Năm C

 
 


Chúa Nhật Phục Sinh 02 - Năm C

Cv 5,12-16 / Kh 1,9-11a.12-13.17-19 / Ga 20,19-31


An Phong op : Sứ Điệp Phục Sinh, Niềm Vui Và Bình An

Jude Siciliano, op : Mối Phúc Thứ Chín

Jude Siciliano, op : Xin Thêm Đức Tin Cho Chúng Con

Như Hạ op : Lịch Sử Tình Yêu

Đặng Chí San op : Tâm Ấn : Vô Úy Vô Ưu

Giacôbê Phạm Văn Phượng op : Niềm tin Phục sinh

Giuse Nguyễn Hữu Phúc op : Phúc cho ai không thấy mà tin

G. Nguyễn Cao Luật op : Đức Tin Là Một Hồng Ân

Đỗ Lực : Bước Đột Phá

Jude Siciliano, op : Vượt gian lao xây dựng Giáo hội vinh thắng

Jude Siciliano, op: Bình an cho anh em

 

 


An Phong op

Sứ Điệp Phục Sinh : Niềm Vui Và Bình An
Ga 20,19-31

Tin mừng hôm nay là trình thuật Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ và nói : "Chúc anh em được bình an". Đang khi các ông đang hoang mang, sợ hãi và kinh hoàng vì những biến cố thương đau Thầy mình phải chịu, Đức Giêsu hiện đến đem lại niềm vui và bình an, điều các ông không tưởng nghĩ đến.

Cùng với niềm vui và bình an của Đấng phục sinh, các tông đồ đã lãnh nhận Thánh Thần và sứ mạng ra đi rao giảng tin mừng : "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con".

Cùng với niềm vui và bình an của Đấng phục sinh, "nhờ việc Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại, Thiên Chúa đã tái sinh chúng ta để chúng ta hy vọng được sống, được hưởng gia nghiệp không hư nát, tinh tuyền, không suy tàn... được bảo vệ trong quyền năng của Thiên Chúa... và vui mừng... " (1Pr 1,6-8).

Cùng với niềm vui và bình an của Đấng phục sinh, Tôma - người cứng lòng tin - đã tin. "Phúc cho những ai đã không thấy mà tin". Tôma là hình ảnh con người không dễ tin vào lời của người khác, ông đòi tự mình phải cảm nghiệm : "Nếu tôi không thấy... không xỏ ngón tay... tôi không tin". Thực ra, Tôma là hình ảnh một con người yêu mến tha thiết, nên khi tuyệt vọng, người đó dễ có thái độ ngang tàng, lời lẽ như thách đố, vì sợ người ta lừa bịp. Đức Giêsu hiện đến. Người chấp nhận con người Tôma. Người chiều ý ông. Người thỏa mãn ước nguyện điên rồ của ông. Đức Giêsu đã đối xử dịu hiền với Tôma. Và ông đã thưa : Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của tôi. Đây thực là một kinh nghiệm đức tin tuyệt vời.

Mỗi ngày, niềm vui và bình an của Đấng phục sinh được tái hiện qua thánh lễ. Thánh lễ là một cuộc tụ họp trong và quanh Đức Giêsu phục sinh để ngợi khen, tôn vinh Thiên Chúa, đồng thời cầu xin ơn phúc cho con người. "Chúa ở cùng anh chị em", "bình an của Chúa ở cùng anh chị em" được lặp đi lặp lại trong thánh lễ nhiều lần. Đây vừa là lời chúc, lời cầu xin, lời trấn an. Thánh lễ là hiệp thông trong cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Kitô. Hiến tế cứu độ Đức Giêsu thực hiện trên thập giá năm xưa được tái hiện trên bàn thờ mỗi ngày. Đức Giêsu đến với chúng ta mỗi ngày.

"Chúa Giêsu ưa thích đến với chúng ta.

Như CHÂN LÝ để tin

Như SỰ SỐNG để sống

Như ÁNH SÁNG để chiếu tỏa

Như TÌNH YÊU để yêu thương

Như NIỀM VUI để ban phát

Như BÌNH AN để chan hòa.Amen".

 

"Hoa trái của Thinh Lặng là Cầu Nguyện

Hoa trái của Cầu Nguyện là Niềm Tin

Hoa trái của Niềm Tin là Yêu Mến

Hoa trái của Yêu Mến là Phục Vụ

Hoa trái của Phục Vụ là Bình An.

Amen". (Mẹ Têrêsa Calcutta)

Lạy Chúa,

Xin cho niềm tin chúng con được trưởng thành.

Xin Chúa dẫn đưa chúng con tới chỗ thành toàn :
là tham dự vào Ánh Sáng Chúa và sống nhờ Bình an Chúa.
Cho niềm tin chúng con linh hoạt.
Cho chúng con không xem niềm tin như một tài sản bất động.
Nhưng là khởi điểm công cuộc tìm kiếm,
là bước đầu hành trình,
mỗi lúc thêm gian lao, mỗi lúc thêm cấp bách,
tiến về chân lý và khôn ngoan.
Xin cho luồng đức tin thổi vào cuộc sống chúng con.
Linh hoạt và biến đổi cuộc sống
thành một ân huệ yêu thương.


Fr. Jude Siciliano, OP

Niềm Tin : Mối Phúc Thứ Chín

Thưa qúi vị,

Đã từ khá lâu, từ thập niên 60, một số người Mỹ thường dùng thành ngữ “chúc bình an” để chào hỏi nhau. Thói quen này phát xuất từ miền trung đông Hoa Kỳ. Khi gặp nhau,khi từ biệt, chúng ta nói : “bình an”. Riêng với các tín hữu, Công giáo cũng như Tin lành, chúng ta chúc bình an cho nhau trước khi lãnh nhận bí tích Thánh Thể. Trong các trình thuật Kinh Thánh lời chúc bình an rất có ý nghĩa đối với các cộng đoàn, nhất là lời chúc trong bối cảnh hôm nay. Lời chúc này vang dội lại lời chúa Giêsu đã nói với các môn đệ trong nhà tiệc ly : “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban bình an của Thầy cho anh em” (Ga. 15,27). Đêm đó, Chúa Giêsu đã bảo đảm với các tông đồ đang khiếp sợ ngồi chung quanh bàn tiệc là Ngài sẽ trở lại. Hôm nay, Ngài làm tròn lời hứa đó. Ngài ban cho họ Chúa Thánh Thần, nhờ đó Ngài có mặt giữa họ tới muôn đời. Như Ngài hứa trong bữa Tiệc ly, Ngài không bỏ chúng ta mồ côi. Lời đó chẳng phải là chuyện hoang đường. Hai ngàn năm nay Giáo hội sống với thực chất của lời hứa đó, chứ chẳng thể chỉ là sống trong hoang tưởng của một bóng ma.

Thực sự Ngài sống với Giáo hội qua Chúa Thánh Thần, và sự có mặt của Ngài là nền tảng không thể phai nhạt của bình an. Khi Ngài hiện ra với các môn đệ trong phòng đóng kín, Ngài thổi hơi trên họ. Đây là hình ảnh gợi lại việc Thiên Chúa sáng tạo thổi hơi trên Adam để ban cho ông sức sống. Trong suốt Tin Mừng theo Thánh Gioan Chúa Giêsu luôn gặp rắc rối với quyền bính tôn giáo Do thái về việc Ngài chữa bệnh ngày Sabbath. Thí dụ sau khi Chúa chữa người què ở gần cửa Chiên (Ga.5,1) vào ngày thứ bảy. Quyền bính Do thái đã thách thức Ngài. Ngài trả lời:”Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta cũng làm việc như Ngài”. Do bởi tội lỗi, chúng ta đã làm nhơ bẩn hình ảnh thần linh mà Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta, cho nên Ngài không nghỉ ngày Sabbath mà tiếp tục thổi thần khí của Ngài trên chúng ta để chúng ta được lại sự sống. Như vậy, chẳng lạ gì,khi Ngài sống lại, Ngài đã hiện ra với các tông đồ, và bất chấp sự phản bội của họ, Ngài đã thổi sinh khí mới trên họ để họ được bình an và đời sống hoàn toàn đổi mới. Từ nay Thần khí của Đấng Sáng Tạo đã ở trong chúng ta để biến đổi chúng ta thành con cái trung tín của Thiên Chúa. Từ nay tội lỗi chẳng còn quyền lực nào trên con cái loài người, bởi thần khí của họ đã được kết hợp với thần trí của Chúa Giêsu. Từ nay quyền bính chiến thắng tội lỗi và sự chết của Chúa Giêsu đã ngự trị trong mỗi linh hồn chúng ta.

Trên thập tự, quyền lực của satan xem ra thắng thế, xem ra không thể bại trận. Nó đã quật ngã Đấng đã từng chứng minh Ngài có quyền hành trên sự dữ. Nhưng sự sống lại của Chúa Giêsu chứng tỏ quyền bính của Ngài thực sự vượt trên quyền bính tội lỗi và sự chết. Thần khí của Ngài không thể bị phá hủy. Những ai được diễm phúc lãnh nhận thần khí của Ngài thì sẽ bất tử. Bởi thần khí đó là sự sống muôn đời muôn thưở. Đối với thế gian thì mọi sự chẳng được tốt đẹp như vậy, bóng tối và ánh sáng còn đang đan xen, những người cầm quyền thế gian còn đang nằm trong tay satan, sự dữ còn đang mặc sức lộng hành. Nhưng dầu thế nào đi nữa sự dữ không thể nào tiêu diệt được sự sống, bởi lẽ thần khí của Đức Giêsu không thể nào và không bao giờ bị tiêu hủy. Thần khí dó bây giờ đang ngự trị trong linh hồn các tín hữu trung kiên. Linh mục Walter Wink lưu ý rằng chúng ta chưa có thể đặt dưới chân Adam và Eva mọi thứ tội lỗi đang làm mưa gió trên thế giới. Vẫn có những trận cuồng phong của satan thổi qua mặt đất: nào là băng hoại chúng từ, phân biệt chủng tộc, lạm dụng giới tính, áp bức dân đen, tham vọng tàn bạo, duy vật chủ nghĩa, cá nhân chủ nghĩa v.v…Những quyền lực đó đã từng hành xích Chúa Giêsu trên thánh gía, nhưng khá đủ mạnh để đánh gục Ngài. Ngài đã chỗi dậy và liên kết với chúng ta qua thần khí để chúng ta cũng sẽ vượt thắng mọi kho khăn cũa sự dữ mà chúng ta phải đối phó trong cuộc sống hằng ngày .

Trong chương 16, Chúa Giêsu hứa sẽ gởi Thánh Thần của Ngài đến với các môn đệ. Ngài nói điều này là cần thiết, bởi vì Ngài sẽ trở về cùng Chúa Cha. Thánh Thần mà Ngài gọi là Đấng bảo Trợ (tiếng Hy lạp gọi là Parakletos, nghĩa là Đấng được gởi đến để giúp đỡ người khác ) sẽ giúp sức các môn đệ chống lại quyền lực của sự dữ và cầu khẩn cho các ngài trước ngai tòa Thiên Chúa. Ngài cũng sẽ là một thầy giáo, thầy dậy dỗ những ai muốn học hỏi. Qua vị tôn sư này chúng ta sẽ học hỏi thế nào là gía trị của cuộc đời, thế nào để vượt thắng ngu dốt,tự kỷ ám thị, tự tôn tự đại, thế nào là khiêm nhu, tư hạ để trở thành những môn đệ đích thực của Chúa Giêsu. Thánh Thần này còn là thần khí của chân lý, giúp chúng ta khỏi cận thị để nhìn qua những gía tri đời này tới thiên đàng vĩnh cữu. Qua thần khí, chúng ta mới có thể nhận biết được đâu là sự thật, sự lành, sự thánh thiện và nương theo đó mà sống cho đẹp lòng Thiên Chúa. Trong bài diễn từ cuối cùng, Chúa Giêsu con đặc biệt quan tâm đến những ai Ngài đã gọi ra khỏi the gian và những ai lắng nghe Lời Ngài. Ngài cầu nguyện để họ tiếp tục trung tín với Lời Ngài. Ngài sai họ đi vào thế giới để hoàn thành sứ vụ của Ngài và xây dựng những thế hệ tín. Ngài cầu nguyện cho tất cả chúng ta nên như các môn đệ, chúng ta tin vào bằng chứng của các Tông đồ, tiếp tục sự hiện diện của Ngài trên thế gian .

