặng Chí San
op : Một chút cho đời vui !
Giacôbê Phạm Văn Phượng op : Sứ mạng các tông đồ
Đỗ Lực op : Phá Tung Khỏang Cách
Aug. Trần Thế Hoàng op : Khám Phá Ra Chúa Trong
Môi Trường Đang Sống
Fr. Jude Siciliano, op : Can đảm đáp trả lời mời
gọi của Đức Giêsu
Fr. Jude Siciniano
op:
Hãy chăm sóc chiên của Thầy
Lm An Phong
Khiêm
Tốn
Là Điều Kiện Đầu Tiên Để Trở Thành Người Môn Đệ
Ga 21,1-19
Tin mừng hôm nay là trình thuật Đức Giêsu
hiện ra với các môn đệ trên bờ biển Tibêria. Các môn đệ đã được một mẻ
cá đầy – điều các ông không hề nghĩ tưởng đến, vì các ông đã nhọc công
suốt đêm mà chẳng bắt được con cá nào. Một mẻ cá được 153 con, toàn cá
lớn. Theo khoa sinh vật học thời bấy giờ, chỉ có 153 loài cá. Mẻ cá đầy
này là biểu trưng cho "tất cả, toàn thể". Mỗi con cá là biểu trưng cho
một dân tộc. Toàn thể nhân loại gồm 153 dân tộc. Tất cả đều đã "chui vào
lưới" của Phêrô. Nhờ vâng phục Đức Giêsu, các môn đệ đã lưới "được tất
cả, được toàn thể". Sau này, các môn đệ sẽ là những người đi lưới "người"
– toàn thể người – cho Thiên Chúa. Đây là lần hiện ra thứ ba của Đức
Giêsu sau khi Người từ cõi chết sống lại.
Tin mừng Chúa nhật 3 Phục sinh cho thấy
hai khuôn mặt nổi bật : của Phêrô, vị Tông đồ trưởng và của Gioan, người
được Đức Giêsu yêu mến nhất.
* Trước đó mấy tuần, Đức Giêsu đã nói với
các môn đệ : "Đêm nay tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy". Và Phêrô đã
phản kháng : "Dù tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa, thì con đây cũng
chẳng bao giờ vấp ngã" (Mt 26,31-33). Nhưng ít giờ sau, Phêrô đã chối
Đức Giêsu 3 lần, vì sợ hãi. Trong cuộc hội ngộ trên bờ biển hôm nay,
phản ứng của Phêrô "khoác áo vào... nhảy xuống biển" đã ngầm bộc lộ sự
dằn vặt, mặc cảm vì quá khứ. Nếu đọc tiếp đoạn Tin mừng này thêm 4 câu
nữa, chúng ta sẽ thấy Đức Giêsu 3 lần hỏi Phêrô : "Này anh Simon, con
ông Gioan, anh có yêu mến Thầy hơn các anh em này không?" và Phêrô đã
khiếm tốn đáp lại 3 lần : "Thưa Thầy, có, Thầy biết con yêu mến Thầy".
Và Đức Giêsu đã trao nhiệm vụ chăn dắt đoàn chiên cho Phêrô. Phêrô là
hình ảnh của một người nhận ra chính mình là bất xứng, "là mình trần ",
thế nên ông đã đón nhận được Đức Giêsu và đã được giao trách nhiệm làm
thủ lãnh Giáo hội. Bất cứ ai muốn đón nhận Đức Giêsu vào cuộc đời mình
cũng phải khiêm tốn nhận mình là bất xứng, là thiếu sót để Thiên Chúa
lấp đầy cho.
* Gioan, người môn đệ Chúa yêu đã nhận ra
Thầy mình trước tiên, bởi vì quá khứ đau thương của cuộc khổ nạn đã
không làm ông tuyệt vọng. Sự vắng mặt của Đức Giêsu không làm tan biến
tình yêu vốn đã sâu sắc của Gioan với Thầy mình trước kia. Trong khi
những người khác chưa nhận ra, Gioan đã nhận ra rồi "Ông thấy và Ông
tin" (Ga 20,8). Ngược lại với Tôma, người muốn được nhìn thấy, muốn được
sờ tận tay mới tin được, thì Gioan không cần những chứng cớ hiển nhiên
đó. Đức tin và tình yêu đã làm cho Gioan nhận ra Đức Giêsu. Gioan là
hình ảnh những người có tình yêu sâu sắc. Họ dễ dàng nhận ra Đức Giêsu
hiện diện trong cuộc đời, dù trải qua nhiều đau khổ. Bất cứ ai muốn nhận
ra Đức Giêsu – Thiên Chúa tình yêu – thì cũng phải "mến Chúa, yêu người".
Phải chăng chúng ta nhận ra mình như
Phêrô
và yêu mến Thiên Chúa như Gioan ?
Lạy Thiên Chúa, Chúa chúng con
Xin cho chúng con phát hiện Chúa trong
thế giới,
nhận thấy Chúa qua mọi biến cố trong lịch sử chúng con.
Xin mở rộng tinh thần chúng con tìm kiếm Tình yêu Chúa.
Xin uốn nắn lưỡi chúng con xưng tụng Thánh Danh Chúa.
Xin hướng dẫn tay chúng con xây dựng vương quốc Chúa.
Vì Chúa ở trong nỗ lực chúng con đi tìm.
Chính Chúa làm sinh động cuộc tìm kiếm.
Chúa ngự trong cuộc sống chúng con.
Chính Chúa ban cho cuộc sống
ý nghĩa đích thực - Lẽ sống duy nhất.
Vì Chúa là mục tiêu duy nhất.
Yêu mến Chúa thêm một chút,
để tiến dâng Chúa lời chúc tụng vẻ vang nhất.
Hân hoan thêm một chút,
để đem đến cho muôn loài khuôn mặt thật
là Tôn Nhan Chúa.
Lm Như Hạ OP
Tình Yêu Và Quyền Bính
Ga 21,1-19
Tình yêu và quyền bính có mâu thuẫn không
? Quyền bính đòi chiếm hữu và kiểm soát. Trái lại, tình yêu không bao
giờ chấp nhận chiếm hữu và kiểm soát. Bởi thế, tình yêu và quyền bính
hình như không đội trời chung. Có thể tìm thấy sự mâu thuẫn này khi nghe
các nhà chú giải Tin lành giải thích về quyền bính Phêrô.
ĐI GIĂNG CÂU.
Tất cả sáu ngư phủ chuyên nghiệp cùng ông
Simôn Phêrô vất vả suốt đêm, nhưng “đêm ấy họ không bắt được gì cả.”
(Ga 21:3) Mặc dù đầy đủ phương tiện và khả năng chuyên môn, các ông
cũng phải đầu hàng sau một đêm vật lộn với bóng đêm. Thuyền nhiều, lưới
tốt (Ga 21:11) và khả năng tiên đoán thời tiết chuyên nghiệp cũng không
giúp các ông lướt thắng nghịch cảnh. Hôm trước các ông đã hứa với vợ con
sẽ đem về mẻ cá lớn sau chuyến giăng câu đêm qua. Nhưng đêm đen chỉ đem
đến thất vọng và thất vọng. Không biết sẽ trả lời cho vợ con làm sao đây
? !
May thay, “khi trời đã sáng, Đức Giêsu
đứng trên bãi biển” (Ga 21:4) đem niềm hi vọng lớn lao cho các ông :
“Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá.” (Ga
21:6) Tại sao Chúa không đòi các ông chèo ra chỗ nước sâu hay ra khơi ?
Chúa có phải là một tay chuyên nghiệp đâu?! Các ông có thể nghi ngờ lắm
chứ. Con mắt Chúa đã thấy rất rõ bầy cá đang lúc nhúc, đùa quẫy ngay bên
phải mạn thuyền! Thật là ngược đời ! Cái nhìn của Đức Giêsu không căn cứ
vào chuyên môn. Vậy mà các ông cũng nghe. “Các ông thả lưới xuống,
nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá, đếm được một trăm năm
mươi ba con.” (Ga 21:7,11) Kết quả thật trái ngược! Nhưng đó lại là
một dấu chỉ để “người môn đệ được Đức Giêsu thương mến nói với ông Phêrô
: ‘Chúa đó !’” (Ga 21:7)
Chính nhờ người môn đệ đó quả quyết, “ông
Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển.” (Ga 21:7)
Lúc đó người ướt sũng, ông bơi vào bờ để đón tiếp Chúa. Thầy trò được
bữa lớn. Đám tiệc ngay ngoài bãi biển. Nhưng không phải là những con cá
hay bánh đã nằm sẵn trên than hồng (Ga 21:9). Chúa Giêsu không muốn ăn
những thứ cá đã có sẵn trên bờ. Người đúng là một tay sành điệu khi nói
với các môn đệ : “Đem ít cá mới bắt được tới đây !” (Ga 21:10) Những con
cá lớn còn tươi rói. Đức Giêsu trổ tài nấu ăn. Khi đã nấu xong, Người
mời gọi các môn đệ : “Anh em đến mà ăn !” (Ga 21: 12) Người tôi tớ Thiên
Chúa không bao giờ quên vai trò của mình, dù ngay khi ở giữa các môn đệ.
“Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ.” (Lc 22:27)
“Đó là lần thứ ba Đức Giêsu tỏ mình ra
cho các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ cõi chết,” (Ga 21:14) “ở Biển Hồ
Tibêria,”(Ga 21:1) thuộc miền Galilêa. Các tông đồ đã vất vả suốt đêm
nhưng vẫn vô hiệu. “Khi trời đã sáng” (Ga 21:4), Đức Giêsu xuất hiện.
Tình hình hoàn toàn biến đổi. “Đặt cảnh chài cá thất bại ban đêm (c.3)
sát cảnh Chúa xuất hiện ban sáng, (c.4) có lẽ thánh Gioan có ý gợi lên
biểu tượng thần học tương phản giữa ngày và đêm, ánh sáng và bóng tối
(1:5; 9:4; 11:9-10; 12:35-36; 13:30)” (NIB:1995:857, vol.IX). Nỗ lực con
người chỉ là hư không, nếu không có Chúa đến can thiệp kịp thời. Đúng
như lời Chúa nói : “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.” (Ga 15:5)
Trái lại, “từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết
ơn này đến ơn khác.” (Ga 1:16) Bằng chứng, “cảnh thân mật trong tương
quan giữa Chúa Phục sinh và các môn đệ làm cho mọi người nhớ đến hành
động Chúa Giêsu nuôi sống năm ngàn người (6:11). Các tín hữu đầu tiên đã
thấy được biểu tượng Thánh Thể trong các bữa ăn này. Vì trong Tin Mừng
Gioan, Thánh thể vẫn được hiểu là hồng ân Chúa Giêsu ban cho tín hữu và
một cách diễn tả tương quan của họ với Chúa Giêsu.” (NIB 1995:858,
vol.9) Nhưng còn hơn một biểu tượng, Thánh thể chính là của ăn nuôi sống
tín hữu trên hành trình về nhà Cha. Trong Thánh Thể, họ tìm được tất cả
nguồn an ủi và sức mạnh để sống bình an với Thiên Chúa, anh em và với
chính mình. Không một hành động nào tuyệt vời bằng việc Đức Giêsu lập
Phép Thánh thể, vì ở đây tín hữu sẽ cảm nghiệm tất cả tình yêu có sức
cứu độ muôn dân.
Để cứu độ muôn dân, Đức Giêsu còn quan
tâm đến việc chăn dắt đoàn chiên của Người. Việc chăn dắt đoàn chiên
không thể thuần túy dựa trên tình yêu. Nói khác cần phải đi vào thực tế.
Đức Giêsu muốn thiết lập Phêrô làm người “nuôi sống” và “chăn
dắt” đoàn chiên Người. Thật vậy, ngay trong đêm bị nộp, sau khi tiên
báo về việc ông Phêrô chối Chúa ba lần, Đức Giêsu đã hứa hẹn : “Một khi
đã trở lại, hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh.” (Lc 22:32)
Hơn nữa “truyền thống cộng đồng Phêrô liên hệ còn lưu trữ trong Mt
16:18-19 cũng nói về việc Chúa đặt ông Phêrô làm ‘tảng đá’” (The New
Jerome Biblical Commentary 1990:985) Rõ ràng như thế, nhưng vẫn có người
nghĩ rằng “Đức Giêsu không chỉ định ông Phêrô làm người kế vị đặc biệt
của Chúa, nhưng như một hiện thực những gì Chúa nói về tất cả các tông
đồ. Phêrô chỉ là một mẫu mực sống tình yêu Đức Giêsu. Chúa Giêsu không
trao đoàn chiên cho một mình ông Phêrô, trái lại Người nhắc ông nhớ tới
ý nghĩa của tình yêu Chúa Giêsu là gì.” (NIB 1995:861)
Nếu chỉ nêu lên một biểu tượng tình yêu,
tại sao Chúa không chọn “người môn đệ được Chúa Giêsu yêu dấu” ? Ong
Gioan xứng đáng làm mẫu mực tình yêu hơn Phêrô nhiều, vì ông đã trung
thành với Chúa cho tới chân cây thập giá. Trong bất cứ cộng đoàn nào,
cũng phải có người đứng đầu, huống chi Giáo hội, làm sao không có người
lãnh đạo toàn diện ? Trong các câu Ga 21:15-17, Đức Giêsu đã ba lần ủy
thác cho Phêrô quyền “chăn dắt chiên của Thầy.” Ông đã được Chúa đặt làm
nền tảng Giáo hội (Mt 16:16-19)
CON ĐƯỜNG HIỆP NHẤT.
Dĩ nhiên quyền bính trong Giáo hội không
thể tách lìa tình yêu Chúa. Trái lại quyền bính ấy phải xây trên nền
tảng tình yêu Chúa. Chính vì thế, Chúa Giêsu mới cần ông Phêrô xác quyết
tới ba lần : “Thầy biết con yêu mến Thầy.” (Ga 21:15, 16, 17) Quyền bính
xây dựng trên một tình yêu chỉ biết phục vụ cho đến chết. “Vì Con Người
đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến
dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (Mc 10:45; Mt 20:28) Giáo hội
phải bước theo Thầy chí thánh trên đường phục vụ nhân loại. Nhưng nếu
không có tổ chức, chắc chắn không thể nào thực hiện được sứ mệnh đó.
Giữa bao nhiêu tăm tối trần gian, nếu không có người lãnh đạo, làm sao
biết lối đi về nhà Cha ? Ai cũng có thể nói nhân danh Chúa, làm sao phân
biệt đâu là thần khí của Chúa ? Thư Gioan căn dặn : “Anh em đừng cứ
thần khí nào cũng tin. Nhưng hãy cân nhắc các thần khí xem có phải bởi
Thiên Chúa hay không.” (1 Ga 4:1)
Không có quyền bính, làm sao phân biệt
giữa những mâu thuẫn trong việc giải thích Kinh thánh và đường lối mục
vụ ? Chúa Giêsu rất thực tế khi đòi hỏi Giáo hội phải có người lãnh đạo
để hướng dẫn muôn dân trong Thần Khí. Chắc chắn Thần khí sẽ nói qua Giáo
hội, chứ không thể làm việc bừa bãi theo hứng khởi hay đam mê cá nhân.
Hơn nữa, ngay cả khi chủ trương Thần khí làm việc theo hướng cá nhân,
thực ra cũng là do truyền thống giáo phái hướng dẫn.
Tuy thế, ngày nay ngôi vị Giáo Hoàng vẫn
là một cản trở lớn trên đường hiệp nhất. Chính ĐHY Lehmann đã nói
“quyền Giáo Hoàng là ‘cản trở chính cho tiến hành đại kết..’” (CWNews
23/4/2001) ĐHY kêu gọi họp một công đồng mới để đưa ra một nền tảng cho
‘cộng đồng tính lớn hơn’ giữa các giám mục trên thế giới.” (CWNews
23/4/2001) “Nhưng Người không có ý đặt vấn đề về vai trò ĐGH, Giáo Triều,
hay các thượng hội đồng giám mục. Người nói rằng ‘đã đến lúc suy nghĩ về
cách thức Giáo hội nên quyết định về tương lai những vấn đề mục vụ căn
bản.’ Người cũng cho biết ĐGH Gioan Phaolô II khuyến khích bàn luận xem
làm sao có thể thay đổi quyền bính Giáo hoàng để thích ứng với nhu cầu
tân thiên niên kỷ.” (CWNews 23/4/2001) Quả thực, Giáo hội đã bị ảnh
hưởng nặng nề nếp sống quân chủ, trong khi thể chế nhân loại hướng mạnh
về dân chủ. Thực tế, làm sao hài hòa được mọi ý kiến mà vẫn hiệp nhất
được Giáo hội ?
Bởi thế, ĐHY đề nghị “suy nghĩ về toàn
thể những liên hệ giữa các thượng hội đồng Giám mục, Giáo triều Roma,
các nghị hội giám mục và Viện Hồng y, và định nghĩa những bổn phận
chuyên biệt của mỗi bộ phận đó.” (CWNews 23/4/2001) Thực ra, “tháng 10
năm 1999, ĐHY Carlo Maria Martini địa phận Milan, đã lưu ý Thượng hội
đồng Giám mục Au châu về một công đồng như thế có thể cung cấp “những
kinh nghiệm mới và mở rộng về cộng đồng tính” cho các giám mục trên thế
giới.” (CWNews 23/4/2001) Bao giờ đường lối dân chủ mở ra trong Giáo hội,
may ra mới thấy con đường đại kết giữa những anh em cùng chung một niềm
tin nơi Đức Kitô Giêsu.
Fr.Jude Siciliano,OP.
Neo chặt vào hy vọng “trời mới đất
mới”
Ga 21,1-19
Thưa qúi vị, Chúa nhật vừa qua, bài đọc 2
khởi sự một loạt các bài đọc trích từ sách Khải Huyền. Việc này còn tiếp
tục cho đến lễ Hiện Xuống. Như vậy, mỗi tuần các cộng đoàn tín hữu trong
toàn thể Hội Thánh được nghe những ngôn từ lạ tai và khó hiểu. Khó hiểu
ngay cả đối với các nhà giảng thuyết. Tôi dám qủa quyết như vậy. Vì ít
khi chúng ta dám khai thác sách Khải Huyền, kể cả trong mùa Phục sinh
này. Vậy thì hôm nay chúng ta mạo hiểm suy tư về sách này. Nó giúp chúng
ta thay đổi thói quen thường xuyên là đi thẳng vào bài đọc tin mừng, có
lẽ nó còn là công việc gây phấn khởi và thích thú, cho chúng ta và cho
cả cộng đoàn.
Tôi tình cờ khám phá ra rằng ở nhà tù San
Quentin, người ta ưa thích đọc sách Khải Huyền, nhưng trong một lăng
kính khác, lăng kính hiện thực. Khải huyền đối với họ là một lời tiên
báo gần về sự kết thúc và phá hủy của thế giới hiện tại, của xã hội
đương thời. Các tử tù thường gọi nhau là “đạo quân hằng sống”
đồng thanh nhất trí mong cho thế giới này kết thúc càng sớm càng tốt, để
trừng phạt xã hội mà họ đang sống. Sách Khải Huyền xem ra ủng hộ ước
muốn đó. Nhưng có phải chủ đích của sách này là như thế không ? Sách
chứa đựng đầy dẫy những ẩn dụ và biểu tượng báo trước sự kết thúc của
thế giới và sự cứu thoát của một số linh hồn. Thoạt nhìn đúng là như vậy.
Nhưng khi cố gắng giải thích sách Khải
Huyền cho thính giả ngày nay chúng ta phải vận dụng đến kiến thức các
loại văn chương. Sách Khải Huyền dùng một loại văn thể mà người ta gọi
là mặc khải, nó rất thịnh hành ở thế kỷ thứ nhất, dưới triều đại hoàng
đế La mã, Domitiano. Ong này là con người độc ác, cấm đạo ngặt nghèo.
Ông đã ra tay giết hại nhiều tín hữu, triệt hạ nhiều nơi thờ tự của
người theo đạo Kitô. Các tù nhân ở San Quentin đọc được một tín hiệu
quan trọng từ sách Khải Huyền, bởi vì sách đã được viết ra cho các tín
hữu đúng vào thời kỳ khó khăn nhất trong lịch sử. Sách không phải để
cung cấp kiến thức, mà là để an ủi, khích lệ độc gỉa, nói thẳng vào cảm
xúc và trái tim người đọc, vì vậy sách dùng toàn biến cố, biểu tượng và
hình ảnh của một thế giới kỳ ảo.
Người đọc cần tìm ra chìa khóa để mở
những ý nghỉa của các biểu tượng và xác định ngày tháng các biến cố. Như
vậy, bí mật của sách Khải huyền trở nên rõ ràng. Ngôn ngữ bóng gió của
sách không phải để khóa kín trí khôn người đọc, trái lại, những đọc gỉa
tiên khởi rất dễ dàng nhận ra ý nghĩa của các ẩn dụ, bởi vì chúng là
những sinh hoạt hằng ngày của thế giới lúc ấy. Tác gỉa Gioan (chưa
xác định được căn cước của ông) không có ý định bắt bí các độc gỉa,
ông đã cố gắng viết cho thật rõ ràng và độc gỉa chẳng thấy khó khăn gì
khám phá ra tư tưởng của ông.
Bởi vì chúng là những hoàn cảnh rất cụ
thể của thế giới lúc bấy giờ. Khó khăn là khó khăn cho chúng ta, sống xa
những biến cố đó đã từ 2000 năm ! Thế giới mà các tín hữu tiên khởi sống
không phải là thế giới có đạo như chúng ta ngày nay, trái lại, là thế
giới rất thù nghịch với đức tin công giáo.Thành phố Roma lúc ấy chống
lại lòng tin vào Chúa Giêsu của các tín hữu một cách thật dã man, mọi rợ.
Bởi vì nó chỉ tôn kính một mình hoàng đế thượng vị là chúa tể; ngoài ra
không có chúa nào khác… Roma là nữ thần của toàn đế quốc, chung quanh
hoàng đế toàn là những lễ nghi thờ kính. Không tham dự vào vào những lễ
nghi ấy đều là phản bội, tội đáng chết.
Vậy thì các người Kitô hữu phải quyết
định ai là Chúa mình, vua thượng vị hay Con Chiên đã bị sát tế ? Không
tôn thờ hoàng đế Roma có nghỉa là chuốc lấy cái chết đau đớn, vì thế
sách Khải Huyền đầy dẫy những ám chỉ về các cuộc bách hại. Sách không
cho phép có thái độ thứ ba, hoặc là vua thượng vị hoặc là Con Chiên, thế
thôi. Cho nên các độc gỉa tân thời, nên suy nghĩ lại hàng ngày chúng ta
đến thờ lạy tại bàn thờ nào ? Những cử chỉ dâng hương, cúng tế, bái lạy
mà chúng ta dùng trong phụng vụ ngày nay cũng chính là những cử chỉ dân
ngoại ngày xưa dùng để tỏ lòng trung thành, liên minh với các vua thượng
vị La mã.
Bài đọc hôm nay khuyến khích độc giả kiên
trì chống lại những cám dỗ, và bách hại tiến hành bởi các thù địch của
Con Chiên. Tuần trước mở màn thị kiến sai ông Gioan công bố sứ điệp của
mình. Chương 5 hôm nay kêu mời chúng ta thờ phượng Quyền uy tối thượng
của Thiên Chúa mà các thiên thần và trưởng lão đồng thanh tung hô :
“Xứng đáng thay Con Chiên đã bị giết”. Sách Khải Huyền ban tặng hy
vọng cho tất cả những ai đang đau khổ, đang bị gian nan bao vây tứ phía,
nhất là cho các tín hữu đang phải chống chọi với quyền lực ngoại giáo.
Nhửng ai từ chối qùy gối trước bàn thờ hoàng đế kim tiền, sắc dục, kiêu
căng, thủ đoạn… sách Khải Huyền cho họ biết lịch sử nhân loại nằm trong
tay Thượng đế. Tác gỉa dùng thánh thi, ca vịnh khải hoàn khích lệ chúng
ta trung thành với Chiên Con hiến tế.