Khi hiện ra với các môn đệ, Chúa Giêsu thổi thần khí của Ngài trên các ông và ban cho các ông quyền bính tha tội. Từ đấy các ông và ngày nay chúng ta qua bằng chứng của các Tông đồ sẽ được nhận biết là môn đệ của Ngài nhờ việc chúng ta mang đến cho người khác sự tha thứ hòa giải của TC. Sứ vụ của mỗi người chúng ta, được Chúa Thánh Thần đóng ấn là bày tỏ tình yêu của TC cho thế giới này bằng cách trở nên những tác nhân của công trình hòa giải mà chính Chúa Giêsu đã từng thực hiện. Theo Tin mừng Th. Gioan, Chúa Giêsu đã trở về với Chúa Cha, chính trong ngày Người sống lại, tức ngày thứ nhất trong tuần, vậy thì sự sống lại và sự tôn vinh của Ngài chỉ là một biến cố (không giống như Th.Luca, sự sống lại và sự lên trời của Chúa Giêsu cách nhau 40 ngày). Bà Maria Madalena đã được gặp Chúa. Bà đã ở lại sau khi báo tin cho Phêrô và “người môn đệ kia” đến coi ngôi mộ trống. Rồi bà trở về với tin vui Chúa đã sống lại để báo cho các môn đệ đang tụ họp trong nhà, đàng sau cánh cửa khóa kín vì “sợ người Do thái”. Bà là người duy nhất trong tin mừng Th.Gioan được Chúa Phục Sinh hiện ra riêng rẻ và cũng là người duy nhất được Chúa trao sứ vụ riêng. Ở đây có một mối tương giao sáng giá : Kẻ đầu tiên được trông thấy Chúa sống lại là kẻ bị thúc đẩy bởi tình yêu, bất chấp nguy hiểm bị lộ và bị người ta phát hiện có mặt ở nghĩa trang một mình trong giây phút nghiêm ngặt. Dầu sao tất cả các môn đệ cũng được Chúa viếng thăm như trước khi chết, Ngài đã viếng thăm kẻ mù loà, què quặt. Khi Chúa Phục sinh đứng giữa họ, họ dược tràn đầy bình an và vui mừng, họ được cả thế giới thu lại trong một khoảnh khắc. Ngài không khiển trách họ về tội phản bội, tội phân tán bỏ Ngài một mình trong cơn hoạn nạn, tội sợ hãi kiếm chỗ ẩn thân. Sự hiện diện của Ngài làm cho họ ngụp lặn trong niềm vui. Qúa khứ đã qua hẳn rồi. Tất cả đều được tha thứ, trước mắt họ là một cuộc sống hoàn toàn mới, tinh khôi như bình minh vừa ló dạng.

Nhưng niềm vui của họ chẳng phải là một lễ hội ngây ngất, đầy tiếng reo hò, đầy cuộc say sưa. Niềm vui của họ là động lực rao giảng sứ vụ hòa giải. Họ muốn bung ra, đi tới những người khác, nói với tất cả thế giới về lòng Chúa thương yêu, về tin mừng hòa giải. Người đầu tiên từ trong nhóm họ, đang cần được tin mừng hòa giải, đó là Th.Thomas. Ông là đầu mục của những kẻ nghi ngờ, cứng lòng tin. Khi Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ khác, không thấy có dấu vết nghi ngờ. Họ lập tức vui mừng và hoan hỉ. Nhưng đối với những linh hồn yếm thế, thì bóng mây ngờ vực còn đang lảng vảng đâu đây ! Dầu sao thì sự chết đã qúa rõ ràng. quá trọn vẹn làm sao có thể lật ngược tình thế ? Trường hợp của Th. Thomas là duy nhất trong bốn tin mừng và chỉ có Th. Gioan ghi lại câu chuyện này, vì thế đáng kể cho chúng ta suy nghĩ. Ong là phát ngôn viên của những người yếm thế trong Giáo hội từ hai ngàn năm nay. Vì vậy, lời tuyên xưng đức tin của ông đánh tan mọi nghi ngờ trong linh hồn chúng ta. Đó là một tuyên ngôn vĩ đại và bất tử, giúp đỡ các tín hữu của cộng đoàn Th. Gioan, và của Giáo hội mọi nơi, mọi thời đối phó với các nghi ngờ của lòng mình. “Lạy Chúa, lạy Thiên chúa của tôi” đầy ắp trong con người Thomas và trong linh hồn chúng ta,không còn chỗ cho nghi ngờ được nữa. Linh mục Neal Flanagan gọi những kẻ tin là môn đệ của mối phúc thứ chín : ”Phúc cho những ai không xem thấy mà tin”. Rõ ràng là như vậy. Amen.

 
Đặng Chí San op

“TÂM ẤN” VÔ ƯU VÔ ÚY
 Ga 20 , 19-31

Những “kinh nghiệm thương đau” gặp phải trong đời khiến chúng ta, cũng như các môn đệ, trở nên tê liệt. Sức sống bị rụt lại. Ta co ro khép nép với chính mình và với cuộc đời. Vì thế, ta đóng kín mọi cánh cửa tâm hồn. Có thể, trong căn phòng đóng kín ấy, ta ồn ào lăng xăng, ta múa may quay cuồng “giương oai diễn võ”, hoặc ta trở thành những kẻ vô cùng đàng hoàng nghiêm nghị, đạo mạo đe loi, thở ra hơi thở đen xì của cánh chim báo bão. Thực ra, tất cả chỉ để gượng gạo che lấp thứ bóng tối đầy đe doạ trong hồn. Làm sao có thể bát ngát hân hoan tung bay vào cuộc sống nữa, một khi, cuộc đời đầy dẫy những thất bại chua cay, những tan tác hãi hùng !

Nhưng, Đấng Phục Sinh có sức vượt qua tất cả mọi cánh cửa đóng kín. Không một nỗi thất vọng nào, không một sự khổ đau nào, không một niềm cô đơn nào, không một cơn tội lỗi nào có thể trở thành rào ngăn Ánh Sáng và Sức Sống của Đấng Phục Sinh. “Ngài đến, đứng giữa các ông”. Ngài đến, điềm đạm, ung dung, giản dị, nhưng vững chãi, uy nghi, thân ái. Ngài đến như một kẻ chiến thắng, chiến thắng mọi lầm than, khôn khổ, sợ hãi, bệnh tật, tội lỗi của số kiếp con người.

Cho nên, khi Ngài đến, Ngài thở hơi thở Bình An. Hơi thở Bình An là hơi thở tái tạo. Ngài làm mới lại con người chúng ta. Chúng ta được sinh lại trong “tâm ấn” Vô Ưu và Vô Úy của Ngài. Trong Hơi Thở Đức Giêsu Phục Sinh, mỗi con người có một Thần Khí Mới, một Tinh Thần Mới, một Sức Sống mới. Mỗi người từ đây đều có quyền “sống và sống dồi dào”. Sống và sống dồi dào, tức là không lo âu, không sợ hãi. Sống và sống dồi dào, là sống băng băng, sống tràn bờ, sống hân hoan, sống tự do, sống mà thấy cuộc đời tràn ngập niềm vui mừng và tươi đẹp. Miễn là, ta DÁM TIN.

Chất nghi nan của Tô Ma vẫn ẩn núp đâu đó trong chúng ta. Chúng ta tin vào thất bại và khó khăn hơn là tin vào Niềm Vui và Ánh Sáng. Chúng ta “đứng về phe” với bóng tối và sợ hãi hơn là sự Chiến Thắng và Tự Do. “Kinh nghiệm thực tế” giữa cuộc đời bon chen, bẩn chật, bệnh hoạn, tội lỗi, chết chóc khiến chúng ta lại thở cái hơi thở đen ngòm, kín đáo, hãi sợ, cẩn trọng, khôn vặt, lề thói, để rồi ta cũng trở nên bon chen và bẩn chật chẳng khác gì bao cảnh nhốn nháo ở đời !

Thế nhưng, những vết thương trên Thân Thể của Đấng Phục Sinh Chúa Giêsu lại cho chúng ta tin tưởng và thấu hiểu rằng : tất cả những thứ khổ đau, hèn yếu, thua cuộc, bệnh tật của ta và của đời chỉ là thoáng chốc; hơn nữa, chúng chỉ là “hình tướng” bên ngoài. Và Bình An của Chúa Giêsu lại là Bình An không như thế gian ban tặng. Bên ngoài, ra như ta vẫn phải kéo lê tất cả. Nhưng, “Hãy xỏ ngón tay vào đây, và hãy tin”. Đấng Phục Sinh đã thay đổi tất cả từ trong bản chất !

Mỗi ngày, giữa bao nhiêu phù du và sợ hãi của đời mình, tôi có quyền niệm một triệu lần rằng : Tất cả mọi đau thương tội lỗi chỉ là chuyện “hình tướng”, chuyện bên ngoài. Trong Đức Giêsu, đáy sâu hiện hữu của tôi là Ánh Sáng. Trong Đức Giêsu, tôi là Người Chiến Thắng. Trong Đức Giêsu, tôi là kẻ chan chứa Niềm Vui, tôi là con người thần thiêng vĩ đại. Chỉ vì, Đức Giêsu Phục Sinh ở trong tôi. Và tôi dám tin một tỷ lần vào điều đó, bất chấp tất cả những tan tác, bệnh tật, thống khổ, đau thương, tỗi lỗi vẫn diễn ra. Tôi là con người của Vui Mừng, Bình An, Tin Tưởng, Hy Vọng.

Và đó là Thần Khí Bình An, Thần Khí Vô Ưu Vô Uý mà những người tin đã lãnh nhận. Thần Khí của Niềm Vui Sống. Thần Khí của Niềm Tin vào Ánh Sáng. Thần Khí của Lòng Dạ Bình An và Hân Hoan trong Đấng Phục Sinh. Lãnh nhận Thần Khí ấy, người tín hữu là kẻ “nắm giữ chìa khóa Nước Trời” để “tha tội hoặc cầm giữ” : giữa bao nhiêu hoang tàn đổ nát của trần gian, nếu người tín hữu chỉ sống như những cánh chim báo bão, thì trần gian trầm trọng và đau thương này “bị cầm giữ” mãi thôi. Một ngàn lần, một triệu lần, người tín hữu là kẻ sống, thở và loan báo Thần Khí của Tình yêu và Tự Do, của Niềm Vui và Ánh Sáng, của Niềm Tin Tưởng và Hy Vọng Vô Bờ. Vì Chúa đã sống lại thật rồi. Alleluia !


Fr. Jude Siciliano, OP

XIN THÊM ĐỨC TIN CHO CON
(Ga 20,19-31)

Thưa quý vị,

Phản ứng tự nhiên của tôi khi nghe đọc bài Tin Mừng hôm nay là cảm tạ Thiên Chúa về thái độ của ông Tôma, ông không tin cho đến khi có bằng chứng xác thực và cụ thể. Chúa Phục Sinh đã thương, hiện ra với ông để củng cố đức tin cho ông và chúng ta được chúc phúc vì “không thấy mà tin”. Trình thuật này chỉ có Gioan kể lại, đúng theo nhu cầu của cộng đoàn Ephêsô và may thay của các độc giả thực dụng hôm nay nữa. Chúng ta sống quá xa thời gian với biến cố phục sinh cho nên khó mà dự phần vào ký ức của các nhân chứng đương thời. Thái độ “cứng tin” của ông Tôma thực tiễn và sống động cho nên mang tính thuyết phục cao. Ong rất gần với tâm thức bây giờ, cái chi cũng cần rõ ràng và chính xác. Cả tôi cũng vậy, để tôi vững bụng mà giảng dạy cho anh chị em: “Đấy nhé! Mọi chứng cớ đều hợp nhất, Chúa thực sự đã sống lại!”

Tuy nhiên, các câu chuyện trong Phúc Âm không được rõ ràng đến thế, trái lại rất lộn xộn và khác nhau: Các chi tiết không cùng một bố cục, người kể thế này, kẻ khác nói thế khác. Chung quy là bốn Phúc Âm đều khác nhau cả, chỉ có sự kiện Chúa sống lại từ cõi chết là có căn bản chung. Khi nghe các phụ nữ thuật lại những điều mà họ đã chứng kiến tại ngôi mộ trống của Chúa Giêsu, các tông đồ đều sửng sốt, thậm chí thánh Luca còn viết: “Nhưng các ông cho là chuyện vớ vẩn, nên chẳng tin” (Lc 24,11) họ còn phải vật lộn chán chê với các tư tưởng của mình về sự kiện vượt khỏi mọi kinh nghiệm của mình. Ong Tôma bộc trực, phát biểu hoài nghi của mình là có lý; hầu hết chúng ta ngày nay cũng có tâm trạng như ông Tôma: nghi ngờ và đấu tranh nội tâm, chẳng dễ gì buông tha chúng ta mặc dù vẫn tuyên xưng đức tin chân thật.

Cho nên có tác giả đã đưa ý kiến: “Faith without doubts is not true faith” (đức tin mà không có nghi ngờ thì chưa phải là đức tin chân chính). Đúng vậy, nội dung của đức tin chưa đạt được, hãy còn ở trong hy vọng thì làm sao mà hết nghi nan? Cho nên hàng ngày chúng ta phải giục lòng tin và xin Chúa ban cho thêm đức tin như các tông đồ thuở xưa. Nói ngay như bản thân tôi, tôi cũng hằng ước ao được đồng hoá với vị nào đó trong biến cố phục sinh để xem sự thể ra sao, để “dội gáo nước lạnh” trên thực tế của nhóm mười hai đang ngây ngất vì biến cố và bởi lẽ chẳng cách nào có mặt, nên chí ít cũng có ai nói thay tôi. Ông Tôma không có mặt khi Chúa Giêsu hiện ra lần thứ nhất tại căn phòng trên gác, đã nói thay chúng ta, ông đáp, cầu được củng cố đức tin và nói lên nhu cầu đó của các tín hữu hôm nay khi thế giới xem ra đầy dẫy những chứng cớ ngược lại với sự phục sinh và đời sống mới: chiến tranh, khủng bố, tự sát, chém giết, phản bội, lừa đảo…

Hơn nữa, nhiều giáo xứ trên đất nước Hoa Kỳ và Âu Châu xem ra đang thiếu hẳn tín hữu, thiếu hẳn đức tin sống động; nếu chúng ta là một cộng đồng phục sinh, tại sao thánh đường lại vắng bóng các tín hữu ngày chúa nhật? Các nghi lễ phụng vụ chỉ còn lèo tèo vài ba linh hồn, thậm chí nhiều nhà thờ phải đóng cửa bởi không có các tín đồ tham dự thánh lễ ? Nếu chúng ta tin Chúa sống lại tại sao không nói lên cho thế giới biết “bình an” Chúa Giêsu ban cho bạn hữu Ngài ở căn phòng trên lầu, khi người ta gây hấn bất công tiến hành chiến tranh áp bức? Khi người ta giết hại hàng triệu sinh linh vô tội? Xã hội chúng ta đang cần những cộng đồng đức tin mạnh mẽ, để lên tiếng chống lại những thành kiến, sợ hãi, bất công, ghen ghét, chia rẽ, bóc lột và rao giảng hoà bình, yêu thương và tha thứ ? Gương mù của hàng giáo sĩ gần đây gây thiệt hại nặng nề lớn cho đức tin vào Chúa sống lại của các tín hữu, chẳng biết đến bao giờ mới có khả năng phục hồi! Cho nên tôi sẵn lòng đứng về phe với ông Tôma khi nghe loan tin Chúa sống lại, bởi đôi khi nó thiếu hẳn biểu hiện cụ thể nơi những kẻ tự phong tin kính.