Rồi ngày nào đó tất cả sẽ được chia sẻ
vinh quang mà Thiên Chúa đã dọn sẵn cho chúng ta. Nhưng cho đến lúc đó,
bây giờ mặc dù còn phải chịu đau khổ và sợ hãi vì đức tin, chúng ta vẫn
có Chúa làm chủ vũ trụ và cuộc đời chúng ta, số phận chúng ta không phải
là không có bảo đảm. Chúng ta không nên quan tâm đến các khó khăn hiện
tại, mà chỉ nên tin tưởng vào chiến thắng cuối cùng của Chúa Kitô. Ngược
với những gì đang xảy ra trên thế giới, hoàng đế La mã không thể chiến
thắng. Chúa Kitô sẽ chiến thắng vẻ vang. Sách Khải Huyền đã tuyên bố rõ
ràng Thiên Chúa và Chiên Con có quyền năng tuyệt đối trên sự dữ và thần
chết. Đừng vì vẻ bên ngoài mà khiếp sợ, nhưng hãy bền tâm trung tín với
“đấng ngự trên ngai và Chiên Con”. Hãy trung thành bằng
những công việc thường nhật, to lẫn nhỏ. Sách Khải Huyền , cuốn sách
cuối cùng của Tân ước, neo chặt lòng các tín hữu vào hy vọng “trời
mới đất mới” giữa những gian truân thử thách của thế gian này.
Khi công trình tạo dựng trời mới đất mới xảy ra, các tín hữu sẽ nhận
thấy tên mình đã được ghi rõ ràng trong cuốn “sách hằng sống”.
Bước sang việc suy niệm tin mừng hôm nay, tôi xin chia sẻ
vài tư tưởng của chị Janet Boeth Jones, một độc gỉa thư điện tử của tôi.
Chị viết : “Con nhìn vào bài học tin mừng hôm nay, và vào lời chúa Giêsu
nói với Phêrô: “Hãy chăn dắt đàn chiên ta”, con lại nhớ đến câu nói của
ông Federich Buechner trong cuốn Wishful Thinking:
“Cái địa chỉ
Chúa gởi đến qúi vị là chính nơi mà sự mừng rỡ sâu đậm nhất của qúi vị
gặp được sự đói khát cùng cực của thế gian”.
Định nghĩa này đã cứu con khỏi sự cay đắng và tử đạo mà
con đã phải chịu đựng bấy lâu nay. Con đã kết hôn với một tay nghiện
rượu 20 năm và kinh nghiệm đầu tiên mà con biết được là khía cạnh hủy
hoại của hy sinh nhân danh tình yêu. Điều này chẳng nuôi được đàn chiên
hay Chúa chiên. Như vậy, qúi vị phải rất ý tứ khi kêu gọi hy sinh,nhất
là đối với các thính gỉa nữ giới ngoài 60 tuổi. Phu nữ lớn tuổi thường
thắm đẫm sứ điệp hy sinh vì bổn phận, hy sinh đến độ không còn là mình
nữa mà là sống đại diện qua chồng con và các bậc bề trên. Cuối cùng là
tai hại cho tất cả mọi người, tai hại nhân danh tình yêu và bổn phận đàn
bà. Trong khi chồng con họ, anh em được khuyến khích vươn tới những
thành đạt cá nhân, những đỉnh cao danh vọng. Ngược lại, nhiều người
trong cộng đồng cần được nhắc nhớ hy sinh cái tôi thật chứ không phải
cái tôi giả.
Tóm lại,
chúng ta cần thành thật yêu lấy chính mình, chăm sóc chính mình, từ đó
chúng ta mới có thể yêu người khác, hy sinh cho người khác một cách vô
vị lợi và bảo toàn danh dự của chúng ta. Lúc ấy chúng ta được nuôi dưỡng
và nuôi dưỡng đàn chiên Chúa Giêsu. Bằng không chúng ta sẽ bị thua thiệt
thiêu cháy tiêu tan, trở nên dễ nóng giận và cay đắng, tự hủy mình hoàn
toàn và lạnh cứng, chẳng cảm thấy niềm vui hoặc đau khổ, có chăng chỉ là
gượng gạo, hời hợt bề ngoài. Điều mà tôi thấy được trong bài tin mừng
hôm nay là nỗi vui mừng sâu đậm của Phêrô nơi Chúa Giêsu và sứ điệp của
Ngài đã được tưới gội bằng đau khổ, bối rối và mất mát, ý nghĩa nào đó
của phản bội và bỏ rơi. Nhiều người cũng có những cảm nghiệm tương tự và
họ đã trở lại công việc thường ngày để tự cứu vớt mình. Nhưng những lần
hiện ra của Chúa Giêsu đã thực sự làm cho họ được vui mừng, và muốn bung
ra, đi rao giảng lòng Chúa yêu thương và tha thứ. Vì thế bữa ăn đơn sơ
trên bãi biển Galilê buổi sáng hôm ấy thật là đáng yêu, đáng nhớ . Amen.
Fr.Jude Siciliano,OP.
Vị Thủ Lãnh “Nhát Gan”
Ga 21,1-19
Thưa quý vị, Theo các nhà chú giải Kinh
Thánh, bài đọc III chúa nhật hôm nay thuộc chương 21 Phúc Âm thánh Gioan
là một chương độc lập. Chính thức Phúc Âm kết thúc ở chương 20 : “Đức
Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ, nhưng những dấu
lạ đó không được ghi chép trong sách này…”. Như vậy chương 21 được
môn đồ nào đó của thánh sử Gioan thêm vào; có lẽ nó là một cổ bản rời,
độc lập được ghép vào cuốn sách. Tuy nhiên nó vẫn được linh hứng vì có
mặt như một phụ trương của Tin Mừng thứ tư ngay từ thuở ban đầu, để
quyết định vấn đề quyền “trưởng nhóm” của tông đồ Phêrô.
Cứ
như câu chuyện thì ông Phêrô quả là cứng cổ. Ông chối Chúa ba lần và hôm
nay thản nhiên rủ các bạn chài đi đánh cá, tưởng chừng như ông đã quên
hết chuyện cũ và trở lại nghề nghiệp xưa. Chúa đã tỏ mình ra cho các ông
sau mẻ lưới lạ lùng. Thánh Gioan kêu mời chúng ta liên kết câu chuyện
hôm nay với cái đêm định mệnh “Phêrô chối Chúa. Cả hai chuyện, Phêrô đều
đứng bên đống lửa. Lửa trong đêm Chúa Giêsu bị tra hỏi và lửa bên bờ hồ
Tibêria. Ba lần phản bội và cũng ba lần tuyên xưng đức tin. Hôm nay
ngoài đống lửa còn có bánh và cá gợi lên hình ảnh bữa tiệc ly. Chúa hỏi
Phêrô : “Simon, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy hơn các người này
không ?” Ông đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết
con yêu mến Thầy.”
Trong đêm Chúa Giêsu bị bắt, người ta
ngạc nhiên khi Phêrô thẳng thừng chối cãi không biết Thầy mình là ai. Và
để cho lời chối nặng ký hơn, ông còn thề độc (Mt 26, 14). Đây là bài học
lớn cho các tín hữu. Chúng ta đừng vội vàng trách cứ Phêrô. Ông là một
trong những tông đồ được Chúa Giêsu gọi đầu tiên và là một con người rất
hăng say, trung thành với Thầy mình. Ở bữa tiệc cuối cùng, ông vỗ ngực
tuyên bố mình sẽ theo Thầy cho đến cùng dầu cho có phải mất mạng. Một
lời thề hứa trang trọng và đanh thép. Nhưng chẳng bao lâu sau ông vấp
ngã. Không ai dám chối cãi lời nói của ông thành thật, thoát ra từ tâm
tính của một con người bộc trực. Ông thực sự yêu mến Chúa Giêsu và muốn
suốt đời phục vụ Ngài dù có phải chết. Nhưng điều sai lầm là ông quá tự
tin, cậy vào sức riêng, chứ không phải từ ơn trên. Đơn giản chỉ có thế.
Nhưng trong đời sống thiêng liêng thì là một điều rất nguy hiểm. Chúng
ta cần Thần Khí Chúa thúc đẩy, soi sáng để thực hiện những việc lành.
Nói cách khác, cần cầu nguyện và suy niệm, chẳng thể đơn thuần là nhiệt
huyết suông. Biết bao lần chúng ta có thái độ tương tự như ông Phêrô,
hăng hái thề hứa ăn ngay ở lành, làm việc cho sáng danh Chúa nhưng thực
tế thì ngược lại, phản bội Ngài như cơm bữa, thu quén tiền tài danh vọng
cho mình, thậm chí còn chối bỏ đức tin một cách công khai khi quyền lợi,
mạng sống bị đe doạ. Chúng ta hèn nhát hơn ông Phêrô rất nhiều.
Viết đến đây, tôi nhớ ra một câu chuyện
bông đùa. Người ta kể rằng vào mùa Phục Sinh ở xứ đạo nọ, giáo dân
thường kể cho nhau nghe “tin lành, tin dữ” về Chúa Giêsu. Tin
lành nói rằng Chúa đã sống lại và hiện ra với các tông đồ. Còn tin dữ kể:
Ngài nổi giận như chiếc hoả lò. Ấy là tưởng tượng theo thói thường thế
gian. Ngài tức giận khi trông thấy các tông đồ sợ hãi và âu lo: “Ta
đã bảo mà, Ta sẽ sống lại vào ngày thứ ba, đúng không ?” Rồi Ngài
quay sang Phêrô: “Tưởng anh là viên đá, chẳng hoá ra nhát như thỏ đế
!”. Câu chuyện áp dụng vào mỗi tín hữu thì thật đúng từng chữ.
Để làm cho trọn lời phản bội, Phêrô trong
bài Tin Mừng hôm nay nói: “Tôi đi đánh cá đây”. Liệu ông hoàn toàn quay
mặt khỏi Chúa Giêsu? Liệu ông đã từ bỏ ơn kêu gọi và trở về nếp sống cũ?
Hay ông lãnh đạo theo ý nghĩa khác, ý nghĩa trần tục như quá khứ, trước
khi gặp và theo Chúa? Lời ông nói: “Tôi đi đánh cá đây” chứng tỏ các
tông đồ đã hết tin vào sự kiện Chúa đã sống lại. Họ chỉ tin bao lâu Chúa
hiện diện giữa họ hoặc lòng tin kính của họ chưa thể chuyển sang hành
động để thực hiện sứ vụ.
Nói cách khác, họ đã quên bặt, coi như
không có lệnh Chúa truyền đi “chinh phục” người ta cho Nước Trời. Chỉ
khi lãnh nhận đầy đủ ơn Chúa Thánh Thần trong ngày lễ Ngũ Tuần, lệnh
truyền này mới được thực hiện và thực hiện cho tới cùng. Còn như hiện
thời, sau ba năm sống với Chúa Giêsu, chứng kiến Ngài chịu khổ hình,
chịu chết và sống lại, họ lui về Galilêa, sống đời bình thường như chẳng
có chuyện gì xảy ra. Mới hay lòng dạ người đời chóng quên! Đúng như câu
ngạn ngữ “Xa mặt cách lòng”. Như vậy vai trò của Chúa Thánh Thần thật
quan trọng trong đời sống Giáo Hội. Chưa có Thánh Thần thì đời sống các
tông đồ chưa hề thay đổi. Giọng điệu “Tôi đi đánh cá đây” của ông Phêrô
chứa đầy an phận, tương tự như ông muốn nói “còn chi nữa đâu mà hy
vọng”. Mọi sự đã tan rã. Lời Chúa kêu gọi không còn hiệu lực và bị triệt
tiêu với cái chết của Thầy!