Thật là vui mừng khi nghe ông Tôma nói lên ý nghĩ của mình, ông đã phải vật lộn với nghi nan như đa phần chúng ta hôm nay khi nhìn vào tình trạng giáo xứ, Giáo Hội, giáo sĩ. Thì ra thời nào cũng có Caipha, Anna, Philatô, Giuđa; thời nào cũng có thượng tế, luật sĩ, Pharisêu, chứ không nhất thiết thời Chúa Giêsu mới có. Tuy nhiên, tôi lại vui mừng hơn khi biết rằng Chúa sống lại đã nhìn thấy hết sự việc này, đã thấu suốt hết tâm can của ông Tôma và chúng ta hôm nay; Ngài đã thực hiện một cuộc có mặt ngoại lệ. Tám ngày sau đã trở lại căn phòng trên lầu và cho ông Tôma thấy những thương tích, để củng cố đức tin cho ông, xua đuổi mọi nghi nan để đạt tới bình an chân thật. Xin tạ ơn Chúa vì ông Tôma.

Chắc chắn các giáo hội tiên khởi đã đánh giá cao câu chuyện ông Tôma và coi như một kho tàng giúp đỡ đức tin, không như đa phần tín hữu bây giờ xem ông như tiêu biểu cho người có lòng tin yếu ớt. Thực ra ngay từ thuở ban đầu đã có những kẻ từ chối Chúa Giêsu sống lại và chế giễu niềm tin này của Giáo Hội non trẻ. Thí dụ thánh Phaolô trước hội đồng Arepago Hy Lạp: “Vừa nghe đến người chết sống lại, kẻ thì nhạo cười, kẻ thì nói: để khi khác chúng tôi sẽ nghe ông nói về vấn đề ấy” (Cv 17,32). Nhưng Giáo Hội tiên khởi và chúng ta hôm nay có thể nêu rõ trường hợp tông đồ Tôma, ông cũng đã nghi ngờ và cuối cùng đã tin: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,28). Cho nên chúng ta trong thánh lễ hôm nay, kêu nài Đấng là ánh sáng phục sinh chiếu rọi qua mọi tâm hồn đang đóng kín, hiện diện giữa các cộng đồng tín hữu, xua tan mọi bất tín, nghi ngờ và củng cố lòng tin chân chính cho chúng ta, những kẻ chưa hề được xem thấy, nhưng vẫn cố gắng giục lòng tin yêu.

Điểm thứ hai của bài Tin Mừng hôm nay là lời chúc “bình an” (Shalom) cho các môn đệ đang lo âu sợ sệt trong căn phòng tiệc ly. Lời Chúa này nặng ký hơn các lời chào hỏi bình thường, thí dụ “Hello”, “Calm down”, “get a grip”… phần trên của bài Tin Mừng hôm nay chính xác là trong diễn từ cuối cùng Chúa Giêsu hứa với các môn đệ: “Thầy để lại bình an cho các anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” (Ga 15,27). Hôm nay Ngài nói với họ hai lần. Một lần cho chính bản thân họ, một lần cho thế gian: “Như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em”. Và họ nhận lấy Thánh Thần để thi hành sứ mệnh: “Nói xong Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần””. Việc này nhắc lại Thiên Chúa đã thổi hơi vào nắm đất sét để tạo dựng ông Adong. Như vậy các tông đồ đã được Đấng phục sinh biến đổi thành tạo vật mới với lệnh truyền ra đi khắp thế giới rao giảng bình an và ơn tha tội. Đó cũng là sứ mệnh của Hội Thánh ngày nay và mãi mãi đến tận cùng thời gian.

Cho nên bất cứ khi nào, bất cứ ở đâu người tín hữu thực hành tha thứ, chiến thắng tử thần dưới mọi hình thức: ghét ghen, thù hận, vô cảm, lạnh lùng, bạo lực, kỳ thị; thì lúc ấy Thần Khí của Đức Kitô sống động và sự phục sinh của Ngài được tỏ hiện. Ngay cả với chuyện của tông đồ Tôma, chúng ta cũng không thể thuyết phục được người ta tin Chúa đã sống lại, trừ phi chính chúng ta là dấu chỉ cho người ta tin, trừ phi chúng ta biểu lộ được sức sống của Ngài chưa tàn lụi mà vẫn bừng cháy trong đời sống các tín hữu. Vì thế, khi tham dự phụng vụ, lãnh các bí tích, chăm sóc bệnh nhân, nuôi dưỡng cô nhi quả phụ là cốt yếu trong biểu hiện lòng tin của chúng ta. Hôm nay khi tham dự thánh lễ có lẽ chẳng ai còn phải sợ sệt như các tông đồ thuở xưa, các ông sợ hãi bị bắt, bị hành hình vì niềm tin vào Chúa Giêsu, bị thế lực đền thờ kết án như họ đã đối xử với thầy mình cho nên đã khoá chặt cửa mỗi khi hội họp. Tuy nhiên, chúng ta có những nỗi sợ khác, sợ vì các nghi nan của mình. Khi chị Maria Mađalêna báo cáo về ngôi mộ trống và gặp Chúa đã sống lại (20,16). Nỗi sợ hãi và nghi ngờ vẫn không tan biến khỏi tâm hồn các tông đồ. Ngày nay cũng vậy các nghi nan sợ hãi vẫn chồng chất trong trí khôn các tín hữu, nhất là trước những tiến bộ khoa học, những triết lý duy vật, hiện sinh, những phân tâm vô thức, những sinh sản vô tính, luân lý tương đối… Nhiều thế hệ trẻ đã từng trao đảo niềm tin của mình cho nên Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay: “Đừng sợ” không phải cho các tông đồ mà thôi, nhưng cho toàn thể các tín hữu nữa. Ngài nói với chúng ta đừng sợ vì các nghi nan của mình, đừng để cho nỗi sợ hãi làm cho đức tin tê liệt, những phải dựa hẳn vào Lời Chúa (trong Kinh Thánh có tất cả 365 lần Thiên Chúa nói “đừng sợ” mỗi ngày một lần). Ngoài ra chúng ta không cô đơn trong những nỗi sợ hãi này, chúng ta là cả một cộng đoàn vật lộn với những nghi nan của mình: Người mạnh tin nâng đỡ người yếu tin và giống như ông Tôma hôm nay chúng ta cũng đầu hàng trước Đức Kitô phục sinh. Tuy nhiên như vậy vẫn chưa phải là đức tin tròn đầy.

Bởi lẽ căn cứ vào lời Chúa Giêsu: “Phúc cho những ai không xem thấy mà tin”, thì nội dung đức tin vượt xa các giác quan con người. Ong Tôma đã được Chúa khích lệ nhảy một bước trong đức tin: “Chớ cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Do đó, ông tiêu biểu cho chúng ta hôm nay: hành trình trong đức tin gồm cả những nghi nan, chỉ khi đó chúng ta mới được Chúa gọi là “có phúc”. Chúng ta đặt trọn niềm tin cậy và Phúc Âm, vào sự kiện Chúa sống lại và vào sự phục sinh của mỗi người. Chúng ta ôm ấp đức tin đó và sống như những linh hồn hít thở bằng Thần Khí Chúa giữa thế gian sa đoạ và tội lỗi.

Nếu như câu chuyện Chúa sống lại được loan truyền bằng hình thức khác nghĩa là rõ ràng, khúc chiết, minh bạch thì có lẽ chúng ta đã chẳng cảm thấy gần gũi như hiện nay. Bởi nó có thể là một sự sắp đặt và tính toán kỹ. Chúng ta sẽ gặp một Đức Kitô không còn thương tích, uy nghi như một vị thần linh hay một vị hoàng đế mới lên ngôi. Chúng ta chẳng còn phải vật lộn với đức tin tối tăm, với mừng vui nửa vời, với bầm dập nơi thân xác mình và thân xác kẻ khác. Nhưng như vậy thì Ngài quá xa vời nếp sống trần tục, không còn là bạn hữu chúng ta nữa, những con người luôn mang kiếp sống đoạ đầy. Cho nên khi đã phục sinh, Ngài vẫn mang thương tích, vẫn mang dấu vết của những con người lầm than và vẫn gần gũi với nhân loại. Qua thương tích của mình, Ngài vẫn đồng hoá với loài người khổ đau, với những kẻ lang thang không cửa không nhà, với những di dân, ngoài lề bị xua đuổi hết nơi này chốn khác, với những kẻ ăn xin ăn mày đầu đường cuối phố, với những kẻ ngủ chợ gầm cầu. Thực tế, các thương tích của chúng ta ngày nay không xa lạ với Chúa Giêsu, nó là dấu chỉ chúng ta kết hiệp với Ngài trong cùng một kiếp sống. Nó cũng bảo đảm rằng chúng ta sẽ chẳng bao giờ bị đánh bại cho dù thế lực kẻ thù có mạnh mẽ đến đâu đi nữa. Thương tích của Ngài cứu chữa chúng ta, xin mọi người vững tin vào điều đó. Ngài hiện ra với các tông đồ, cửa phòng vẫn đóng kín, nghĩa là chẳng còn chi ngăn cản được Ngài nữa; Ngài đã phá đổ mọi hàng rào chia rẽ để đi đến với mọi nỗi thống khổ của kiếp con người. Các tông đồ run rẩy vì sợ hãi thế gian và Ngài đã an ủi họ và vẫn mang thương tích. Ngài không đến với họ trong vinh quang có các thiên thần hầu cận, có Micae bảo vệ mà là như một Đấng Cứu Thế mình đầy thương tích. Giống như cuộc sống chúng ta hàng ngàn bầm dập vì chiến đấu, Ngài cũng đã bị thế giới quyền lực làm cho nát tan. Như vậy Ngài hiểu biết và chia sẻ thương tích với chúng ta, bởi lẽ hết thảy những ai sinh vào thế gian này đều phải mang thương tích. Ngài không đến như một vị khách quý, chẳng liên quan gì đến những nỗi nhọc nhằn của nhân loại nhưng Ngài đến với các tông đồ như người bạn dấn thân vào các nghi nan, sợ hãi của họ. Như thế chúng ta hiểu được tại sao Phúc Âm lại được Chúa Thánh Thần soi sáng viết như hiện nay.

Cho nên bất cứ khi nào chúng ta kinh nghiệm đau khổ, chúng ta biết mình đang liên kết với Chúa Giêsu và với anh em đồng loại. Các vết thương không thể nào khiến chúng ta thất vọng và quỵ ngã. Nó nhắc nhớ chúng ta những thương tích của Chúa Giêsu, sự sống lại của Ngài giúp chúng ta can đảm chịu đựng và ban cho chúng ta hy vọng sẽ được Ngài chữa lành. Trước khi được hoàn toàn vinh quang với Ngài, chúng ta nên tâm niệm rằng mỗi khi gặp gian nan thử thách là gặp được Đấng Cứu Thế đầy thương tích, Ngài sẽ bẻ gãy mọi rào cản và để tiến gần với chúng ta hơn, ban cho chúng ta bình an, hy vọng và niềm vui phục sinh. Halleluia. Amen.


Như Hạ op

LỊCH SỬ TÌNH YÊU

Nhân loại đang chóng mặt vì những tiến bộ ngoạn mục của khoa học kỹ thuật. Trong cơn chóng mặt đó, người ta vẽ nên những nét lịch sử nguệch ngoạc. Đó là những nét vòng hay đường thẳng ? Có lẽ khó kiếm được những đường thẳng trong muôn vàn nét nguệch ngoạc đó. Tình yêu cũng có nét lịch sử riêng. Đó là những nét vòng chung quanh cuộc đời mỗi người và cộng đoàn.

NHỮNG NÉT NGUỆCH NGOẠC.

Cộng đoàn ban đầu của Đức Giêsu thật nhỏ bé, nhưng cũng đủ tạo nên bao sóng gió và để lại những âm ba lớn lao trong lịch sử Giáo hội. Các môn đệ vẫn chưa hết bàng hoàng trước cơn biến động quá lớn : Thày vừa bị giết. Mối đe dọa Thày cũng đe dọa các môn đệ. Quả thực, cho tới khi Thày chưa hiện ra trấn an, “nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái.” (Ga 20:19) Tâm hồn và con người các ông rúng động. Các sợi dây chằng chịt Thày trò đều bứt tung. Tương lai chỉ còn là tai ương. Niềm mong đợi duy nhất chi phối tất cả các môn đệ là sự bình an.