Đó là tâm trạng của các tông đồ bên bờ hồ
Tibêria vào buổi sáng hôm đó, Chúa Giêsu hiện ra với các ông đúng lúc,
nhắc lại cho họ mọi sự. Ngài không lìa bỏ, nhưng vẫn giữ vai trò chủ
động trong việc thi hành sứ vụ của Đức Chúa Cha. Giống như lúc khởi đầu
Phúc Âm, Ngài tìm kiếm họ, vượt qua cửa đóng và khoá chặt để khích lệ họ
bung ra mà đi rao giảng Nước Trời. Điều này thật cốt yếu cho toàn thể
nhân loại, và Ngài lại thấy họ giữa công việc hàng ngày. Cũng vậy thôi,
Chúa Giêsu muốn chúng ta tiếp tay với Ngài giữa nghề nghiệp đời thường;
liệu chúng ta có đồng ý đi theo Ngài, làm công việc mà mọi người đều
biết rất hệ trọng?
Điểm đáng lưu ý là giữa những thất bại,
cay đắng, mơ hồ thì Chúa Giêsu đã trở lại gặp các tông đồ và đối diện
với họ. Nhưng lạ lùng thay, Ngài không tức giận vì họ đã bỏ trốn để mặc
một mình Ngài trong cuộc khổ nạn. Ngài hoàn toàn thông cảm và tha thứ,
bất chấp những yếu đuối và sa ngã. Cho nên ngày nay chúng ta có bài học
để đời: Chúng ta sẽ được Ngài luôn tha thứ lỗi lầm và trở lại làm môn đệ
Ngài, miễn là chúng ta thành tâm quyết chí. Bài học thứ hai là Ngài sai
chúng ta đi khắp bốn phương thiên hạ rao giảng tình thương của Thiên
Chúa, sẵn sàng tha thứ cho những ai xúc phạm đến chúng ta, noi gương
Thầy chí thánh.
Những sa ngã và phản bội của chúng ta
ngày nay dù nặng nề gấp bội nhưng không nhiều kịch tính như ông Phêrô.
Ít nhất chúng ta đã không dám công khai chối Chúa ba lần. Nhưng chúng ta
thường để bổn phận trượt khỏi tầm tay, không nghiệm chỉnh thi hành, tệ
hơn nữa không coi lời Ngài như Chân Lý Cứu Độ. Giả hình giả tảng là
người theo Chúa mà thực chất vẫn còn nhiều ích kỷ, hại nhân. Kẻ xấu
miệng hay gọi chúng ta là nhân chứng dỏm của Chúa sống lại. Có lẽ phần
nào đúng, bởi lẽ trong những ngày non trẻ, chúng ta đầy nhiệt huyết và
sức sống đức tin, nhưng khi trưởng thành thì trở nên nguội lạnh, thúc
giục người khác đạo đức còn mình thì ươn lười. Đến đây tôi lại nghĩ đến
thái độ của mấy người công giáo tiên khởi trên đất Mỹ: “Nếu có đạo là
một tội ác, họ lấy bằng chứng nào để buộc tội chúng ta?” Đúng vậy, chẳng
thể buộc tội, nhưng nếp sống lập dị thì rành rành ra đó. Áp dụng vào
thái độ lạnh nhạt, chúng ta không bị kết án, nhưng gương mù gương xấu
cho những người xung quanh thì tầy trời, hoặc câu nói vô trách nhiệm
khác: “Ai có linh hồn người nấy giữ”. Họ quên nguyên tắc liên đới:
“Không ai lên thiên đàng một mình” hay như linh mục Thomas Merton:
“Không ai là một hòn đảo” (no man is an island).
Cho nên hôm nay chúng ta mang những “phản bội” của mình
đến trước bàn thờ Thánh Thể. Và lại một lần nữa Chúa Giêsu đảm nhận vai
trò tiên phong, kêu gọi chúng ta bước theo Ngài, bỏ qua những yếu đuối,
thất bại trong cuộc sống hàng ngày. Đúng như Ngài đã tha thứ cho ông
Phêrô và các tông đồ. Nếu Ngài muốn trả thù thì đối tượng đầu tiên phải
là Caipha, Anna, Philatô, nghĩa là các thế lực đền thờ. Nhưng trên thánh
giá chính Ngài là trạng sư, kêu xin Đức Chúa Cha tha tội cho họ, hôm nay
Ngài lại chẳng tha thứ cho chúng ta sao
?
Tôi hết lòng khâm phục các cộng đoàn tiên
khởi khi họ giữ lại chuyện ông Phêrô và các tông đồ cho thế hệ mai sau.
Họ không ém nhẹm những yếu đuối loài người của các vị. Vào trường hợp
chúng ta, vì sĩ diện, chúng ta chẳng đủ can đảm tiết lộ những chuyện này.
Nhưng thật là may mắn, các người tín hữu đầu tiên đã không làm như thế,
đây là tấm gương để chúng ta noi theo. Chuyện có thể làm Phêrô xấu hổ,
nhưng chúng ta lại được thêm kiên cường trong lòng tin.
Bất chấp những yếu đuối và sa ngã, ông
vẫn được Chúa tha thứ, yêu thương. Giống như các tông đồ, giáo dân ngày
nay vẫn được Chúa thương xót thứ tha. Tuy nhiên, không nên dựa vào điều
này mà ăn ở bừa bãi. Chúng ta nỗ lực sống ngay lành là vì đã được Chúa
cứu chuộc, là để đền đáp ơn Ngài, chứ không phải vì công lênh. Nước
thiên đàng Chúa Giêsu đã phục hồi cho nhân loại, chúng ta ăn ở tốt để
chiếm lấy. Chúng ta phải cộng tác với Ngài thực hiện sứ vụ Ngài trao cho
Hội Thánh: Kêu gọi toàn thể nhân loại trở về với tình thương của Đức
Chúa Cha.
Trong tất cả các lần hiện ra sau khi từ
cõi chết sống lại, Chúa Giêsu chỉ quan tâm một điều, nhắc lại lời Ngài
kêu gọi các tông đồ : “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành
lưới người như lưới cá” (Mt 4,19). Nghĩa là Ngài muốn các ông tiếp
tục sứ vụ Đức Chúa Cha đã trao phó cho Ngài. Hôm nay bên bờ hồ Tibêria
cũng vậy, Ngài kêu gọi các ông hãy chăn dắt đoàn chiên của Ngài (nguyên
văn: feed my lambs). Nhưng lần này các ông còn một sứ mệnh mới: gánh lấy
số phận của Ngài : “Thật Thầy bảo cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự
mình thắt lưng lấy và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải
giang tay ra cho người ta thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn”.
Những ai muốn bắt chước Chúa Cứu Thế, nhiên hậu sẽ chết cái chết đầy
bạo lực như Ngài. Điều này thật khó cho các tín hữu! Nhưng với ơn Chúa
trợ giúp thì mọi sự sẽ được thực hiện dễ dàng. Cho nên ơn sống lại bao
gồm hy sinh và sự chết. Từ chối hy sinh sẽ chẳng bao giờ được trông thấy
ơn Phục Sinh. Các tông đồ trong bài đọc 1 đã kinh nghiệm như vậy: “Bấy
giờ, họ cho gọi các tông đồ lại mà đánh đòn, đoạn cấm các ông không được
nói đến Đức Giêsu, rồi thả các ông ra. Các tông đồ ra khỏi Thượng Hội
Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức
Giêsu”.
Họ cảm nghiệm sự sống lại, bởi lẽ đã được
vác lấy thập giá. Tuy nhiên, Chúa sai ông Phêrô đến “nơi ông không muốn”,
không phải do sức riêng ông, mà là do ơn trợ giúp Chúa Thánh Thần. Thế
giới công giáo đã được biết ông Phêrô chết cách nào! Vì không phải là
công dân La Mã, ông đã chịu đóng đinh ở ngọn đồi Vaticanô, Rôma. Ông
hoan hỷ chấp nhận nhưng xin đóng đinh ngược, bởi cảm thấy không xứng
đáng chết như Thầy mình ! Ngay từ hôm nay Chúa đã sửa soạn hy sinh đó
cho ông Phêrô bằng một bữa tiệc tương tự như bữa tiệc ly, tức có bánh,
cá và lửa yêu mến. Ông được nuôi dưỡng bằng của ăn thiêng liêng, để ông
có khả năng tự huỷ và nuôi dưỡng người khác.
Các tín hữu cũng vậy, họ được Chúa nuôi
dưỡng hàng ngày bằng bí tích Thánh Thể. Cho nên chúng ta cũng phải tự
huỷ để nuôi dưỡng thế giới. Nuôi dưỡng bằng đấu tranh cho hoà bình,
chống chiến tranh, áp bức và bất công. Nuôi dưỡng bằng chăm lo cho những
người nghèo khổ, cô nhi và quả phụ; an ủi, giúp đỡ, khích lệ, hướng dẫn,
bảo vệ, bênh vực, nghĩa là mọi hình thức yêu thương bác ái, biểu lộ ơn
sống lại cho một thế giới đang nhuốm màu tang tóc. Ở đây chúng ta thấy
chứng cớ rõ ràng của tội “mang danh Đức Kitô”. Nếu “có đạo” là một “tội”
trước mắt thế gian! Công việc nuôi dưỡng này đòi hỏi trọn đời người tín
hữu. Bởi lẽ chúng ta không phải là tín hữu bán thời gian, một tuần, một
tháng hay một năm. Ơn gọi của chúng ta suốt đời. Nhưng bánh trường sinh
Chúa Giêsu ban trong bí tích Thánh Thể thừa sức trợ giúp mọi người trong
cuộc chạy đua Marathon phục vụ và trung thành. Amen. Halleluia.
Đặng Chí San op
Một
chút cho đời vui !
Ga 21,1-19
Sống trong quần thể
xã hội, mơ ước chung của nhân loại qua mọi thời đại vẫn là làm sao để
người người cơm no áo ấm, nhà nhà được xum vầy khang ninh. Thế nhưng,
phần đông khi đã thoả nguyện được ước mơ đủ ăn mặc ấm, người ta chẳng
những sẽ nghĩ đến chuyện ăn ngon mặc đẹp, mà còn làm sao để có cái ăn,
cái để… phòng khi sa cơ lỡ thế. Âu đó cũng là những ước mơ rất chính
đáng và thường tình của mỗi người. Tuy nhiên, nếu chỉ vin vào nguyên tắc
này, chúng ta sẽ dễ ngả theo lối sống duy hiệu năng, nghĩa là chỉ
đánh giá cuộc sống bằng công trạng, thành quả, mức thu nhập ! Thực tế
cho thấy, lối sống duy hiệu năng không chỉ tác động dưới khía cạnh xã
hội, mà còn len lỏi vào trong môi trường tôn giáo và đời sống đức tin.
Kể từ sau biến cố phục sinh, đức Giêsu
hiện ra với các môn đệ dưới nhiều dáng vẻ khác nhau : khi thì dưới bóng
dáng một người làm vườn rất ý nhị (x. Ga 20,15), lúc là một lữ khách cô
thân cô thế (x. Lc 24, 13-32), khi khác lại là một tay chài lưới gạo cội
giàu kinh nghiệm (x. Ga 21,6)… Những hình ảnh này gợi lên trong tâm lòng
chúng một hình ảnh đức Giêsu tuy có vẻ xa cách nhưng thật gần gụi, xem
ra lạ lẫm nhưng lại rất thâm hiểu và dễ cảm thông, rất giàu kinh nghiệm
trận mạc đến mức có thể tự tại nhưng vẫn muốn vương lụy với những tình
cảnh bếp bênh của phận người…
Phải chăng những hình ảnh này muốn hàm
ngụ, rằng đức Giêsu phục sinh không có nghĩa là đi vào một “cõi an
nhiên tự tại khác”, nhưng là để hoà quyện, và lắng mình một cách
trọn vẹn hơn vào cuộc đời chóng vánh này, rằng đức Giêsu phục sinh là để
kề vai sát cánh với phận người, nhất là với những anh chị em ngày ngày
lam lũ vật lộn với miếng cơm manh áo, rằng từ đây Người không còn xuất
hiện dưới dáng vẻ của một đạo sĩ hay một thầy dạy nữa, nhưng là một con
người thực thụ, muốn thông chia, đồng lao cộng khổ và nói lời an hòa
nồng thắm với mọi người. Nhờ vậy, tất cả những ai thấy đời mình gần như
ngã quỵ, sụp đổ, gào thét và giãy giụa, đều có cơ may gặp thấy thấp
thoáng bóng hình của một lữ khách tên là Giêsu Kitô lúc nào cũng muốn
được hệ lụy và đồng phận với mọi người.