Bởi vậy, ngay khi sống lại, Đức Giêsu đã tìm mọi cách trấn an các môn đệ : “Bình an cho anh em !” (Ga 20:19, 21, 26) Sau khi đã ổn định tinh thần các môn đệ, Đức Giêsu thấy phải củng cố niềm tin các ông bằng những dấu chỉ cụ thể. “Người cho các ông xem tay và cạnh sườn.” (Ga 20:20) Mạc khải đó thật trọn vẹn. Các ông đã thoát khỏi sự ngờ vực và sợ hãi. Đó là lý do tại sao “các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.”

Người ta cứ tưởng chỉ có ông Thomas là người cứng lòng tin nhất trong hàng ngũ các tông đồ. Chỉ mình ông gây rắc rối, đòi những bằng chứng cụ thể vì nặng đầu óc duy nghiệm. Thực ra, chẳng phải một mình ông Thomas. Các môn đệ khác đã từng không tin lời loan báo Phục sinh của bà Maria Mácđala (Ga 20:18). “Chỉ khi Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ (c.19) và cho họ xem tay và cạnh sường Người (c.20), các ông mới nhận ra Chúa và vui mừng. Ong Thomas đã không hành động khác với các môn đệ khác.” (NIB: 849, vol.9)

Nhưng một khi đã thấy Chúa, họ đều tràn ngập niềm vui. Bình an Chúa hứa trong Ga16:20-22 đã nên trọn vẹn khi Chúa hiện ra với các môn đệ. Đức Giêsu hiện diện như một bảo đảm hạnh phúc hiện tại và tương lai cho các môn đệ. Nói đúng hơn, Người là niềm vui và bình an của toàn thể nhân loại. Chính trong sự bình an lớn lao đó, Đức Giêsu muốn phóng cái nhìn của các môn đệ về một tương lai rực rỡ với sứ mệnh cao cả. Người nói rõ : “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” (Ga 20:21) Họ cũng có một sứ mệnh cứu độ như chính Đức Giêsu. Sứ mệnh đó chỉ được thi hành với sức mạnh Thánh Linh. Bởi đấy, Người nói : “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha ; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” (Ga 20:23) Đây không phải là một sự tha thứ bình thường. Đó là một sự tha thứ trong quyền lực Thánh Linh. Không phải bất cứ sự tha thứ nào cũng do Thánh linh. Tha thứ đồng nghĩa với cứu độ. Chính Thánh Linh đã là sức mạnh khiến Đức Giêsu có thể hoàn thành công cuộc cứu độ đó. Nhất là sự tha thứ tội lỗi xúc phạm đến Thiên Chúa và tha nhân càng cần tới quyền lực Thánh Linh.

Hơn nữa, không nhờ cái chết và phục sinh của Con Chúa, không thể có ơn cứu độ. Nói khác, đây là cuộc tạo dựng lần thứ hai. Nếu Thánh linh đã đóng vai chính trong việc tạo dựng lần thứ nhất. Người cũng đóng vai cực kỳ quan trọng trong việc tạo dựng lần thứ hai. Bởi vậy, khi bắt đầu cuộc tạo thành mới, Đức Giêsu “thổi hơi vào các ông” (Ga 20:22) như Thiên Chúa đã từng thổi sinh khí vào Adam. Đức Giêsu làm chủ và tạo dựng một vũ trụ mới, trong đó mọi người sẽ lột xác thành tạo vật mới. Một nền văn minh tình yêu sẽ chan hòa mặt đất. Mọi người sẽ là anh em với nhau và cùng đều tôn xưng Đức Giêsu là Anh Cả vì cùng chung một Cha duy nhất là Thiên Chúa. Một nền văn minh sự sống sẽ xây dựng lại tất cả từ đầu trong sức mạnh Phục sinh. Bởi đó niềm vui sẽ chan hòa mặt đất.

Niềm vui đó đã đến với các môn đệ khi Đức Giêsu “cho các ông xem tay và cạnh sườn” (Ga 20:20) và khi “Người bảo ông Thomas: ‘đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy.’” (Ga 20:27) Niềm vui đã đến vì các ông đã thấy tất cả sự thật, một sự thật đã giải thoát các ông khỏi mọi sợ hãi vàlàm cho các ông xác tín vào những điều Thầy đã hứa. Bừng tỉnh trước sự thật đó, “ông Thomas thưa Người : ‘Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !’” (Ga 20:28) Muốn có được sự bình an sau khi đã qua những cơn sóng gió, các môn đệ cần phải gặp Đức Giêsu trong niềm vui Phục sinh. Niềm vui đó chính là dấu chỉ của hồng ân cứu độ.

Sự thật đã khuất phục Thomas cũng là sự thật sẽ giải thoát chúng ta. Sự thật đó xuất hiện qua những dấu lạ. Những dấu lạ đó chỉ dành cho một số ít chứng nhân Phục sinh. Không phải ai thấy dấu lạ đều có thể đọc được sự thật. Ngược lại cũng có thể thấy sự thật mà chẳng cần dấu lạ. Đó là một hồng ân dành cho những người Chúa đã tuyển chọn. Bởi đấy, Đức Giêsu mới nói : “Phúc thay những người không thấy mà tin !” (Ga 20:29) Không thấy, nhưng nghe có đủ làm cho chúng ta tin Chúa Phục sinh chăng ? Niềm tin không phải là kết quả của những đụng chạm, ngắm nhìn hay ăn uống với Chúa. Tất cả chỉ là những dấu chỉ mà thôi. Tin hoàn toàn là một nhân đức siêu nhiên, nghĩa là phải do ân sủng Thiên Chúa, chứ không do nỗ lực giác quan. Tất cả những lần Chúa hiện ra đều nhằm giúp “anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để nhờ tin mà được sự sống nhờ danh Người.” (Ga 20:31) Nói khác, sự hiện diện thể lý đó chỉ là một sự trợ lực, chứ không thể thay thế động lực chính tạo nên niềm tin vào Chúa Phục sinh. Động lực chính đó là Thánh Linh, tác giả tạo dựng cả thiên nhiên và siêu nhiên, cả vật chất lẫn tinh thần. Ngay cả thân xác Chúa, từ khi được tạo thành trong lòng Trinh Nữ Maria đến lúc phục sinh khỏi lòng đất, cũng đều do một tay Chúa Thánh linh tạo nên. Chính vì thế, niềm vui và bình an mới tràn ngập tâm hồn và con người các môn đệ. Nói khác, nơi nào có Thánh linh, nơi đó có bình an và vui mừng.

NIỀM VUI HÔM NAY.

Đúng hơn, bình an và niềm vui đó được chính Đức Giêsu bảo đảm. Giữa cơn thử thách trần gian, Người vẫn lên tiếng : “Đừng sợ ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời ; Ta giữ chìa khóa của Tử thần và Am phủ.” (Kh 1:17-18) Người là chính niềm vui và an bình của chúng ta. Người không bị khuất phục. Trái lại, Người nắm quyền kiểm soát cả thời gian lẫn không gian. Ai tin tưởng vào Người sẽ không bao giờ thất vọng. Ngày nay thất vọng đang lan tràn mặt đất. Hôm nay vẫn có người tin vào sức mạnh bạo lực trong việc giải quyết những tranh chấp giữa người và người. Bằng chứng Tuần Thánh vừa qua, cánh hữu bán-võ-trang tại Colombia đã vi phạm lệnh ngưng bắn, khiến cả trăm người chết, hầu hết là thường dân vô tội. Nhưng Đức Hông Y Rubiano tại Bogota nói : “Những tổ chức đó hoàn toàn sai lầm nếu họ tưởng rằng với võ lực họ có thể làm được một cái gì giá trị. Bất cứ phe nhóm nào dính líu vào cuộc tranh chấp này tưởng rằng hòa bình có thể thực hiện bằng vũ lực, họ hoàn toàn sai lầm.” (CWNews 18/4/2001) Chính Đức Giêsu, nạn nhân của bạo lực, đã phục sinh để minh chứng tình yêu mạnh hơn sự chết. Ngày nay vẫn có những tín hữu sẵn sàng hi sinh mạng sống để chứng minh Đức Giêsu Kitô đã chiến thắng tử thần. Ngay tại một nước Hồi giáo như Malesia, một nữ tín hữu đã mạnh dạn kiện chính phủ để được chuyển đạo từ Hồi giáo sang Kitô giáo trên thẻ căn cước, mặc dù biết trước những nguy hiểm đe dọa tính mạng (CWNews 18/4/2001)

 
Giacôbê Phạm Văn Phượng op

Niềm tin Phục sinh
(Ga 20, 19-31)

 Cuộc đời Chúa Giê-su đã kết thúc bằng cái chết vô cùng đau thương và nhục nhã. Nhưng Ngài có chết luôn không ? thân xác Ngài có nằm im bất động mãi trong mộ đá như mọi người không ? Không, tuy Ngài đã chết thật, nhưng Ngài đã sống lại. Đối với chúng ta hôm nay, việc Chúa Ki-tô phục sinh là một sự kiện khách quan lịch sử, nhưng cũng là một mầu nhiệm cao cả mà khoa lịch sử không tài nào kiểm chứng được như người ta kiềm chứng một cuộc chiến thắng hay một biến cố lịch sử nào khác, bởi vì việc Chúa sống lại không diễn ra theo định luật tự nhiên. Thực vậy, một con người có tên là Giê-su, đã sống như bao người khác, bị án tử hình, chết, an táng, rồi sống lại. Sống lại không như đời sống trước nữa, tuy vẫn là con người ấy, cũng xác cũng hồn, cũng kiểu ăn nói ấy, nhưng nay tất cả đã được biến đổi, nên như loài thiêng, và bước vào một đời sống khác hẳn đời sống con người trần thế này, đời sống ngoài những điều kiện của thời gian và không gian. Đây chính là một tín điều cao siêu của đạo Công giáo, tín điều này cũng mặc khải cho chúng ta biết về tình trạng sau khi tận thế của thân xác chúng ta, nghĩa là lúc đó thân xác chúng ta cũng sẽ trở nên giống thân xác của Chúa Ki-tô sau khi sống lại, nghĩa là trở nên siêu việt và linh thiêng như thế, tuy vẫn còn là thân xác của mình. 

Những điều trên đây, có những nét mà khoa lịch sử có thể ghi nhận được, như có một người tên là Giê-su, ở nước Do Thái, người đó sống thế nào, chết thế nào, an táng thế nào…và sau đó không còn trong lịch sử nữa. Tất cả những sử gia trung thực, hay nếu là đồng thời, thì mọi nhà báo săn tin đúng đắn, đều có thể ghi nhận được rõ ràng. Cảnh sát, công an, tòa án, nếu cần, cũng có thể điều tra tới nơi tới chốn. Nhưng cũng có những nét vượt qua phạm vi của một sử gia, của một cuộc điều tra của công an, cảnh sát, đó là một thế giới khác thế giới này, một nếp sống không lệ thuộc không gian, thời gian. Đây là một nhận thức về tôn giáo thuần túy, chỉ có niềm tin mới có thể chấp nhận được.

Cũng như lịch sử hay tòa án nào có thể nói gì về việc bà hiện ra ở Lộ Đức với Béc-na-đét là Đức Mẹ Ma-ri-a ? Hay về việc Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa ? Vì các tiêu chuẩn để nhận định những sự việc đó vượt phạm vi của khoa học thực nghiệm. Cũng vậy, sự phục sinh của Chúa Ki-tô là mầu nhiệm cao siêu mà con người không thể nào dùng những lý luận hay những bằng chứng khoa học để minh chứng và cưỡng bách người khác phải tin nhận. Tuy nhiên, khi xem xét hậu quả của niềm tin nơi mầu nhiệm đó, người ta có thể nhận ra mầu nhiệm ấy chân thật, vững chắc.

Hậu quả của niềm tin đó là Ki-tô giáo nói chung và Giáo hội Công giáo nói riêng. Nói rõ hơn, Ki-tô giáo chính là một bằng chứng lịch sử cho sự kiện phục sinh của Chúa Ki-tô. Quả thực, nhìn lại lịch sử Ki-tô giáo từ đầu cho tới ngày nay, người ta phải công nhận rằng : không thể cắt nghĩa được đám cháy vĩ đại Ki-tô giáo ngày nay, mà lại không cần có một mồi lửa tiên khởi, mồi lửa đó chính là sự phục sinh của Chúa Ki-tô, nghĩa là từ một người thợ mộc vô danh, sinh sống ở thôn quê, tại một thuộc địa xa xôi trong đế quốc Rô-ma cách đây hai ngàn năm, một ngày đẹp trời tháng 4 bị công an bắt giữ, đem hành quyết treo trên thập giá. Vậy mà hiện nay một phần lớn nhân loại đang quì gối thờ lạy con người ấy. Làm sao có thể giải thích hiện tượng này ? Phải có một nguyên cớ nào đó, biến cố có một không hai, đó là sự phục sinh của con người ấy. Như vậy, chính sự kiện Chúa Ki-tô phục sinh đã phát sinh ra Ki-tô giáo, và cho đến ngày nay mầu nhiệm phục sinh vẫn là nền tảng của Ki-tô giáo. Không có Chúa Ki-tô phục sinh không thể có Ki-tô giáo, hủy bỏ được Chúa Ki-tô phục sinh, đạo Ki-tô không còn.