Hình ảnh đức Giêsu xuất hiện trong bài
Tin mừng hôm nay sao có vẻ thật xa cách. Một đàng các môn đệ đang vất vả
bì bõm suốt đêm kéo lưới mà không được một mẩu cá nào, đàng khác, bác
Giêsu lại có vẻ lững thững tản bộ trên bờ biển một cách thong dong và tự
tại : một tình cảnh quá ư là tương phản đến mức phũ phàng. Ấy vậy, khi
nghe được câu mào đầu của đức Giêsu, thính giả hẳn sẽ thấy lòng mình nhẹ
lâng vì những lời nói đằm thắm và hồn hậu: “Này các chú, không có gì
ăn ư ?” (Ga 21,5). Kế đến, đang khi các môn đệ nghe theo lệnh Người
mà thả lưới, thì chính Đức Giêsu đã chẳng nề chuẩn bị “dọn cỗ” để
đón mừng các ông trở về với một thành quả thật sửng sốt và ngỡ ngàng.
Người liền bảo các ông: “Đem ít các mới bắt được tới đây rồi… hãy đến
mà ăn!” (Ga 21, 9&12). Quả thật, một xác quyết rút ra từ bài Tin
mừng này là tất cả những lao đao vất vả của con người đều được Thiên
Chúa viếng thăm và chạm đến, nhờ cuộc vượt qua của đức Giêsu Kitô.
Tất cả những thành quả lao động của con
người, dù rất đáng biểu dương, khích lệ và cổ võ, nhưng vẫn chỉ là
một chút cho vui đời. Thiên Chúa vẫn hiện diện ở đó, mọi
nơi mọi lúc với mọi người, để thông chia, vương lụy và đồng phận với
những lo toan tháng ngày của phận người bấp bênh. Chính khi những bế tắc,
trăn trở và hiểm nguy ập đến, cơ may gặp gỡ đấng Phục sinh lại bừng sáng,
vực dậy và làm đổi thay tình thế một cách đầy kinh ngạc. Nguyện cho mọi
người cảm nhận được ánh sáng của đấng Phục sinh vẫn đang mạnh mẽ chiếu
toả vào mọi ngóc ngách của phận người hôm nay.
Giacôbê Phạm Văn Phượng op
Sứ mạng
các tông đồ
Ga 21,1-14
Đa số các môn đệ của Chúa Giêsu là những
ngư phủ, những người làm nghề chài lưới đánh cá ở Biển Hồ Ti-bê-ri-a. Họ
đã bỏ tất cả nghề nghiệp để đi theo Chúa, họ đã sống với Chúa và ấp ủ
một tương lai huy hoàng. Nhưng sau khi Chúa bị bắt và bị giết chết thì
mọi hy vọng của họ gần như tiêu tan. Và rồi Ngài đã sống lại, Ngài đã
hiện ra với họ, không phải một lần, nhưng tới hai lần liên tiếp : một
lần vào chính ngày phục sinh và một lần sau đó một tuần. Đó là không kể
những lần hiện ra với những người khác. Dầu vậy họ vẫn còn ngờ ngợ và
nghi ngờ. Rồi họ trở về Ga-li-lê để chờ đợi gặp Chúa như Chúa đã căn dặn.
Nhưng chờ đợi mãi mà không thấy gì, họ rủ nhau đi đánh cá. Đoàn đánh cá
hôm đó có tất cả bảy người : Phê-rô, Tô-ma, Na-tha-na-en, Gia-cô-bê, Gio-an
và hai môn đệ khác không kể rõ tên.
Nhưng ngay đêm đầu tiên ra quân này, họ
không bắt được gì. Tại sao họ là những tay đánh cá nhà nghề, là những
người chài lưới chuyên nghiệp mà chịu trắng tay như thế ? Thưa vì họ đã
đổi nghề rồi, từ đánh cá trong đại dương, họ đã đi chài lưới các linh
hồn trên đất liền. Đáng lẽ họ phải tiếp tục mãi như thế để đưa các linh
hồn về, giờ đây họ lại quyết định trở về nghề xưa, để rồi các linh hồn
cũng không được gì mà đánh cá cũng mất luôn, đi đánh cá các linh hồn mà
lại bỏ đi đánh lưới cá, nên không được gì cũng phải thôi.
Giữa lúc ấy, Chúa Giêsu hiện đến bên họ
mà họ không nhận ra, họ cũng chẳng hơn gì Ma-ri-a Mác-đa-la, cũng chẳng
hơn gì hai môn đệ về làng Em-mau, mãi sau khi Chúa cho bắt được một mẻ
cá lạ họ mới nhận ra Chúa, nhất là trong bữa ăn sáng sau đó, Chúa cầm
bánh và cá trao cho họ, cũng một cử chỉ như Chúa đã làm trong bữa tiệc
ly, lúc đó họ mới không còn nghi ngờ gì nữa : đúng rồi, chắc chắn rồi,
Thầy sống lại rồi. Như vậy, một lần nữa, niềm tin Chúa sống lại nơi các
môn đệ được củng cố thêm, và chúng ta cũng được thêm một bằng chứng nữa
về Chúa Kitô phục sinh.
Thực vậy, việc Chúa hiện ra hôm nay cũng
như các lần hiện ra khác là để thuyết phục và củng cố lòng tin của các
môn đệ, và Chúa đã thuyết phục và củng cố bằng các lời Chúa nói và việc
Chúa làm. Trước hết, Chúa đã dùng những âm thanh quen thuộc. Chúng ta
biết : âm thanh của mỗi người không giống nhau : cao độ và cường độ làm
cho tiếng người này khác tiếng người kia. Chúng ta đã quen thuộc tiếng
của ai, chúng ta không cần thấy họ, chỉ nghe tiếng họ chúng ta cũng nhận
ra họ. Chúa xuống thế nhập thể làm người, Chúa cũng có một giọng nói
riêng. Suốt ba năm trời chung sống với Thầy, các môn đệ vẫn còn nhớ rất
rõ âm thanh ấy. Bởi đó trong bất cứ lần hiện ra nào, Chúa cũng đều lên
tiếng nói. Tất cả những âm thanh ấy là những âm thanh đầy ắp tình thương
mà lúc còn sống Chúa đã nói. Cũng ở bờ biển này, một lần trước đây, Chúa
đã bảo các ông thả lưới chỗ đó, vâng lời, các ông đã bắt được một mẻ cá
quá nhiều. Bây giờ, cũng giọng nói đó, cũng chỉ bảo ấy, các ông cũng lại
bắt được nhiều cá. Như vậy, Thầy mình chứ còn ai nữa, Thầy đứng đây, vẫn
cứ giọng nói ngày xưa, Thầy sống lại thật rồi, nhất định Thầy đã sống
lại rồi.
Tiếp đến, việc Chúa thường làm khi hịên
ra, đó là làm lại những cử chỉ quen thuộc. Chúng ta biết : ma quái thì
không có thân xác, mà không có thân xác thì không có ăn uống, vì ăn uống
là hành động của thân xác. Chúng ta thấy lúc sống lại, Chúa Giêsu ăn
uống được, như vậy, chắc chắn Chúa Giêsu vẫn có thân xác. Chẳng hạn, khi
hiện ra với các môn đệ ở nhà tiệc ly, Chúa hỏi các môn đệ có gì ăn không
? Các ông dâng Ngài một miếng cá lớn và Ngài đã cầm lấy và ăn trước mặt
các ông. Rồi với hai môn đệ trong quán trọ ở làng Em-mau cũng thế, Ngài
cầm lấy bánh, chúc tụng và bẻ ra trao cho họ thì mắt họ mở ra và họ nhận
ra Ngài. Hôm nay, Chúa lại bảo các môn đệ : “Anh em đến mà ăn”, rồi Chúa
cầm lấy bánh và cá trao cho họ. Gặp lại những cử chỉ này, những cử chỉ
quen thuộc Chúa thường làm khi còn sống, các môn đệ không còn hoài nghi
gì nữa : đúng rồi, chắc chắn rồi, Thầy sống lại rồi, nhất định Thầy đã
sống lại rồi.
Chúa Kitô sống lại là một thực tại chắc
chắn, điều này các tông đồ không cần phải tin, vì đích thân các ông đã
được cảm nghiệm : thấy Chúa, nghe tiếng Chúa rõ ràng, thấy những việc
quen thuộc Chúa thường làm, đích thực một trăm phần trăm. Còn chúng ta,
chúng ta tin, vì chúng ta không thấy, dù không thấy chúng ta vẫn tin một
cách tuyệt đối, chúng ta đi đạo, theo đạo, tin đạo tức là chúng ta tin
Chúa Kitô đã phục sinh, chúng ta tin Chúa đang sống giữa chúng ta và
đang điều khiển vũ trụ này.
Chúng ta hãy cám ơn Chúa đã ban ơn đức
tin cho chúng ta, và chúng ta vẫn còn kiên trì giữ vững đức tin cũng như
tuyên xưng đức tin. Đức tin ấy Chúa ban cho chúng ta ngày chịu phép rửa
tội. Đức tin ấy như một đèn sáng hướng dẫn cuộc đời chúng ta, việc chúng
ta đến nhà thờ mỗi ngày Chúa nhật là chúng ta chứng tỏ đức tin và tuyên
xưng đức tin vào Chúa Kitô phục sinh, mỗi Chúa nhật là một lễ Phục sinh.
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nhớ rằng :
các tông đồ tin Chúa sống lại, các ông không giữ lại niềm tin đó cho
riêng mình, nhưng các ông đã ra đi rao giảng, làm chứng cho mọi người
biết Chúa đã sống lại. Trong bài Tin Mừng hôm nay, có một chi tiết nhỏ
nhưng rất hay và có ý nghĩa, đó là con số 153 con cá trong mẻ cá bắt
được. Các nhà sinh vật học thời đó đã xác định có 153 loại cá khác nhau.
Theo thánh Giê-rô-ni-mô, nếu thật như thế thì con số 153 đó bao gồm các
loại cá và là hình ảnh mọi quốc gia, mọi dân tộc thuộc mọi thời đại mà
Chúa muốn qui tụ vào trong Giáo hội.
Như thế, sứ mạng của các tông đồ không
phải chỉ giới hạn trong xứ Ga-li-lê, Giu-đê, Giê-ru-sa-lem hay nước Do
Thái mà thôi, nhưng bao gồm mọi quốc gia, mọi dân tộc, và các ngài đã
hoàn thành sứ mạng của mình, Giáo hội từ Giê-ru-sa-lem đã phát triển và
lan rộng ra mãi cho đến chúng ta ngày hôm nay. Mỗi người chúng ta đã
chịu phép rửa đều được Chúa Kitô mời gọi trở nên tông đồ của Ngài trong
môi trường sống của mình, bằng cách đem tinh thần đức tin vào trong ý
tưởng, trong lời nói, trong việc làm của mình, và đem tinh thần Tin Mừng
vào mọi dịch vụ, mọi công tác của mình. Tóm lại, đời sống của chúng ta
phải là bằng chứng diễn tả đức tin của chúng ta, chúng ta hãy cố gắng
sống thế nào để người khác nhận biết chúng ta là nguời có đức tin, là
người con cái Chúa.
Đỗ Lực op
Phá Tung Khỏang Cách
(Ga 21:1-19)
Một buổi sáng đẹp trời, giữa cảnh mây
nước trên biển hồ Tibêria, từ trên bờ, Ðức Giêsu quan sát rất kỹ các môn
đệ đang mệt mỏi chèo thuyền về phía mình. Họ vào gần đến nỗi có thể trao
đổi với Thày và nghe lệnh Thày thả lưới xuống bên phải mạn thuyền để bắt
cá. Khoảng cách càng thu ngắn, các môn đệ càng nhận rõ Thày. Tới lúc lên
bờ, khoảng cách không còn nữa. Thày trò có thể quây quần quanh bếp hồng.
Chúa thích ăn cá mới bắt và tự tay nướng cho các môn đệ. Ấm cúng và thân
mật làm sao ! Chắc chắn Chúa Giêsu và các môn đệ có thể kể hết cho nhau
niềm vui Phục Sinh. Khoảng cách càng thu ngắn, con người càng gần gũi
nhau.