Tất cả những điều trên cho chúng ta biết : Mặc dầu Kinh Thánh đã cống hiến cho chúng ta một số bằng chứng về sự phục sinh của Chúa Ki-tô, nhưng đối với mầu nhiệm cao cả nòng cốt này vẫn đòi hỏi chúng ta phải có một niềm tin, hay đúng hơn, một đức tin. Bài Tin Mừng hôm nay, qua câu nói với thánh Tô-ma, Chúa Giê-su cũng bảo cho chúng ta biết : “Phúc thay những người không thấy mà tin”. Nói như vậy không có nghĩa là ca tụng một đức tin mù quáng, dị đoan, vô lý, nhưng muốn nói rằng : từ  thánh Tô-ma về sau, việc sờ mó vào thân xác Chúa như Tô-ma sẽ không bao giờ được nữa, từ đây, tin Chúa Ki-tô phục sinh là tin qua thế giá của Kinh Thánh, của Chúa Thánh Thần, của Giáo hội, của các bậc tiền nhân. Cũng như chúng ta biết được một sự kiện lịch sử hay một nhân vật lịch sử nào đó là do sách vở ghi chép lại hay do người khác kể lại, thì việc Chúa phục sinh được Sách Thánh ghi lại và nhờ vào thế giá của bao nhiêu thánh nhân, của chính Giáo hội hiện hữu. Ai tin qua đó là có phúc.

Hôm nay chúng ta tuyên xưng niềm tin vào Chúa Ki-tô. Ngài đã nhận cái chết, để rồi từ cái chết Ngài đã sống lại. Ngài đã chiến thắng cả tội lỗi lẫn sự chết và đưa chúng ta vào cuộc sống đời đời trong Thiên Chúa. Xin Chúa cho chúng ta luôn xác tín vào mọi mầu nhiệm trong đạo và sống niềm tin ấy bằng chính đời sống tốt đẹp của chúng ta.

 
Giuse Nguyễn Hữu Phúc op

PHÚC CHO AI KHÔNG THẤY MÀ TIN
(Ga 20, 19-31)

“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, đó là một cuộc thương lượng, ngã giá cho niềm tin và tình yêu. Nhưng lạy Chúa, đâu phải một mình Thomas thôi, mà thấp thoáng có bóng dáng và khuôn mặt của chúng con đang tham gia trong cuộc ngã giá này.

Đó là khi chúng con hủ hoá tình yêu bằng những cử chỉ tính toán hơn thiệt thật tỉ mỉ và chi li, hoặc trung thành kiểm tra lại sổ kế toán cuộc đời của anh chị em mình. Biết bao phen chúng con đo lường chuẩn mực đạo đức bằng cách đối chiếu với mọi qui tắc đã được đặt ra, hay cho mình là chuẩn mực để luận tội và kết án người đồng loại.

Lạy Chúa, nhiều khi chúng con tìm mua những phần thưởng từ trời cao bằng những giá cả đàng hoàng, như thể niềm tin và tình yêu là thứ hàng hoá để trao đổi chứ không phải để trao dâng một cách vô vị lợi. Những lúc gian truân hay khốn cùng chúng con lại ra giá và thương lượng với Chúa rằng: “Xin Chúa cất chén đắng này khỏi con, rồi Chúa lấy lại  cái gì khác nơi con cũng được, tuỳ Ngài”. Lạy Chúa, chúng con đã thoả thuận với Chúa như thế đấy! Vậy mà Ngài vẫn không chấp tội, nhưng lại yêu thương và yêu thương đến nỗi hiến thân mình làm lương thực để dưỡng nuôi và thêm sức cho tâm hồn chúng con đã vướng bụi trần.

Lạy Chúa Giêsu Thánh thể,

Chúng con cũng học cách yêu thương như Ngài. Và  chúng con ý thức rằng yêu thương không phải chỉ trao cho nhau những nụ cười xã giao, cũng không phải nắm lấy tay nhau để chào hỏi những câu dư thừa, hay chúc bình an cho nhau mà trong lòng vẫn còn tức tối. Mà yêu thương nhau là phải tha thứ cho nhau.

Nhưng lạy Chúa, mỗi lần tha thứ cho ai là chúng con vẫn còn cảm thấy đau đớn vì phải quên đi cái tôi quá lớn của mình. Ấy vậy, những lúc thất bại hay lỗi lầm, chúng con cần lắm một cái siết tay nồng ấm, một cái nhìn với ánh mắt âu yếm, cảm thông, hay một lời nói thân thương của người đồng loại như xưa kia Chúa đã nhìn và nói với Thomas : “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.”

Lạy Chúa Giêsu Thánh thể, các môn đệ vui mừng, vì được thấy Chúa chỗi dậy từ cõi chết và Thomas đã thấy Ngài tận mắt, đụng đến Ngài tận tay nên đã tin. Còn chúng con, chúng con không thấy Ngài Phục sinh mà vẫn tin, xem ra thật là diễm phúc cho chúng con. Nhưng biết bao lần chúng con có cảm tưởng rằng diễm phúc đó chưa được vẹn toàn. Bởi chưng, giữa chợ đời bôn ba, náo nhiệt, thì trong trái tim lặng lẽ của chúng con vẫn còn hoài nghi, ngờ vực và tự hỏi: với cái chết nhục hình và sự Phục Sinh vinh quang của Ngài thực sự đã hoàn tất chương trình Cứu Độ hay chưa, mà sao chúng con mãi còn khắc khoải, lo âu cho thân phận làm người?!

Chúng con đã hồi tâm, tĩnh lặng và nguyện cầu qua những ngày ăn năn, sám hối để đón mừng ngày đại lễ trong sự Phục Sinh vinh hiển của Ngài. Nhưng rồi lại tiếp tục ẩn dấu những khắc khoải, lo âu trong những đêm dài hoang vắng của đời thường chúng con.

Chúng con khắc khoải, lo âu cho chính mình và cho bao kẻ túng thiếu, cơ hàn, những người lang thang đầu đường xó chợ, những trẻ thơ bơ vơ không nơi nương tựa, hay những giọt nước mắt đắng cay và ngẹn ngào của bao người giàu sang, lắm bạc vàng mà con cái lại hư hỏng, gia đình ly tán.

Lạy Chúa, họ là anh chị em chúng con, người đồng loại với chúng con. Nhiều khi chúng con cần đến sự  Phục Sinh  của Ngài thể hiện thật khẩn cấp trên cuộc đời chúng con, nhưng sao Ngài vẫn do dự, do dự đến lặng thinh!

Lạy Chúa, chúng con tưởng rằng mình là kẻ tôi trung của Chúa, nên sẽ được ân thưởng như ý nguyện, bất cứ lúc nào chúng con cần đến Chúa và kêu xin Chúa. Nhưng theo dòng thời gian, chúng con nhận ra rằng mình chỉ là kẻ bất trung, không đủ kiên nhẫn khi theo Chúa dông duỗi trên dặm đường dài chốn dương gian.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Mấy khi chúng con nhận ra rằng Ngài lặng thinh và do dự cũng là đúng lý. Ngài lặng thinh để chúng con thêm kiên nhẫn và vững tin. Ngài do dự để trái tim chúng con khẽ đập nhẹ nhàng và ý thức hơn từng nhịp đập yêu thương của mình trên nẻo đường đời lắm chông gai, nhiều lồi lõm. Ngài gởi đến những trái ngang và cay đắng cuộc đời để trái tim chúng con không ngừng đập trên những lối thẳng tắp đầy thơ mộng.

Lạy Chúa, chúng con biết rằng Ngài cũng chẳng vui thích gì trước những khổ đau của con người, nhưng Chúa luôn sẵn sàng trong mọi khoảnh khắc của đời chúng con, nếu chúng con biết phó thác và cậy trông vào Chúa.

 Và giờ đây, lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng con muốn dâng lên Chúa những nhọc nhằn, vất vả của người cha, bao lo âu tất tả của người mẹ, nỗi buồn man mác của những em bé thơ ngây vô tội bị ngược đãi, nỗi nhục hèn của kiếp thân nô lệ, những giọt nước mắt câm nín của những ai một đời làm thuê. Chúng con dâng lên Chúa những tuổi đời chưa kịp lớn mà đã vội vất vả, long đong hay những số phận đã ngã bóng về chiều mà vẫn còn lạc lõng, chơi vơi giữa cuộc đời. Xin Chúa thương ban men rượu tình yêu hiến tế của Ngài, ban ơn bình an cho họ và cho cả chúng con nữa như xưa Chúa đã ban ơn bình an cho các môn đệ sau khi Ngài Phục Sinh.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, thuở xưa, sau khi Ngài chịu chết, các môn đệ phải thường trực đóng kín các cánh cửa trong nhà vì sợ người Do Thái. Còn ngày nay, Chúa đã sống lại rồi, mà chúng con vẫn thường xuyên khép kín cánh cửa cõi lòng cũng vì sợ hãi. Chúng con không sợ hãi một đối tượng nào, nhưng lại nơm nớp lo sợ đối diện với con người thật của chính mình. Chúng con sợ thiệt thòi, sợ thất bại, sợ đau khổ, sợ yếu đuối, sợ nhục nhã, sợ bị hiểu lầm, sợ cô đơn, sợ bệnh tật và nhất là sợ cái chết bất ngờ đến khi tuổi đời đang còn dang dở.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Chúa đã sống lại thật rồi, nhưng từ trong sâu thẳm cõi lòng, chúng con mãi còn sợ hãi: sợ Chúa bỏ rơi, sợ người đời xa lánh. Nhiều khi chúng con trấn tĩnh mình khỏi sợ hãi bằng một kiểu bình an do ý chí tự chế, một trạng thái bình an nguỵ tạo do kiêu căng hay do tự mãn mà có được, rồi vênh váo với đời và với người. Nhưng lạy Chúa Giêsu, chỉ có nguồn ơn bình an Phục Sinh của Ngài mới là bình an đích thực mà chúng con ngày đêm khiêm cung nài xin Chúa thương ban.

Nhờ đó, trong ngờ vực của niềm tin, xin Chúa cho đôi mắt chúng con rạng ngời ánh sáng, ánh sáng Phục Sinh của Ngài. Trong tăm tối tuyệt vọng của cuộc đời, xin Ngài cho trái tim chúng con một lần loé sáng, ánh sáng hy vọng, hy vọng được hưởng ơn Cứu Độ của Ngài. Amen.                                                                 


G. Nguyễn Cao Luật op

Đức Tin Là Một Hồng Ân

+ Ngôi mộ trống

Thoạt đầu là chứng nhận của giác quan: Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, nhiều người phụ nữ, trong đó có bà Maria Mácđala, đi ra mồ Đức Giêsu để khóc thương Người. Các bà thấy hòn đá lấp cửa mồ đã được lăn qua một bên, thế là các bà vội vã về báo cho các môn đệ biết rằng xác của Thầy đã bị người ta lấy đi rồi.

Ngôi mộ trống tự nó không nói lên điều gì, không chứng minh được gì, cần phải có ánh sáng của Chúa Kitô phục sinh soi chiếu vào, sự kiện ấy mới mang ý nghĩa trọn vẹn. Nguyên nó chỉ có nghĩa là ngôi mộ đã bị xâm phạm, xác người chôn trong mộ đã bị lấy mang đi.

Sự kiện mồ trống không bao lâu sau đã được các tín hữu hiểu ra ý nghĩa nhờ Kinh Thánh Cựu Ước. Tức là sự kiện ấy hợp với chương trình của Thiên Chúa liên quan đến Đức Giêsu. Thánh vịnh 16 giúp các tín hữu hiểu rằng thân xác của Đức Giêsu không phải chịu cảnh hư nát trong mồ (x. Cv 2,2531). Tin Mng thánh Gioan hôm nay cũng cho thấy rằng, cần phải dựa vào Kinh Thánh Cựu Ước để thấy để hiểu sự kiện Đức Giêsu phục sinh : thân xác Đức Giêsu không còn trong mồ nữa, đó là điều hợp với kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Kế hoạch này đã được tỏ bày trong Kinh Thánh : Đức Giêsu đã được Thiên Chúa cho phục sinh từ cõi chết.

Cả hai ông Phêrô và Gioan đều tới, cùng chứng kiến ngôi mộ trống và thấy khăn liệm Đức Giêsu đã được gấp lại hẳn hoi và đặt riêng một bên. Sự kiện này cho thấy rằng xác không thể bị đánh cắp.

Và tất cả, ngôi mộ trống và khăn liệm vẫn còn đó, cho thấy điều gì ? Đức Giêsu, Đấng đã được mai táng ở đây, nơi người chết không còn ở đây, nơi người chết nữa. Thế thôi. Vậy Người đang ở đâu ?

+ Người đã phục sinh

“Ông đã thấy và ông đã tin”. Giữa sự kiện tức là những gì giác quan cảm thấy và lòng tin có một khoảng cách, một sự nhảy vọt. Mồ trống, khăn liệm vẫn còn cho thấy Đức Giêsu không còn trong mồ nữa. Nhưng để tin rằng Người đã phục sinh, cần phải có ánh sáng của Thiên Chúa soi chiếu.

Hai môn đệ làng Emmau cũng thế. Cứ trò chuyện với người khách lạ mà mắt vẫn như có cái gì che phủ khiến không thể nhận ra người khách lạ kia chính là Thầy mình, là Đức Giêsu đã phục sinh đang đồng hành với mình trên lộ trình vật chất lẫn lộ trình sầu buồn trong tâm hồn. Phải đến lúc mắt các ông như được mở ra, các ông mới nhận ra Người và mới hồi tưởng lại những gì mình đã cảm thấy khi còn trò chuyện với Người dọc đường. Vẫn cần có một khoảng cách, một bước nhảy, một sự mở mắt giùm để có thể nhận ra Đức Giêsu phục sinh.

Hay như ông Tôma. Nằng nặc đòi chứng nghiệm thân thể thương tích của Thầy. Đến khi Thầy bảo xỏ ngón tay vào lỗ đinh trên tay Thầy, xỏ bàn tay vào thương tích ở cạnh sườn Thầy thì ông lại tuyên xưng Thầy bằng tước hiệu dành cho Đấng phục sinh : “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con !” Lại cần có một sự nâng đỡ để có thể nhảy từ lãnh vực chứng nghiệm bằng giác quan sang lãnh vực nhận biết bằng cảm quan thiêng liêng, bằng đức tin.

Và như Bà Maria Mácđala. Rõ ràng Đức Giêsu phục sinh đang đứng đó. Nhưng bà lại cứ ngỡ rằng đó là ông làm vườn. Bà chân thành hỏi ông để ông chỉ cho biết chỗ ông đã giấu xác Thầy, người Thầy bà quí mến. Phải đến khi Đức Giêsu gọi tên bà, thì ông lúc nãy bà cho là người làm vườn không còn là người làm vườn nữa mà đúng là Thầy bà đang đi tìm. Tin Mng nói rằng Đức Giêsu phục sinh gọi tên bà. Nhưng đó không phải là nhận ra một giọng nói quen thuộc, mà là một kiểu cách cho thấy có một ánh sáng từ Đấng Phục sinh soi chiếu cho con người có thể vượt lên trên lãnh vực giác quan tự nhiên để sang lãnh vực đức tin. Tin Đức Giêsu đã phục sinh.

+ Niềm tin căn bản

“Chúa đã phục sinh”. Đó là lời rao giảng đầu tiên của thánh Phêrô và các Tông Đồ. Các ông chứng minh, dựa vào Kinh Thánh, cho các thính giả biết rằng Đức Giêsu, con người đã bị kết án đóng đinh đã chết, đã được mai táng, nhưng đã phục sinh và được Thiên Chúa tôn làm Chúa. Đó chính là điều căn bản nhất. Trước khi có những chỉ dẫn phải sống như thế nào, phải cư xử làm sao cho xứng đáng là môn đệ của Đức Giêsu, điều căn bản, điều phải có trước hết, đó là lòng tin Đức Giêsu đã chỗi dậy từ trong cõi chết. Chính đây là điểm phát xuất những đòi buộc luân lý. Và như thế phải sống thế nào, cư xử làm sao, chỉ là lời đáp lại một ân huệ quí giá mình đã được, hơn là một cái gì ràng buộc mình.

Niềm tin này căn bản đến độ nếu không có thì sẽ không có gì hết, và những người tin Đức Giêsu chỉ sống ở đời này mà thôi sẽ là những kẻ khốn nạn nhất trong thiên hạ. Thánh Phaolô đã quả quyết như thế, ấy là chưa nói đến chuyện không có niềm tin này, mọi chứng tá đều là hư không, nhất là lại đi ngược với Thiên Chúa nữa.

Cùng với Thánh Thần, Hồng Ân Đức Giêsu ban tặng, người tín hữu vẫn cần nỗ lực không ngừng để vượt qua những giới hạn của giác quan đạt tới niềm tin sống động và hoạt động. Chính niềm tin sống động này sẽ biểu lộ một cách thật tự nhiên ra cuộc sống theo như những lời mời gọi của Tin Mừng. Khoa học cứ tiến, nhưng vẫn có một khoảng cách giữa những thành tựu của khoa học và đức tin. Chính Thiên Chúa tạo đà nhảy để vượt qua khoảng cách này. Nói cách khác, đức tin là một hồng ân Thiên Chúa ban tặng. Như thế, tâm hồn chân thành tìm kiếm chính là thái độ biết xin, biết sẵn sàng để đón nhận hồng ân quý báu đó.


Hà Cớ Chi

Bước Đột Phá
Ga 20:19-31

Ngày nay con người sợ hãi đủ thứ : bệnh tật, tai nạn, khủng bố, bạo động dưới mọi hình thức, nghèo khó, chiến tranh, v.v. Ác thần đã khai thác triệt để nỗi sợ hãi đó để khuynh loát nhân loại. Do đó, nhiều công cuộc dở dang hay thất bại hoàn toàn.

Chúa Giêsu đã chìm ngập trong cơn sợ hãi, khi sắp dấn thân vào công cuộc cứu độ. Nhưng Người đã chiến thắng nỗi lo sợ nơi chính lòng mình. Nhờ thế, Người đã khẳng khái đối đầu với những quyền lực đạo đời thời đó. Khi Phục sinh, Chúa luôn trấn an các môn đệ : “Ðừng Sợ !” Trong toàn bộ Kinh Thánh, câu này được lặp lại 366 lần dưới nhiều hình thức, đủ cho ta nhắc lại mỗi ngày trong năm.

Giữa lúc các môn đệ hoảng loạn vì sợ người Do thái, Chúa Giêsu xuất hiện với nụ cười trên môi : “Bình an cho anh em !” (Ga 20:19) Tất cả đều vui mừng, không phải vì những lực lượng thù nghịch đã tiêu tan, nhưng vì Thày Chí Thánh Phục sinh. Chính sự hiện diện của Thày là một bảo đảm vững chắc cho tinh thần và đời sống của các ông. Chắc chắn các ông có thể vượt qua sự sợ hãi và sống bình an, vì đã được quyền lực mạnh nhất che chở : “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.” (Ga 20:22) Ðó là bảo đảm vững chắc nhất cho bước đường truyền giáo, dù khó khăn tới đâu. Không những thế, chính họ cũng đem lại sự bình an và giải thoát nhiều người khỏi xiềng xích tội lỗi.

Tất cả đều phải bắt đầu từ niềm tin vào Ðức Giêsu Phục Sinh. Nếu không, tình trạng hỗn loạn vẫn còn nguyên. Ông Thomas đòi một niềm tin bắt nguồn từ kinh nghiệm vật chất. Trong khi đó đức tin nằm trong lãnh vực siêu nhiên hoàn toàn. Từ kinh nghiệm giác quan đến niềm tin siêu nhiên có một bước nhảy vọt rất lớn. Chính Thánh Linh đã giúp thánh nhân nhảy từ thế giới này sang bờ bên kia. Dĩ nhiên, không thể dùng những phương tiện giác quan để khám phá mầu nhiệm Thiên Chúa. Dù thế, trong điều kiện sống của con người, Thiên Chúa cũng muốn dẫn con người tới cõi linh thiêng qua những lần mò của giác quan.

Nếu ông Thomas bắt đầu từ cảm nghiệm giác quan đến niềm tin Phục Sinh, chúng ta cũng cần thấy chứng từ mới có thể đón nhận được niềm tin ấy. Cả kinh nghiệm và chứng từ cũng dừng lại ở một giới hạn. Dù được thấy Chúa hay không, ai cũng phải nhờ đến quyền năng Chúa Thánh Linh. Ðức tin quả là một hồng ân vô cùng lớn lao và là một kỳ công của Người. Ðức tin của ông Thomas cũng là đức tin của chúng ta. Bởi đó, dù không diện kiến trực tiếp với Chúa, Kitô hữu cũng cần đích thân gặp gỡ Người. Chính Thánh Linh sẽ thực hiện cuộc gặp gỡ lạ lùng này trong lời cầu nguyện. Người sẽ dùng những lời khôn tả và sức mạnh huyền nhiệm để ta tiếp cận với Chúa Giêsu, nguồn bình an của chúng ta.

Nếu không có đức tin vững chắc, chúng ta sẽ bị kìm kẹp trong tay thần chết. Quả vậy, “nhờ tin mà được sự sống nhờ danh Người.” (Ga 20:31) Có tin, các môn đệ mới đi vào cuộc hiệp thông với Chúa. Có tin, họ mới có thể thiết lập mối tương quan thâm sâu với Ðấng Hằng Sống. Chính đức tin đã thốt lên : “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !” (Ga 20:28) Ðó là xác tín căn bản và trung tâm của niềm tin Kitô giáo. Chính nhờ niềm tin này, từ nay các môn đệ có thể đi khắp nơi đem sức mạnh đầy lòng thương xót của Chúa mà tha thứ cho tội nhân và giải thoát nhân loại khỏi mọi cơ chế bất công.

Không gặp Chúa Kitô, các môn đệ phải trốn chui trốn nhủi như những con gián ngày hay như con cáy thập thò miệng lỗ. Họ bị tê liệt hoàn toàn vì ký ức vẫn chưa phai những hình ảnh kinh hoàng về cái chết của vị lãnh đạo khả ái. Nhưng chính sự hiện diện và lời Thày đã đem lại hậu quả đầy kinh ngạc. Chỉ cần một lời chào “Bình An” của Chúa, họ lấy lại được quyền kiểm soát thế gian. Quả thật, Người có đó để trao họ một tặng phẩm tuyệt vời là lòng thành tín sâu thẳm và bất biến. Tất cả đều tốt đẹp, dù cho những bề ngoài có vẻ thê lương.

Tất cả đều tốt đẹp vì Chúa Giêsu đã ban cho họ Thánh Thần. Thánh Linh có thể đi vào tới miền sâu thẳm nhất của con người và làm Chúa Giêsu hiện diện đích thực với họ hơn cả khi gặp Người lúc sinh thời. Chúa cũng ban cho chúng ta cùng một Thánh Linh. Thánh Linh có thể làm cho Chúa hiện diện kỳ diệu nơi chúng ta. Vì chính Thánh Linh làm cho chúng ta tin Thiên Chúa yêu thương ta đến nỗi chẳng có gì phải sợ. Chỉ vì không có mặt với các tông đồ lúc Chúa ban Thánh Linh, nên ông Thomas mới không thể tin chứng từ Phục sinh do các môn đệ khác chia sẻ với ông. Nhưng khi gặp được Chúa rồi, mọi sự đều thay đổi. Chúa đã trở thành trung tâm đời sống của ông. Chứng từ của người khác bao giờ cũng quan trọng. Nhưng không gì có thể thay thế việc đích thân gặp gỡ Chúa.

Không đích thân gặp gỡ Chúa, không thể có bình an. Chính Thánh Linh sẽ giàn xếp cho cuộc gặp gỡ này. Người là đạo diễn tài tình đem Chúa Kitô và các môn đệ giáp mặt nhau, ngoài sự tưởng tượng của họ. Sau khi Chúa chúc bình an, các môn đệ rất vui mừng. Nhưng có phải các môn đệ yên tâm vui hưởng niềm bình an trong phòng kín, vì các lực lượng thù địch đã tan biến ? Nếu các kẻ thù còn đó, các ngài có im lặng cũng vì khôn ngoan thôi. Nếu không, sẽ mất mạng như chơi ! Liều lĩnh không phải là can đảm !

Nhưng không ! Ngay sau khi chúc bình an, Chúa nói : “Như Chúa Cha đã sai Thày, thì Thày cũng sai anh em.” (Ga 20:22) Sứ mệnh các ngài cũng giống hệt như Thày mình. Sứ mệnh Thày nổi cộm với hình ảnh “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy.” (Lc 9:22) Như thế là các ông không thể “ăn no ngủ kỹ” ! Nếu chỉ lo yên thân ấm cật, làm sao có thể thi hành sứ mệnh cứu độ ?

Sứ mệnh chính của Ðức Giêsu là loan báo “Nước Trời là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.” (Rm 14:17) Chúa đã tranh đấu cho tới chết để công chính hóa nhân loại. Sự công chính làm cho con người trở thành con Chúa và trả lại quyền làm người cho con người. Chỉ có sự công chính mới đem lại cho con người bình an và hạnh phúc. Nhưng sự công chính ấy đòi Thày phải trả một giá rất mắc ! Chẳng lẽ môn đệ của Thày lại không phải trả giá nào ?!

Nhìn vào xã hội Việt nam hôm nay, các môn đệ có phải trả giá nào cho Nước Trời mau đến không ? Liệu sự công chính có thể tồn tại trong một xã hội đầy bất công như Việt nam hiện nay không ? Cả một guồng máy bất công đang đè bẹp con người. Bao nhiêu tự do, nhân quyền, công bình tiêu tan. Giữa tình hình ấy, im lặng bao giờ cũng dễ hơn lên tiếng. Các mục tử đã chọn giải pháp dễ dàng nhất. Chẳng lẽ ngồi yên nhìn các nạn nhân quằn quại dưới chế độ tàn bạo như vậy mãi sao ?! Chẳng lẽ các ngài có thể phớt lờ trước tiếng nói Chúa Thánh Thần vang lên từ cộng đồng dân Chúa ư ?

Ðã đến lúc cộng đồng hải ngoại nên xét lại những đóng góp của mình cho Giáo Hội Việt nam ! Khi các giám mục Việt nam sang Mỹ kêu chúng ta giúp đỡ những dự án xây nhà thờ, những công cuộc bác ái v.v., chúng ta mau chóng đáp ứng lời kêu gọi của các ngài. Nhưng thử hỏi trước bao nhiêu góp ý về phụng vụ, nhất là về cuốn “Nghi Thức Thánh Lễ 2005,” bao nhiêu tiếng kêu thống thiết về nhân quyền tại Việt nam, các ngài có đáp ứng không ? Các ngài coi chúng ta là cái gì ?