Bình thường, cuộc sống cần phải có những
khoảng cách giữa người lãnh đạo và quần chúng, giữa nhà giáo dục và học
sinh, giữa cha mẹ và con cái. Khoảng cách quá xa hoặc quá gần cũng đều
gây phương hại cho công cuộc chung.
Giữa thày trò Ðức Giêsu có một khoảng
cách nào không ? Nếu có, Chúa cũng phá vỡ khoảng cách đó. Tại sao ? Liệu
Chúa có thành công khi không tôn trọng khoảng cách tự nhiên không ? Phá
vỡ khoảng cách có gây nguy hiểm cho cộng đồng không ? Nếu không còn
khoảng cách quyền bính trong cả hai lãnh vực cai trị và giáo dục, con
người có thể đạt mục đích không ?
Trong Tin Mừng hôm nay, việc phi thường
nhất không phải là mẻ cá lạ lùng, nhưng là việc Chúa phá vỡ và phối hiệp
một cách tài tình khoảng cách giữa các thực tại. Việc phá vỡ đó rất cần
thiết để Chúa trình bày một bài học rất ý nghĩa cho mọi người.
Những cảnh trái ngược đã thu ngắn hay phá
vỡ khoảng cách bình thường. Thứ nhất, theo Tin Mừng Gioan, ngay sau khi
phục sinh, Ðức Giêsu đã về trời. Vậy mà, Ðức Giêsu vẫn xuất hiện để ăn
uống với các môn đệ ở bờ hồ Tibêria. Như thế, không còn khoảng cách giữa
thiên giới và trần giới nữa. Thứ hai, ngay trong cảnh trao quyền cho ông
Phêrô, Chúa Giêsu đã kết hiệp quyền bính và tình yêu. Ðúng hơn, quyền
bính được xây dựng trên nền tảng tình yêu. Bình thường quyền bính và
tình yêu trái ngược hay xung khắc nhau, như hai lãnh vực công và tư vậy.
Thứ ba, Hội Thánh lại được đặt dưới quyền lãnh đạo của một tội nhân đã
từng phản bội Chúa. Tại sao tội nhân lại được tuyển dụng để làm một việc
thánh trong một Hội thánh như thế ?!
Dù sao, chúng ta cũng cố gắng cầu xin
Chúa soi sáng để có thể rút tỉa những điều cần thiết từ ba bài học đó.
Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu xuất hiện với các môn đệ và chia sẻ tận
tình với cuộc sống của họ. Không những Người can thiệp vào kế sinh nhai,
nhưng còn có thể chia sẻ tận tình với những hoa quả của cuộc sống với họ.
Người mạc khải cho chúng ta thấy có một sợi chỉ xuyên suốt từ cuộc sống
trần giới sang thiên giới. Tuy có khác biệt, nhưng vẫn có điểm chung,
đến nỗi Ðức Giêsu có thể ăn uống với các môn đệ. Bữa ăn thân tình giữa
thày trò đã để lại trong lòng môn đệ một niềm tin sâu xa về sự hiện diện
thân mật và cần thiết của Ðức Giêsu trong cuộc sống. Ðiểm nối giữa hai
cuộc sống thiên giới và trần giới, đó chính là Thánh Thể. Bởi đấy, kết
thúc trình thuật về mẻ cá lạ lùng là hành vi giống hệt như Chúa đã làm
trong bữa Tiệc Ly.
Bài học thứ hai rút từ việc Chúa trao
quyền cho ông Phêrô. Chưa thấy ai trước khi trao quyền cho người khác
lại đặt những câu hỏi như Chúa. Cách đặt vấn đề cho thấy tình yêu rất
quan trọng, vì là nền tảng và động lực của quyền bính. Thực vậy, quyền
bính trong Giáo hội chỉ là phương tiện để phục vụ : “Kẻ làm đầu thì phải
nên như người phục vụ.” (Lc 22:26) Hơn nữa, Chúa còn nói : “Ai phục vụ
Thày, hãy theo Thày.” (Ga 12: 26) Hơn ai hết, những người lãnh đạo trong
Giáo hội phải theo sát gót Thày Chí Thánh. Nhưng làm sao phục vụ, nếu
không khiêm tốn ? Khiêm tốn chỉ phát xuất từ tình yêu đích thực.
Bài học thứ ba mới thật đắt giá. Một
người phản bội như ông Phêrô lại được Chúa ủy thác một trọng trách quá
lớn. Ông có tài cán gì ? Ông đã chối Chúa ba lần. Một vết đen quá lớn
trong cuộc đời ! Làm sao tẩy xóa được ? Ông cũng không can đảm đến gần
cây thánh giá như ông Gioan. Phải chăng Chúa quá liều lĩnh khi chọn ông
làm giáo hoàng đầu tiên của Giáo hội ? Thực ra, trước khi trao trọng
trách cho ông, Chúa đã đặt vấn đề tình yêu với ông ba lần. Ba lần chứng
tỏ tình yêu đối với Thày bù lại ba lần chối Chúa. Ðó là một xác quyết
sau khi cân đo cẩn thận, chứ không nông nổi như trước khi Chúa chịu chết.
Còn hơn một xác quyết, tình yêu như ngọn lửa bùng lên trong đêm trường.
Phản bội tựa như rơm rác, làm sao có thể tồn tại trong ngọn lửa hồng
ngùn ngụt đó ? Theo một số nhà chú giải, thánh Gioan đã xử dụng những
ngôn từ Hy lạp khác nhau để chỉ về tình yêu (trong hai câu hỏi đầu của
Chúa, ông dùng agapan; câu hỏi cuối cùng và trong tất cả các câu
trả lời của ông Phêrô, ông dùng từ philein). Ông muốn cho thấy
một chuyển biến từ tình cảm sang tình bạn sâu đậm hơn. Việc ông dùng hai
lần trong câu hỏi và câu trả lời cuối cùng nhắc lại việc Chúa coi các
môn đệ là “bạn hữu” khi họ thi hành điều Thày truyền.
Nếu Giáo hội phát xuất và đặt nền tảng
trên tình yêu, làm sao ông Phêrô và các đấng kế vị có thể khác được ?
Tình yêu trước hết đòi phải gần gũi, lắng nghe, và quan tâm chăm sóc.
Nếu quá nhấn mạnh tới quyền lực, người ta dễ bỏ quên yếu tính của nó là
tình yêu. Quyền lực hay quyền bính dễ làm cho con người xa nhau. Trái
lại, tình yêu đưa con người lại gần. Khi đánh mất bản chất tình yêu,
quyền bính không còn khả năng phục vụ con người nữa.
Làm sao ông Phêrô có thể xác quyết về
tình yêu của ông đối với Chúa tới ba lần, nếu ông không tin vào Chúa ?
Bởi vậy lời xác quyết về tình yêu cũng là lời tuyên xưng đức tin. Chính
trong đức tin này, Thiên Chúa sẽ hành động. Như thế đủ thấy Giáo hội là
một công trình của Thiên Chúa, chứ không phải của loài người. Nếu đó là
công trình của Thiên Chúa, các môn đệ có thể nào hành động như không có
Chúa không ? Có thể nào nhát sợ trước sức mạnh bạo quyền ? Có thể nào
không nhạy cảm trước cảnh con người bị đàn áp không ?
Lạy Chúa, xin
cho chúng con biết sống khiêm tốn và can đảm ! Xin giúp chúng con biết
thâu ngắn hay phá vỡ những khoảng cách làm chúng con không thể gần nhau.
Chỉ khi nào gần nhau, chúng con mới có thể phục vụ Chúa và nhân loại một
cách hữu hiệu. Xin cho chúng con biết từ bỏ mọi sự, nhất là cái tôi hèn
nhát của chúng con mà theo Chúa. Amen.
Augustino Trần Thế Hoàng op
Khám Phá Ra
Chúa Trong Môi Trường Đang Sống
Chứng kiến
liên tiếp những sự việc xảy ra với thầy
mình ở Giêrusalem, Phêrô và các đồng bạn vẫn cảm thấy trống rỗng giữa
khung trời Giêrusalem. Bị lạc lõng không biết phải làm gì tại nơi đó,
các ông lên đường đến biển hồ để ôn lại những kỷ niệm xưa khi thầy Giêsu
còn ở với họ. Trở lại với nghề đánh cá xưa, đêm hôm ấy, nhóm các ông đã
vất vả suốt đêm mà không đánh bắt được gì. Âm thầm, lặng lẽ, các ông sớt
chia cho nhau thất bại của đêm hôm ấy. Nhưng rồi một người đứng trên bờ
bảo các ông: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền thì sẽ bắt được
cá”. Các ông làm theo và thật lạ lùng, lưới đầy những cá lớn, kéo
lên không nổi. Người môn đệ được Chúa yêu thốt lên : ”Chúa đó”.
Như tỉnh giấc mơ ông Phêrô vội khoác áo bơi vào bờ trước, sau đó các
đồng bạn của ông cũng lên theo, thấy có sẵn than hồng và cá nữa. Người
bảo các ông: ”Đem ít cá mới bắt được tới đây”; các ông làm theo
mà không dám hỏi Người là ai? Và Người lại nói với các ông:
“Anh em hãy đến mà ăn”.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể
Ngày nay chúng con phải đối diện với
những thực tại khó khăn trong cuộc sống. Người người phải sống trong
tình trạng căng thẳng vì mải lo bươn trải làm ăn, học hành. Chúng con
đang mệt mỏi và cần sự hiện diện của Chúa giúp sức, nâng đỡ tinh thần,
thêm sức khoẻ để chúng con đủ khả năng tiếp bước trong cuộc sống. Chúng
con nhận ra rằng không có Ngài chúng con không thể làm gì được. Xin cho
chúng con luôn khám phá ra sự hiện diện của Chúa trong môi trường sống
của chúng con để chúng con có thể kết hiệp với Chúa là nguồn sức sống,
nguồn an ủi trong lúc gặp khó khăn thất vọng.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể
Ngài đã hiện ra giúp các tông đồ
đang khi các ông bơ vơ, lạc lõng, thất vọng. Bằng cách này hay cách khác
xin Ngài cũng hiện diện
với những anh chị em công nhân. Những người đang
sống cảnh đời tha hương, đang ngày đêm vất vả làm việc để tìm miếng ăn,
manh áo nhằm đáp ứng nhu cầu thực tại của cuộc sống. Xin Ngài đồng hành
với những anh chị em đó, để họ được an ủi, được nâng đỡ tinh thần, và vuợt qua những thực tại khó khăn đang gặp phải. Và khi đã mệt mỏi vì
công ăn việc làm, xin giúp họ luôn biết chuẩn bị tâm hồn tìm đến với bàn
tiệc thánh là nơi Ngài dọn sẵn thức ăn nuôi sống tâm hồn họ.
Với những người già nua tuổi tác, yếu đau,
sức cùng lực kiệt; những em nhỏ bị bỏ rơi, xin Chúa ngự đến an ủi, dưỡng
nuôi, chăm sóc giữ gìn, dọn lương thực hằng ngày để họ được no lòng thỏa
dạ an vui trong cuộc sống.
Và sau hết, xin cho chúng con luôn biết
chia sẻ những nỗi vui buồn, của cải vật chất với những anh chị em nghèo
đói, tàn tật, bị bỏ rơi. Vì chúng con xác tín rằng: mỗi hành động của
chúng con làm cho anh em xung quanh là chúng con được lớn lên trong ân
tình của Chúa, là niềm vui phục sinh luôn tràn ngập trên khuôn mặt của
mỗi người chúng con. Amen.
Lm. Jude Siciliano, OP (Anh
Em HV Đaminh chuyển ngữ)
CAN ĐẢM
ĐÁP TRẢ LỜI MỜI GỌI CỦA ĐỨC GIÊSU
Ga:
21: 1-19
Trong Mùa Chay tôi đã đi
giảng tại hai giáo xứ ở New York. Dù lớp tuyết đã phủ dày đến hơn 30cm
nhưng người dân địa phương vẫn nói về mùa bóng chày sắp tới. Các người
hâm mộ Yankee khá tự mãn và tự tin về triển vọng của họ. Nhưng những
người hâm mộ của Met lại lơm lớp lo lắng vì vận hạn kéo dài của đội
tuyển họ đang ủng hộ. Tại cửa nhà thờ, một tín hữu đội nón của đội Met
đang bước ra và tôi đã hỏi anh ta rằng anh có cầu nguyện cho đội Met
trong thánh lễ vừa rồi hay không. Anh ta trả lời: “Dĩ nhiên là có chứ.
Tôi hy vọng lần này họ sẽ thi đấu tốt.”
Những người hâm mộ bóng
chày đó cũng có thể nói về các môn đệ trong Tin Mừng hôm nay. Câu chuyện
dường như được kể lại vào ngay trước lúc các môn đệ lần đầu tiên đáp lại
lời mời gọi của Đức Giêsu, “hãy theo tôi.” Vâng, họ đã theo Người, nhưng
đó không phải là “mùa” tốt nhất của họ - khởi đầu thì tốt nhưng kết thúc
tệ hại. Phêrô, nhân vật được nhắc tới trong trình thuật hôm nay, đã thất
bại khi chối Đức Giêsu ba lần (Ga 18,17; 25-27). (Hy vọng tôi không
đẩy ẩn dụ bóng chày đi quá xa!) Hãy hy vọng Phêrô và các môn đệ khác
lần này cũng sẽ có kết quả.
Trước hết, những câu
hỏi Đức Giêsu dành cho Phêrô có vẻ như hơi ích kỷ. Tại sao Đức Giêsu cần
Phêrô phải xác tín tình yêu của ông dành cho Người tới ba lần? Khi chúng
ta suy gẫm về các trình thuật Tin Mừng, đặc biệt là trình thuật Thương
khó, thì câu trả lời sẽ thật rõ ràng. Người đã từ chối Đức Giêsu ba lần
giờ đây cũng được trao ban sự hòa giải bằng ba lần khẳng định tình yêu
của mình.
Chúng ta có thể thấy mình
như những người cùng hội cùng thuyền với Phêrô. Khi chúng ta nhìn lại
quá khứ, chúng ta cũng có thể đếm một, hai hoặc ba lần chúng ta đã chối
bỏ Đức Giêsu bằng lời nói hay hành động của chúng ta. Đầu Thánh lễ,
chúng ta cũng đã nài xin lòng thương xót đến ba lần khi khẩn nguyện: “Lạy
Chúa xin thương xót chúng con, Lạy Chúa Kitô xin thương xót chúng con,
Lạy Chúa xin thương xót chúng con.” Đó cũng chính là “khoảnh khắc
Phêrô” của chúng ta, một cơ may nhắc nhớ về tình yêu của Đức Giêsu
dành cho chúng ta, ngay khi chúng ta là những tội nhân. Dù cho gần đây
chúng ta lỡ lầm thì đó vẫn là cơ hội để thưa rằng: “Lạy Chúa Người
biết mọi sự, Người biết rằng con yêu Người.”
Nhưng cuộc đối thoại
với Đức Giêsu không kết thúc với sự hoán cải của họ, và cũng chưa kết
thúc nơi chúng ta. Với Phêrô, chúng ta nghe thấy những gì tiếp sau đó.
Đức Giêsu trao cho Phêrô một kế hoạch sống sau này: Ông sẽ nuôi nấng các
chiên con của Đức Giêsu và chăm sóc chiên của Người. Phêrô sẽ làm việc
đó và, như chúng ta nghe trong bài đọc thứ nhất, Phêrô bị đưa ra trước
Thượng hội đồng để làm chứng cho danh của Đức Giêsu. Thực vậy, Phêrô đã
không phải một mình đảm nhiệm sứ vụ của Đức Giêsu. Phêrô đã có các môn
đệ khác cùng đi. Cũng như Phêrô, chúng ta có những người khác cùng làm
việc với chúng ta trong giáo xứ. Họ nêu gương cho chúng ta, khuyến khích
và hỗ trợ khi chúng ta cố gắng đáp trả sự ủy thác của Đức Giêsu: chăn
dắt và nuôi dưỡng đàn chiên của Người, bằng những cách thức riêng của
mỗi chúng ta.
Nhưng cũng hãy nhớ rằng,
Phêrô và các môn đệ khác không thành công lắm với những nỗ lực đầu tiên
theo Đức Giêsu và đường lối của Người. Chẳng lẽ họ lại “thất bại”
lần nữa sao? Nếu không dựa vào đoạn sách Công vụ tông đồ mà chúng ta mới
nghe về sự can đảm của Phêrô khi đứng trước Thượng hội đồng, thì điều gì
đã tạo ra sự khác biệt đó? Chắc chắn đó không chỉ là việc cùng làm với
những người khác. Lần này, Phêrô đã không dựa vào chính mình. Ngài nói
với Thượng hội đồng rằng: có chứng nhân khác ở với ngài – đó là Thần
Khí. Tuần trước, khi Chúa Kitô Phục Sinh xuất hiện trước các môn đệ
trong căn phòng cửa đóng kín, Người đã ban cho họ bình an và sau đó thổi
Thần Khí vào trong họ (Ga 20,19-31). Điều đó đã làm nên tất cả sự khác
biệt trong đời sống của Phêrô và các môn đệ. Như Phêrô nói với Thượng
hội đồng, có một chứng nhân khác ở với ngài, đó là Thần Khí, “Đấng
Thiên Chúa đã gửi đến cho những ai vâng phục Thiên Chúa.”
Quả là một thay đổi lớn
mà Thần Khí đã thực hiện trong cuộc đời của Phêrô. Phêrô bước từ cảm
giác tội lỗi đến sự giao hòa với Đức Kitô, và dưới tác động của Thần
Khí, giờ đây Phêrô và các môn đệ khác có thể trao ban cũng một sự tha
thứ mà họ đã lãnh nhận. Họ thực hiện cho người khác những gì mà Đức
Giêsu đã làm cho họ. Và còn hơn thế nữa! Như Đức Giêsu, họ cũng chữa
lành các bệnh tật; đến với dân ngoại; đồng bàn với những người bị xã hội
bỏ rơi và trao bình an cho cả bạn hữu và cũng như kẻ thù.
Phải chăng mẻ cá lớn
tượng trưng cho tất cả chúng ta, những người có thể bị bắt trong tấm
lưới mà ngư phủ sẽ nhặt ra nhân danh Đức Giêsu. Chúng ta nhận ra
và hiểu ý nghĩa của thức ăn mà Đức Giêsu đã dành cho các môn đệ tại biển
hồ Ti-bê-ri-a hay không? Bánh gợi nhớ thứ bánh mà Đức Giêsu đã hóa ra
nhiều trước đó trong Tin Mừng này. Đó chính là cuộc sống của Người được
trao ban để nuôi dưỡng chúng ta và lại trao ban cho chúng ta trong Thánh
lễ này là chính Mình và Máu của Người. Tất cả chúng ta được tha thứ và
nuôi dưỡng ngay lúc này và cả về sau nữa! Như các môn đệ, chúng ta sẽ
nhận được Thần Khí sự sống và sự đổi mới một khi vị chủ tế đặt tay trên
chúng ta và những lễ vật mà cầu nguyện, “Lạy Chúa xin ban Thánh Thần
xuống thánh hóa lễ vật này, để trở nên Mình và Máu Chúa Giêsu Kitô, Chúa
chúng con.”
Nếu hôm nay chúng ta gặp
Chúa Phục sinh, như các môn đệ đã gặp Chúa ở ven hồ, tôi thắc mắc không
biết Người sẽ hỏi gì về giáo xứ chúng ta trước tiên? “Có bao nhiêu người
đã ghi danh ở giáo xứ này?” “Làm thế nào để canh tân hội trường nhà
thờ?” “Làm thế nào để thi hành những nguyên tắc mới
?”... Những câu hỏi đó không phải
là mối bận tâm chính, tôi nghĩ trước tiên Người sẽ hỏi ba lần, “Con có
yêu mến Thầy không ?” Trong Thánh lễ này chúng ta
cũng trả lời như Phêrô, hết sức có thể, “Thầy biết mọi sự. Thầy biết
rằng con yêu mến Thầy.” Dựa vào Tin Mừng hôm nay tôi cho rằng mình biết
Đức Giêsu có thể làm những gì tiếp theo. Người trao chính mình Người cho
chúng ta như lương thực và đổi mới chúng ta trong Thần Khí của Người.
Sau đó, bởi vì tình yêu
luôn luôn đi với trách nhiệm, nên Người thêm “Vì con yêu mến Thầy,
hãy đi và chăm sóc chiên của Thầy.” Nếu chúng ta trả lời, “Có” khi Người
hỏi chúng ta rằng chúng ta có yêu Người không, thì làm sao chúng ta
có thể từ chối câu trả lời “Có” khi chúng ta đứng trước nhu cầu của
người khác những người ốm đau, cô đơn, bị tổn thương, buồn phiền và
những người bị quỵ ngã? Câu nói “Nếu con yêu Thầy, hãy chăm sóc dân của
Thầy…” phải vang vọng trong tâm trí của chúng ta. Và ở trong tâm trí của
chúng ta, Thần Khí luôn đợi chờ để giúp đỡ chúng ta làm chứng cho lời
nói cũng như hành động của Đức Giêsu.
Ngày nay, chúng ta cũng
phải trả giá khi đáp lại lời mời gọi đổi mới của Đức Giêsu. Người cho cả
Phêrô và cho chúng ta biết điều đó. Người nói với Phêrô rằng khi anh già
người ta sẽ thắt lưng cho anh và dắt anh đến nơi anh chẳng muốn. Dường
như điều đó ám chỉ đến những đau khổ và cái chết sau này của Phêrô vì
làm chứng cho Chúa Kitô. Bài đọc thứ nhất cho thấy những gì ở phía trước
đang đợi Phêrô và những người khác. Vì vậy, nhiều người trong số các
ngài đã chịu tử đạo vì đức tin. Còn chúng ta thì sao? Liệu chúng ta có
sẵn lòng đi tới nơi ta không mong muốn vì Đức Giêsu và lời mời gọi của
Người: “Hãy theo tôi” hay không?
Khi chúng ta trưởng thành
trong đức tin, (“khi về già”), con đường này dẫn dắt chúng ta tới đâu
? Tha thứ cho những xúc phạm dai dẳng; đến với những
người bị lãng quên; từ chối quan niệm hiện thời của đám đông nhân loại;
sống giản dị để chia sẻ cho người khác; thay đổi thời khóa biểu của
chúng ta để có thể giúp đỡ người khác; chia sẻ những kỹ năng chuyên môn
với những người không có khả năng; dám từ bỏ cơ những hội nghề nghiệp vì
gia đình của mình …
Gần 2000 năm qua,
chúng ta có những mẫu gương của những người đã xuất sắc đáp trả lời gọi
của Đức Giêsu. Mỗi chúng ta cũng có những mẫu gương rất gần gũi của
những thành viên trong gia đình, của những người hàng xóm và giáo dân
khác mà đời sống Kitô hữu của họ cũng xuất sắc - có lẽ không phải trên
toàn thế giới, nhưng chắc chắn trong điểm sáng của đời sống chúng ta.
Chúng ta biết những người xuất sắc đó đã đáp trả lời mời gọi Đức Giêsu
dành cho các môn đệ của Người, “Hãy theo Thầy …
hãy chăm sóc chiên của Thầy…” Nhiều người
trong số họ đã hy sinh và đi đến nơi họ không muốn nhưng họ đã trải qua.
Tuy nhiên, qua mẫu gương của họ, họ chỉ cho chúng ta thấy những gì tốt
đẹp cho thế giới nhờ những người có đức tin, cùng với Thần Khí, đã làm
chứng cho danh của Đức Giêsu – như Phêrô đã nhắc nhở cho Thượng hội đồng
và cho chúng ta ngày hôm nay.