Xưa nay, chúng ta vẫn cố gắng làm việc bác ái để thể hiện niềm tin. Chúng ta cứ tưởng chỉ có bác ái là cách duy nhất thực hiện lời khuyên của thánh Giacôbê : “Ðức tin không có hành động thì quả là đức tin chết.” (Gc 2:17) Thực tế, nếu không đem lại công lý, đức ái sẽ giết chết con người ! Khi sang bên Mỹ quyên tiền làm việc bác ái, các giám mục Việt nam tưởng mình chu toàn sứ mệnh Chúa. Các ngài đã làm việc bác ái, dựa trên sự hy sinh của người khác, chứ không phải của mình. Ðồng tiền có thể xoa dịu một số người trong chốc lát, nhưng lại di hại cho cả dân tộc bao đời, nếu không nhắm tới công lý. Làm bác ái bao giờ cũng dễ hơn tranh đấu cho công bình. Tuy là nhân đức cao cả, nhưng thực tế bác ái không ảnh hưởng rộng lớn như công lý. Gom tiền của người khác để về bố thí cho dân nghèo sao bằng lấy mạng sống tranh đấu cho quyền làm người ?! Công lý mới chạm tới mạng sống ! Chỉ vì công lý Chúa đã mất mạng. Chỉ có công lý mới đem Nước Chúa đến với dân tộc mà thôi !

Thiết tưởng từ nay, chúng ta nên chuyển những đóng góp của mình sang một hướng mới. Thay vì đóng góp cho những công cuộc bác ái, chúng ta hãy góp tiền cho những công cuộc tranh đấu cho công lý và nhân quyền cho Việt nam. Bất cứ công cuộc bác ái nào cũng phải nhắm mục đích đưa lại công lý cho Việt nam. Sự đóng góp phải có điều kiện. Bác ái phải đi đôi với công lý. Công lý là trả lại cho nhân quyền làm người của họ. Công lý chắc chắn có giá trị gấp ngàn lần cơm áo. Công lý phải là nền tảng và động lực cho việc bác ái. Thiếu công lý, bác ái không thể đi xa và dễ bị chế độ lạm dụng.

Cả một dân tộc đang khiếp sợ trước guồng máy chuyên chính. Nếu giám mục đại diện Chúa Kitô, liệu sự hiện diện của các ngài có đem lại bình an như Chúa không ? Chẳng lẽ sự hiện diện của các ngài không có ý nghĩa và giá trị gì ? Hiện tại các ngài vẫn im lặng, sự im lặng đang gây ngộ nhận cho cộng đồng dân Chúa và làm cớ cho chính quyền đàn áp dữ dội hơn. Nếu thực sự Thánh Linh đang hoạt động trong Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam, tại sao các ngài vẫn tự nhốt mình ở nơi “các cửa đều đóng kín” (Ga 20:19) ? Phải chăng “vì sợ” (Ga 20:19) quân dữ đằng đằng sát khí giữa rừng “gươm giáo gậy gộc,” nên các ngài chẳng dám hé môi ?!

Có người bảo các ngài đang chờ Vatican bật đèn xanh. Thực tế, giám mục là đại diện của Chúa Kitô, chứ không phải của Ðức Giáo Hoàng. Nếu là đại diện của Ðức Giáo Hoàng, các ngài mới cần chờ lệnh Vatican. Mỗi giám mục có toàn quyền trong giáo phận mình như Ðức Giáo Hoàng trong toàn thể Giáo hội, miễn là vẫn hiệp thông với Ðức Giáo Hoàng và Giáo Hội toàn cầu. Vatican chẳng hề bật đèn xanh cho giám mục hay linh mục nào tranh đấu cho nhân quyền bao giờ. Khi tranh đấu cho tự do dân tộc Balan, Ðức Hồng Y Karol Woytyla (tức ÐGH Gioan Phaolô II) có đợi Vatican bật đèn xanh không ? Cuộc dấn thân chính trị đó có vi phạm Giáo luật 287, khoản 2 không ? Sao không thấy ai bàn tới ?

Ðây là cơ hội ngàn vàng cho các giám mục Việt nam ! Nếu can đảm lên tiếng đòi nhân quyền cho dân tôc, các ngài sẽ làm một việc bác ái có giá trị gấp ngàn lần đi quyên tiền cho người nghèo. Ảnh hưởng rất lớn đối với Dân tộc và Giáo hội. Các ngài sẽ được dân Chúa và mọi người tin tưởng và mến phục. Cả thế giới sẽ ủng hộ các ngài. Cả dân tộc sẽ mang ơn các ngài. Nước Chúa sẽ mau đến trên quê hương !

Xin Chúa Thánh Linh ngự đến và xin Ðức Kitô hiện diện thực sự trong Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam để các ngài luôn sống bình an và xác tín vào sứ mệnh Chúa Giêsu : “ Như Chúa Cha đã sai Thày, thì Thày cũng sai anh em.” (Ga 20:22)


Lm. Jude Siciliano, OP
(
FX Trọng Yên,OP chuyển ngữ)

Vượt gian lao xây dựng Giáo hội vinh thắng
Ga: 20: 19-31

Phúc âm viết: Tôma, còn gọi là Didimô nghĩa là “sinh đôi”, đã trông thấy Chúa Kitô sống lại và đã tin. Chúng ta không thấy Chúa Kitô nhưng chúng ta tin. Những ai trong chúng ta còn nghi ngờ? Ai còn có cảm tưởng nghi ngờ là chúng ta đã bị đánh lừa bởi những người tin dị đoan thời xa xưa? Đó có phải là một chuyện hão huyền không? Có phải điều chúng ta hy vọng vào đời sống vĩnh hằng là chuyện lọc lừa hay không? Có phải đời sống chúng ta cố gắng phục vụ kẻ khác, nhất là những người bé mọn, vì danh Chúa Giêsu, là một việc làm rỗi hơi, vô tích sự chăng?

Đôi khi nhiều người trong chúng ta có thể nghĩ mình có cùng họ với Tôma, kẻ nghi kỵ, chúng ta là người sinh đôi với Tôma. Chúng ta thường nói “khi nào tôi trông thấy tôi mới tin”. Chúa Giêsu có thể xem thái độ này là lẽ đương nhiên khi Ngài giảng về các mối phúc thật: “Phúc cho ai không thấy mà tin” Đó là chúng ta. Ngay cả trong bài phúc âm đọc hôm nay kể lại câu chuyện Chúa Giêsu hiện ra cho Tôma, câu chuyện giữa hai người, và Chúa Giêsu bảo Tôma sờ vào Chúa Giêsu, cũng không “chứng minh” sự phục sinh được. Phúc âm không phải là sách ghi nhận lịch sử. Trái lại, phúc âm giúp chứng minh đức tin của những tín hữu đầu tiên. Chúng ta không trông thấy, và chúng ta tin… trái lại, chúng ta tin và rồi chúng ta trông thấy Chúa Kitô Phục Sinh.

Nếu chúng ta muốn tìm một chứng minh nào về sự phục sinh, chúng ta có thể nghĩ đến sự thay đổi lạ lùng trong cộng đoàn của những môn đệ Chúa Giêsu. Họ là một nhóm người không có tổ chức, họ sợ sệt chạy tản mác khi Chúa Giêsu bị bắt, bị đánh đập, chịu khổ hình và bị giết chết. Họ là một nhóm trước kia gắn bó với nhau nhờ sự hiện diện của Chúa Giêsu, lúc Chúa Giêsu bị bắt, họ tan rả, họ lo sợ nên nhóm họp với nhau trong phòng đóng kín cửa. 

Rồi Chúa Giêsu hiện ra trước mặt họ, và nhóm người với tinh thần xác xơ đó quay lại nhìn về một chủ điểm, mạnh mẽ và họ tin vững rằng Chúa Giêsu đã sống lại ở giữa nhóm họ. Bài trích Công vụ sứ đồ hôm nay là bằng chứng rõ ràng về sự thay đổi đó. Phêrô, người đã chối Chúa Giêsu ba lần, bây giờ ra nói chuyện với đám đông dân chúng, trên đường phố ở Gierusalem và chữa bệnh cho mọi người. Hãy tưởng tượng điều ông ta đã trông thấy. Có phải đấy là Phêrô mà chúng ta đã gặp trước kia trong phúc âm? Phải và không phải. Kinh nghiệm về Chúa Kitô phục sinh và Chúa Thánh Linh trong việc Ngài thổi trên các môn đệ trong phòng kín, đã gây một sự thay đổi lạ lùng. Chúng ta có thể nói Phêrô và các môn đệ khác là những người đã được sinh ra lần nữa. Và bây giờ không chuyện gì có thể níu kéo họ bỏ được việc rao giảng danh Chúa Kitô đến mọi nơi. Cho dù có bị chết cũng không làm họ sờn lòng.

Suốt mùa Phục Sinh chúng ta sẽ nghe những bài đọc trích từ sách Khải Huyền. Có thể nói là chúng ta ít khi đọc sách Khải Huyền hằng ngày. Có thể nhờ vậy mà bài đọc Chúa Nhật hôm nay giúp chúng ta chú trọng hơn về sách Khải Huyền. Chúng ta, các linh mục có bao giờ dám giảng một lần về sách Khải Huyền qua đoạn sách ngày hôm nay không? Sách Khải Huyền sẽ được diễn tả qua câu cuối của đoạn sách đọc ngày hôm nay. “Vậy ngươi hãy viết những gì đã thấy, những gì đang diễn ra và những gì sẽ xảy ra sau này”. Trong đó, tác giả sẽ viết về niềm hy vọng cho giáo hội đang chịu đau khổ và cho giáo hội đó một viễn cãnh về “những gì sẽ xảy ra sau này”. Nói cách khác, là sự dữ sẽ thất bại, và Thiên Chúa sẽ toàn thắng.

Giáo hội tiên khởi sống ơn gọi của mình trong hoàn cảnh các Kitô Hữu đang gặp khó khăn với các giới thống trị và các văn hóa thời bấy giờ. Chúng ta cũng vậy, nếu chúng ta chống đối lại những ý nghĩ và các hoạt động thế giới hiện nay. Nếu chúng ta là một giáo hội đi thuận theo dòng đời, thì chúng ta ít gặp những điều chung với giáo hội thời thánh Gioan nói đến ở đảo Patmos. Thánh Gioan nói, ông ta chia sẻ với giáo hội đó những “nỗi gian truân, cùng hưởng vương quốc và cũng kiên trì chịu đựng với anh em trong Đức Giêsu”. Gioan đang chịu đau khổ về đức tin ở Chúa Kitô, và các giáo hội thời đó mà ông viết thơ cũng cùng chịu nỗi gian truân với họ. Sách Khải Huyền được viết ra là để gởi đến sự an ủi cho những Kitô Hữu đang đau khổ vì đức tin gởi đến họ lời hứa của Đấng đã chết, nhưng “là Đấng hằng sống, Đấng đã chết, và nay sống đến muôn thuở muôn đời”.

Người dạy đức tin của thời sách Khải Huyền không cần phải sợ sự chống đối của thế giới chúng ta ngày nay, và chúng ta cũng thế, chúng ta không cần phải sợ là chúng ta sẽ bỏ đức tin của chúng ta để theo các giá trị của thế gian này. Những giá trị đó sẽ qua đi, nhưng chúng ta tin vào Đấng “giữ chìa khóa của Tử Thần và Âm phủ”. Thiên Chúa chúng ta qua Chúa Giêsu, ở với chúng ta trong mỗi sự gian truân chúng ta đối diện với Tử thần, và Ngài sẽ ở với chúng ta tới tương lai nữa. Ở nhiều nơi trên thế giới hiện nay nhiều Kitô Hữu bị đánh đập, giết chóc vì đức tin. Mặc dù hiện tại đức tin của chúng ta chưa bị thử thách và gian truân chống đối, nhưng đời sống hàng ngày của chúng ta đang bị người đời chống đối và nhạo báng và coi chúng ta như những người ngu si. 

Trong giáo hội hiện nay, nạn các linh mục lợi dụng tình dục trẻ con đang lan tràn và liên hệ đến hàng giáo phẩm, chúng ta đang bị những kẻ lợi dụng tình hình, thổi phồng những tin tức được cho hay là có sự che đậy bởi những hàng giáo phẩm cao cấp? Chúng ta cần được nâng đỡ như sách Khải Huyền, không phải chắc là mọi sự sẽ qua, nhưng là Đấng được gọi là “Ta là Đầu và là Cuối” sẽ ở với chúng ta trong những nỗi gian truân, thanh lọc, sự chết và đời sống mới. Suốt mùa Phục Sinh này, trong những nỗi đau khổ và gian truân chúng ta sẽ nghe và sẽ được thêm can đảm nhờ lời hứa của sách Khải Huyền, lời hứa là Thiên Chúa đang hiện diện trong những đau khổ ấy của chúng ta. 

Trong Giáo Hội, chúng ta nhớ lại những ngày xáo độn trong quá khứ, như những thời các các bè rối, có những lúc ép buộc dân chúng phải chịu phép rửa tội, những lúc dựa vào quyền uy quân sự v.v… Thật là những lúc gây bức xúc cho giáo dân. Tuy vậy, Đấng “giữ chìa khóa Tử thần và Âm phủ” không buông tha chúng ta, nhưng đã mở kho tàng của đời sống mới cho chúng ta qua các lời ngôn sứ ứng phát trong giáo dân và đời sống chứng nhân mạnh mẻ của hàng giáo phẩm và các tu sĩ. Nhiều khi họ bị đau khổ vì lời nói và việc làm của họ, nhưng chúng ta đã được hưởng nhờ vì sự can đảm và đức tin của họ. 