Lm. Jude Siciliano, O.P.(Anh em nhà học Đaminh chuyển ngữ)
Hãy chăm sóc
chiên của Thầy
Cv
5,27b-32.40b-41; Kh 5,11-14; Ga 21,1-19
Kính thưa quý vị,
Đối với những ai yêu thích những việc cầu
nguyện được diễn ra theo đúng nghi lễ và trật tự, theo cá nhân cũng như
cộng đoàn (và tôi xin thú nhận tôi cũng là một người trong số đó), thì
tốt hơn là chỉ nên đọc lướt qua bài đọc sách Khải Huyền hôm nay. Đó là
một đám đông ồn ào náo nhiệt, “có tới ức ức triệu triệu” các thiên thần,
các loài thụ tạo sống động và cả các trưởng lão. Tất cả không hề lặng
thinh trong trầm tư mặc tưởng. Họ đang lớn tiếng hô vang một bài thánh
ca tán tụng “Con Chiên đã bị giết”. Chưa hết, những lời khen ngợi còn
lan truyền đến “mọi loài thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất,
ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó…” Không hề có chỗ cho sự thinh
lặng ở nơi đầy ắp những lời ca ngợi của toàn thể vũ trụ này.
Chúng ta tôn thờ nhiều vị thần: giàu có,
tuổi trẻ, quyền lực, vui thú, dân tộc,… Nhưng rõ ràng là tác giả Gioan
trong thị kiến ngày hôm nay lại vui mừng công bố rằng Chúa thật của tất
cả các những sự hữu hình và vô hình chính là “Con Chiên đã bị giết”.
Thánh Gioan không chỉ ca ngợi Đức Giêsu, Đấng sống giữa chúng ta. Nhưng
ngài ca ngợi Đức Giêsu, Con Chiên đã bị giết chết và đã sống lại cho
chúng ta. Khi liên tưởng Đức Giêsu như là Con Chiên thì có rất nhiều
biểu tượng: đó là máu chiên đã cứu người Dothái khi họ chuẩn bị cho cuộc
xuất hành khỏi ách nô lệ Ai Cập. Đó là con chiên trong sách Isaia
(53,7), Đấng chịu thay đau khổ cho các tội nhân, và trong sách Đaniel
(8,20-21) nói về con chiên chiến thắng. Gioan còn cho thấy một lễ đăng
quang của Con Chiên. Đây không phải là một lễ nhỏ lặng thầm trong một
nhà nguyện xa xôi hẻo lánh, nhưng tất cả các thiên thần, các bô lão và
vũ hoàn hô vang bài ca chúc tụng ngợi khen.
Chúng ta sống ở bắc bán cầu nên đang
hưởng được mùa xuân sau một mùa đông khắc nghiệt. Hôm nay, khi rời khỏi
nhà thờ và nếu may mắn được ở những nơi nhiều cây và hoa (ngay cả ở
Brooklyn, quê hương của tôi!), chúng ta có thể cùng hòa chung với bài
thánh ca tán dương chúc tụng của vũ hoàn như trong sách Khải Huyền và
đón nhận được những món quà của thiên nhiên ban tặng; cũng như là ân
sủng mà chúng ta có trong Đức Kitô, Chiên Thiên Chúa, “Đấng xóa tội trần
gian”.
Cuộc sống của chúng ta có thể bị rạn vỡ
còn tâm trí thì bị phân tán bởi nhiều thứ bận tâm lo lắng, nhưng tác giả
Gioan, người đang chịu cảnh lưu đày ở đảo Patmos, cho chúng ta niềm hy
vọng. Hôm nay, ngài đã cho ta thấy một thị kiến và một lời nhắc nhở: Con
Chiên của Thiên Chúa đã bị đánh bại và giết chết đã phục sinh từ cõi
chết và giờ đây đang được tôn phong. Cùng với Gioan là người cũng chịu
đau khổ, chúng ta hiến dâng cả những vết thương của mình trong niềm xác
tín rằng một ngày nào đó ta cũng sẽ được hiệp đoàn với muôn loài để hát
bài ca tụng tán dương. Nhưng chúng ta có thể thưởng nếm yến tiệc cuối
cùng ấy bằng việc bắt đầu cử hành ca tụng ngay hôm nay, Chúa Nhật III
Phục Sinh, ngay cả khi những lời cầu nguyện và các bài thánh ca có âm
điệu dịu dàng hơn!
Tôi vừa có cuộc nói chuyện với một anh em
lớn tuổi trong Tỉnh dòng Đaminh của tôi. Anh đang ở trong một cơ sở điều
dưỡng. Tôi gọi để nói với anh về sự ra đi của một sử gia dòng Đaminh mà
chúng tôi rất yêu mến, Sơ Maria Nona Mc Greal, O.P. Anh ấy đã nói với
tôi rằng anh cũng đã lớn tuổi và cứ đau yếu bệnh tật luôn, vì thế mà anh
phải ở trong cơ sở điều dưỡng. Tôi đã từng đến thăm cơ sở này. Đây là
một nơi tuyệt vời, dù vậy, chẳng có ai lại không muốn có thể tự mình
đứng dậy và đi đến những nơi mà mình yêu thích, không còn bị ràng buộc
bởi tuổi tác hay bệnh tật thể xác.
Cuộc nói chuyện điện thoại này xảy ra khi
tôi đang suy tư về bài Tin mừng hôm nay và Đức Giêsu đã nói với Phêrô:
“Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng
lấy, và đi đâu tùy ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho
người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn”. Tôi bị cám dỗ
giống như một thiếu niên để viết ra bên cạnh đoạn Tin mừng này câu nói:
“Sự thật là thế nào đây!”
Quý vị không thấy những câu chuyện phục
sinh có âm điệu thật khác thường sao? Câu chuyện hôm nay cũng giống như
mọi hôm không có tiếng kèn vang. Thay vào đó, chúng ta thấy một ngày
đánh bắt cá mà chẳng được gì cả. Chẳng phải là những ngư phủ này đã từng
đánh bắt cá mà không có sự giúp đỡ của Đức Giêsu đó sao? Điều khiến các
ông chú ý là một mẻ cá. Sau cùng, Phêrô vui mừng; vừa nghe nói “Chúa đó”,
ông vội “khoác áo vào” rồi nhảy xuống biển. Nhưng khi ông và các môn đệ
khác vào bờ, các ông không kiệu Đức Giêsu trên vai, hò la, nhảy múa và
rước Người đi diễu hành qua các vùng lân cận, giống như những người hùng
bóng đá vừa giành được chiến thắng trong giải đấu.
Tuy nhiên, thánh Gioan cho chúng ta thấy
là các môn đệ không dám hỏi Đức Giêsu: “Ông là ai, vì các ông biết rằng
đó là Chúa.” Sau đó, các ông đã cùng ăn sáng. Phải chăng là các ông đang
sửng sốt như những lần trước? Tình tiết của câu chuyện diễn ra chậm rãi
chứ không nhanh chóng. Có lẽ là vì trong lòng các môn đệ vẫn còn chút
cảm giác bối rối và xấu hổ.
Lúc này, Phêrô không có gì đáng để tự hào,
vì thế có nhà chú giải cho rằng điều đầu tiên ông làm là phải “được khôi
phục lại”. Đức Giêsu đặt Phêrô vào một cuộc trò chuyện không mấy thoải
mái khiến chúng ta liên tưởng đến ba lần ông chối Chúa. Tuy nhiên, Phêrô
không bỏ ngang cuộc trò chuyện, và Đức Giêsu cũng không phủi tay bỏ mặc
ông cũng như những kẻ còn lại. Nếu chúng ta cũng ở đó, hãy nhớ và thú
nhận tội lỗi của mình như các môn đệ, Đức Giêsu đã sẵn sàng tha thứ và
sẽ sai chúng ta ra đi một lần nữa. Phêrô chẳng có gì để tự dương tự đắc
với những môn đệ khác. Có lẽ, ông chỉ là ánh sao nhỏ bé so với các môn
đệ khác, và chúng ta cũng thế. Thế cũng tốt, bởi lẽ Đức Giêsu kêu gọi
Phêrô trở lại với vai trò tôi tớ của ngài, “Hãy chăm sóc chiên của Thầy…
Hãy chăn dắt chiên của Thầy.” Chúng ta đã được tha thứ, giờ đây ta phải
phục vụ người khác, đặc biệt là bằng cách trao cho họ những gì mà Chúa
Kitô phục sinh đã cho chúng ta: sự tha thứ.
Giờ đây, trở lại với câu trích dẫn của
tôi ở trên liên quan đến việc Phêrô bị dẫn đến những nơi ông không muốn
đến. Sự ám chỉ này có lẽ nhắm đến việc Phêrô sẽ phải chịu tử đạo ở Rôma.
Phêrô sẽ thể hiện tình yêu với Chúa Kitô bằng cách hy sinh mạng sống của
mình để phục vụ Người. Gợi lại cuộc trò chuyện của người anh em Đaminh
lớn già và ốm đau bệnh tật. Năm tháng qua đi đã đảo ngược những gì anh
thường tự làm: tự mặc quần áo và đi đến nơi nào anh muốn. Sự đau yếu
bệnh tật đã buộc anh phải “dang tay ra” và bị dẫn đi, không phải đến nơi
anh luôn muốn đến, nhưng là nơi anh phải: đến phòng ăn, uống thuốc, được
tắm rửa, được đặt lên giường, bị đáng thức để chích thuốc, …
Vâng, có một điểm qui chiếu cho tất cả
những điều ấy, rất nhiều người bị bệnh và tất cả chúng ta cũng yếu đi
rất nhiều khi về già. Đúng thế, nhưng chúng ta, những người môn đệ, tin
tưởng rằng Chúa Kitô đã sống lại, dẫu cho những câu chuyện phục sinh xem
ra khá bình dị, không có ánh sáng chói chang và kèn vang dội, bởi vì đó
không phải là cách những người môn đệ như chúng ta sống. Chúng ta tin
rằng Chúa Kitô vẫn đồng hành với mình mỗi ngày, ngay cả những năm tháng
thê thảm nhất. Có thể sau đó chúng ta sẽ bị giảm đi nhiều thứ, nhưng đức
tin vẫn có thể tỏa sáng. Nhớ lại những nhân chứng lớn tuổi của chúng ta
đã đem lại cho ta trong tiếng cười và những lời hỏi thăm của họ: “Bạn
khỏe không?” Chúng ta có thể từ chối, hay không thể phục vụ như mình vẫn
làm, nhưng Chúa Kitô không bỏ rơi chúng ta. Người vẫn ban ân sủng cho
chúng ta dù ở tuổi nào và trong mọi điều kiện để ta nên chứng nhân cho
sự sống, cái chết và sự phục sinh của Người.
Hãy quay lại bài đọc trong Sách Khải
Huyền và lớn tiếng ca ngợi: “Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con
Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở
muôn đời.” Bạn hãy cất cao giọng thưa: “Amen!”
Không giống như sữa hộp hay một bột ngũ
cốc, phép rửa tội nhắc nhở rằng chúng ta không có ngày hết hạn. Thiên
Chúa đã hứa vào ngày ta chịu phép thánh tẩy: Thiên Chúa đã ngự đến, đã
cưu mang, và sẽ không bỏ rơi chúng ta trong tuổi già. “Khi đã về già,
anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đi.” (Ga
21,18)
Hôm nay là một cơ hội để thừa nhận những
điều chúng ta không thích: chúng ta là người phục vụ. Chúa Giêsu mời gọi
Phêrô ngay từ đầu Tin mừng: “Hãy theo Thầy”. Và ở cuối cuộc hành trình
với Chúa Giêsu cạnh bên, Phêrô và những người khác nghe thấy lời bảo đảm
này: “Lòng anh em đừng xao xuyến! Anh em tin vào Thiên Chúa thì cũng hãy
tin vào Thầy” (Ga 14,1). Tương lai của chúng ta ở trong tay Thiên Chúa
và chúng ta, những người đã chịu phép rửa, có được lời hứa của Thiên
Chúa, đặc biệt những người lớn tuổi. Thiên Chúa đã chiến thắng sự chết,
đã cho Chúa Giêsu phục sinh từ cõi chết và sẽ là Thiên Chúa trung thành
của ta. Ngài trao
ban cho chúng ta cuộc sống ngày hôm nay và cả lúc chúng ta luống tuổi
theo thời gian.
|