Thời trước là thế. Thời bây giờ thì biết bao nhiêu điều hình như không kiểm soát được và bị buôn thả. Sách Khái Huyền nhắc nhở chúng ta là Thiên Chúa chúng ta không phải chỉ là Thiên Chúa trong quá khứ, nhưng là Thiên Chúa trong hiện tại và trong tương lai nữa. Chúng ta cầu nguyện suốt mùa Phục Sinh, nhất là những lúc nghe đọc lời Chúa trong sách Khải Huyền. Chúng ta cầu xin Đấng đã từ cõi chết sống lại mở tai chúng ta để nghe lời của đời sống mới. Chúng ta cầu xin cho chúng ta biết dấn thân làm việc như những người đã được Thiên Chúa; đấng sẽ đến trong tương lai; hứa một tương lai sáng sủa hơn cho thế giới hiện tại của chúng ta ngay hôm nay. Là gây nên một giáo hội giống nước Chúa Giêsu đã được hình thành trong tâm tình của mổi người?

Thánh Gioan gặp khó khăn là bởi sự táo bạo của lời giảng. Ông ta “rao giảng lời Thiên Chúa và làm chứng về Chúa Giêsu”. Ông ta làm chứng về Chúa Kitô phục sinh. Các Kitô Hữu trong mỗi thế hệ, cho đến bây giờ, đã gặp nhiều gian truân như nhau vì đức tin. Có người làm chứng trước quyền bính thống trị. Nhưng phần đông làm chứng bằng cách vác thánh giá mình hàng ngày vì danh Chúa Giêsu và chấp nhận những hy sinh bởi đó mà ra. Họ: bỏ việc làm vì họ không chịu nhúng tay vào những việc trái đạo đức; họ giành thì giờ tình nguyện làm những việc trong giáo xứ; họ dùng tài năng nghề nghiệp của mình để giúp những người nghèo khổ; họ hy sinh thì giờ và năng lực để ngồi bên cạnh người láng giềng đang đau ốm; họ không buôn thả con cái hư hỏng; họ giúp đỡ một người bạn muốn cai nghiện v.v… Ai có thể làm như vậy và nhiều hơn nữa, mà không mong muốn sự trả công của “Đấng là đầu và là cuối?”

Thánh Gioan viết để an ủi những Kitô Hữu đang bị gặp thử thách gian truân để họ khỏi mất hy vọng. Trong những tuần sắp tới chúng ta sẽ nghe Thánh Gioan chia sẻ những thị kiến của ông ta với họ: (Chúa Nhật thứ 3) Con Chiên Thiên Chúa thắng trận khởi hoàn; (Chúa Nhật thứ 4) Số đông người được tránh khỏi “sự đau khổ lớn lao”; (Chúa Nhật thứ 5 và thứ 6) thế gian kỳ cựu sẽ qua đi và “một Gierusalem” mới sẽ đến; (Chúa Nhật thứ 7) lời hứa của Đấng gọi là “Alpha và Omega, Đầu và Cuối sẽ đến”. Chúng ta thấy rõ là những thị kiến ấy đã được viết ra để an ủi những Kitô Hữu đang bị gian truân đau khổ, để họ khỏi bỏ công đoạn giáo hữu, và để họ khỏi mất hy vọng vào Chúa Kitô phục sinh và sẽ đến.

Lời văn sách Khải Huyền nói đến thời kỳ tương lai nên nghe hơi lạ ta đối với người thời bấy giờ. Nhưng, có lẽ không lạ tai đối với những người hiểu xa hơn về những hiện tượng đời sống hiện nay như trong những phim “Star Trek” hay “Harry Potter”, và những phim vừa mới được khen ngợi “Avatar”. Và đối với những người thích văn thơ thì họ không bỏ mất phần hình ảnh và dấu chỉ trình bày trong sách Khải Huyền. Thí dụ như: (Kh 1:13) Có ai giống như Con Người mình mắc áo choàng và ngang ngực có thắt đai bằng vàng; (1:17) “Ta là Đầu và là Cuối”; (21:2) “Thành Thánh mới” tường thành xây dựng “trên đó có tên 12 tông đồ của Con Chiên” (21:14). Và trong những tuần sắp tới có nhiều dấu đầy lời hứa hẹn.

Thánh Gioan dùng lời văn và hình ảnh bởi Cựu Ước mà ra để diễn tả kinh nghiệm của ông về Chúa Kitô sống lại. Khải Huyền nói đến 7 Giáo Hội ở Tiểu Á để nâng đỡ họ trong đức tin và giúp họ can đảm hơn trong hy vọng. Chúng ta không cần phải là những học giả về Cựu Ước để tìm ra ý nghĩa của lời văn sống động ấy. Trong khi chúng ta nghe đọc những bài sách này, trí tưởng tượng của ngôn sứ nảy ra trong đầu chúng ta, không những trong trí óc mà cả trong tâm hồn chúng ta, bởi tâm hồn và đức tin của thánh Gioan đến cho chúng ta. 

Lm. Jude Siciliano, OP. (Anh em Học viện Đaminh chuyển ngữ)

Bình an cho anh em

Cv 5,12-16; Kh 1,9-11a.12-13.17-19; Ga 20,19-31

 

 

Thưa quí vị,

Bài Tin mừng hôm nay là khung cảnh thứ ba trong trình thuật Phục sinh đầu tiên của Gioan. Câu chuyện này khởi đi bằng việc Maria phát hiện ra ngôi mộ trống, chạy đi báo cho các môn đệ. Phêrô và “người môn đệ khác” chạy tới mộ và cũng thấy như vậy. Hôm nay, Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ khi các ông đang ở trong phòng đóng kín cửa. Đây là khởi điểm cho những lần hiện ra sau đó. Nhưng trước đó là sự trống rỗng và im lặng. Barbara Brown Taylor (trong “Bài giảng Phục sinh” đăng trên tạp chí dành cho các nhà giảng thuyết năm 1995) hướng sự chú ý của chúng ta đến sự trống rỗng và nói rằng: “Đây là cách mà lễ Phục sinh bắt đầu hé rạng trong lòng nhân loại. Người không ở đây. Chúng ta không biết Người ở đâu. Ngôi mộ trống như ngai của nơi cực thánh và âm thanh của danh Thiên Chúa chính là âm thanh hơi thở đứt quãng của chúng ta” (tr.13)

Vào lễ Phục sinh, Giáo hội đề nghị một sự thinh lặng và lòng sùng kính mãnh liệt hơn nữa trước quyền lực vô biên và “ riêng biệt của Thiên Chúa”. Ngay cả những ngôn từ hay nhất của chúng ta cũng không thể diễn tả hết được sự phục sinh; tuy nhiên chúng ta cố gắng diễn tả những gì Thiên Chúa đã thực hiện. Chúng ta, những nhà giảng thuyết và tín hữu sẽ cầu nguyện và gắng sức để diễn tả những mầu nhiệm này. Nhưng khi chúng ta nỗ lực, chúng ta sẽ làm tốt, hầu giữ lời khuyên của Brown: “chúng ta đến gần Đấng toàn năng như những phóng viên điều tra, nghiên cứu về những điều chúng ta có thể không bao giờ biết… Như phía trên Thiên Chúa ngự và khi thế gian kết thúc và tại sao những điều xấu xảy đến với những người tin. Chúng ta đặt sai ý nghĩa của đau khổ, của sự khiếp sợ, vào một Thiên Chúa vô biên”.

Ý nghĩa của sự kính sợ và tôn sùng trước Đấng toàn năng trong bài đọc thứ hai trích từ sách Khải huyền đã đụng chạm đến tôi. Sách này có lẽ do một ngôn sứ Kitô hữu gốc Dothái tên là Gioan viết. Ông nói rằng mình nhận được những thị kiến đang khi bị đày ở đảo Patmo vì giảng về Đức Giêsu (1-9). Sách này là một sưu tập những thị kiến và những phát biểu của Gioan, thường do một thiên sứ. Gọi là sách khải huyền vì chứa đựng những thị kiến và lời tiên báo về các biến cố trong tương lai. Người thị kiến được phép dự vào những cuộc phán xét trên trời và vì thế chúng ta cùng đăng trình với Gioan. Việc đọc Khải huyền có thể khiến chúng ta khiếp sợ.

Những độc giả ban đầu của sách này không hiểu nó như một sự mô tả về thời cánh chung. Như các ngôn sứ trước, tác giả muốn sách của mình được hiểu như một sứ điệp ông đón nhận từ Thiên Chúa và trao cho dân Thiên Chúa. Sách Khải huyền khuyến khích những cộng đoàn bị thất bại cố giữ giao ước và mang lại niềm an ủi, lúc đầu dành cho những tín hữu đau khổ trong các hội thánh thuộc vùng tiểu Á – và bây giờ dành cho chúng ta.

Bài hôm nay trích từ sách Khải huyền là một thị kiến đầu tiên trong số những thị kiến đầu tiên (1,9-11,19). Gioan mở đầu bằng cách mô tả về những gì ông biết và chia sẻ với những độc giả với tư cách là một thành viên của đời sống Kitô giáo – “sự đau khổ” (bách hại và khổ nhục) và “sự bảo đảm” chúng ta co được nhờ tin vào Đức Kitô.

Thị kiến khởi với việc ông đã “xuất thần” vào ngày của Chúa. Ông xuất thần và nghe thấy một tiếng lớn như thể tiếng kèn. Ông đã nhận được sự chỉ dẫn để viết ra những điều ông thấy và trao sứ điệp ấy cho bảy hội thánh. Thị kiến mang những đặc nét gợi nhớ những bài viết Khải huyền của Kinh thánh Cựu Ước. Hình ảnh “Con Người” liên tưởng đến thị kiến của Đaniel về khuôn mặt người trình diện Thiên Chúa, Đấng ngự trên ngai, trao cho Người quyền thống trị trên mọi dân tộc (Dn 7,13-14). Khuôn mặt siêu phàm này mang dáng dấp của những tư tế Đền thờ ở Giêrusalem.

Cảm nhận được nỗi kinh khiếp của cảnh tượng này, chúng ta cũng phản ứng như Gioan nếu chúng ta cũng được gặp thị kiến như thế: ngã vật xuống “dưới chân Người, như chết vậy”. Nhưng nhân vật này đã an ủi Gioan và mặc khải chính Người là Đức Kitô phục sinh.

Đâu là sự an ủi chúng ta có thể nhận được từ thị kiến Đức Kitô phục sinh này? Khi Người hiện ra với các môn đệ trong căn phòng đóng kín, Người chào họ bằng lời trao ban bình an. Những vết thương của Người biểu thị tính liên tục giữa Đức Giêsu trần gian, Đấng đã hy sinh mạng sống và Đấng đã phục sinh nói lời bình an và hoà giải: “Bình an cho anh em”. Tiếp đến, Người sai các môn đệ vào sứ vụ của tình thương và tha thứ.

Các môn đệ ra đi loan báo sứ điệp tình thương mà họ đã nhận được từ Đức Kitô phục sinh và, sau đó, một trong những môn đệ của họ, Gioan, bị đày ở Patmo vì ông đã “loan báo Lời Chúa” và làm chứng cho Đức Giêsu. Trong thị kiến của mình, Gioan không thấy Đức Kitô có những vết thương, nhưng đã sống lại, với tiếng kèn và việc loan báo sự thống trị trên tất cả. “Ta là Đầu và là Cuối, Đấng Hằng sống. Ta đã chết và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời. Ta giữ chìa khoá của Tử Thần và Âm phủ”. Đức Kitô là chủ của sự sống và sự chết.

Trong lối nói hiện nay, nếu chúng ta có được thị kiến của Gioan, có lẽ chúng ta sẽ mô tả như sau: “thật hoành tráng”.Nó thật kinh hoàng. Ông đang ngỏ lời với những Giáo hội địa phương đang sống trong những thời điểm khó khăn. Thị kiến của ông nhắc nhớ họ và cả chúng ta – có thể đang trải nghiệm những giới hạn, tổn thương và loại trừ vì niềm tin của mình – Đấng chúng ta tin, hiện đang nắm giữ quyền lực vô biên. Trong những thời điểm khó khăn chúng ta có thể làm những điều Gioan đã thực hiện bằng cầu nguyện và “ngã vật xuống dưới chân Người”. Đức Kitô trao cho chúng ta lời sức mạnh quyền năng và an ủi: “Đừng sợ!”

Có thể chúng ta không phải đối diện với một đế quốc Rôma thù địch và bách hại các độc giả của sách Khải huyền. Nhưng nỗi đau của chúng ta đến từ nhiều con đường khác nhau. Ngày càng nhiều người lìa bỏ giáo hội, nhiều người tuyên bố họ cảm thấy thất vọng với những vụ bê bối gần đây và cho rằng Giáo hội không hy vọng gì theo kịp thời đại chúng ta.

Khi những tín hữu nhiệt thành không phải chịu đau đớn của sự tra tấn vì niềm tin, chúng ta chắc hẳn sẽ cảm thấy căng thẳng. Chúng ta hãy đặt lòng mình vào sứ điệp của Đức Kitô trao cho Gioan, Đấng thấu suốt, là “đầu và cuối”. Người luôn trung kiên, từ khởi sự cho đến hoàn tất bằng sự hiện diện mà không bỏ rơi chúng ta. Chúng ta nghe lời an ủi của Đức Kitô để đứng vững và không sợ hãi. Người ở cùng chúng ta và sẽ hoàn tất lời mà Người đã hứa: Người sẽ đánh bại tử thần.