CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG - NĂM C Xp 3:14-18a . Pl 4:4-7 Lc 3:10-18 Lm. An Phong op : Hãy Vui Mừng LênFr. Jude Siciliano op : Mừng Vui Lên Trong Chúa Lm. Như Hạ op : Vui Lên Anh Em Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, op : Người Mở Đường và Tiếng Nói Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng op : Chia Sẻ Fr. Jude Siciliano, op. : Mừng Vui Lên Anh Em Ngọc Thiện op : Hãy mở cửa lòng, chào đón Đấng Cứu Độ Lm Đỗ Lực op : Mỗi Ngày Chọn Một Niềm Vui Fr. Jude Siciliano: Hãy vui lên!
Hãy Vui Mừng LênChúa nhật thứ ba mùa Vọng vẫn thường được gọi là "Chúa nhật Mừng vui". "Anh em hãy vui mừng luôn trong Chúa... Hãy trình bày những ước vọng lên cùng Chúa... Và bình an của Thiên Chúa sẽ giữ gìn anh em trong Chúa Giêsu Kitô" (Pl 4,4-6 : Bài đọc 2). Gọi là Chúa nhật Mừng vui vì mùa Vọng không phải là mùa tang tóc. Gọi là Chúa nhật Mừng vui, vì mùa Vọng chính là mùa Hồng ân của Thiên Chúa "Hãy hân hoan và hãy nhảy mừng hết tâm hồn... Chúa là Thiên Chúa ngươi, là Đấng mạnh mẽ ở giữa ngươi, chính Người cứu thoát ngươi " (Xp 3,14.17 : Bài đọc 1). Niềm vui này được thể hiện một cách cụ thể trong lời kêu gọi của Gioan Tẩy giả khi trả lời câu hỏi của dân chúng : "Chúng tôi phải làm gì ?" Gioan Tẩy giả đã đề nghị những hành động cụ thể có thể mang lại niềm vui. Đức Giêsu chính là Tin mừng của Cha gởi cho nhân loại. Chính Người đã mang lại niềm vui cho nhân loại. Người vui với các môn đệ sau khi họ đi giảng về (Lc 10,17-20). Người chia sẻ niềm vui với bà góa thành Na-im khi thấy đứa con mình sống lại (Lc 7,15.16), với ông Giakêu khi hoán cải và tiếp rước Người vào nhà mình (Lc 19,9), với người thu thuế khi được tha thứ (Lc 18,14), thậm chí Người còn đùa giỡn với các nhi đồng quấn quít bên mình, đang khi các môn đệ lại trách mắng chúng (Lc18,15-17). Như thế, Đức Giêsu chính là Tin mừng. Khi đón nhận Tin mừng, người kitô hữu lại chẳng vui sao ? Một trong những tính chất cơ bản làm nên đời sống kitô hữu đó là niềm vui. Niềm vui trong tâm hồn vì được Thiên Chúa cứu độ. Niềm vui trên khuôn mặt rạng rỡ niềm tin, bình an và hạnh phúc, vì "Chúa là gia nghiệp đời con". Niềm vui tự nhiên là một món quà của Chúa. Cần phải loại bỏ thành kiến sai lầm là muốn nên thánh thì phải nghiêm trang đạo mạo, không dám vui. Thánh Phanxico de Sales nói "Một ông thánh buồn là một ông thánh đáng buồn", tức là ông thánh nào cũng vui. Thánh Tôma khẳng định : cần phải vui thì mới có thể tiến trên đường trọn lành được. Nhưng niềm vui chỉ có được khi chúng ta thực sự bình an. Niềm vui là thành quả của một đời sống bình an, tin tưởng. Một đời sống quá nhiều lo toan tính toán, quá nhiều "tham, sân, si, mạn, nghi, thâm kiến" không thể có được bình an. Sống giữa cuộc đời nhiều sóng gió, nhiều ước vọng... con người khó tìm được bình an đích thực. Muốn có được bình an, con người phải cố mà chinh phục cho bằng được, phải tốn nhiều công sức, thậm chí, phải đành chấp nhận "thua thiệt".. "Bình an của Chúa ở cùng anh chị em", "Chúa ở cùng anh chị em" là những câu rất quen thuộc với chúng ta, khi chúng ta tham dự thánh lễ. Đây vừa là lời chào, vừa là lời cầu chúc và lời nguyện xin Thiên Chúa ban bình an cho chúng ta, bình an là một món quà quí báu của Thiên Chúa. Như thế, Chúa nhật thứ 3 mùa Vọng nhắc nhở chúng ta Hãy vui lên, Hãy cảm tạ Chúa vì những hồng ân Người ban tặng. Đức tin mở cho ta một con đường tràn ngập niềm vui và ánh sáng. Đức tin mở cho ta thấy một mối tương quan mới với Thiên Chúa, đưa ta vào một thế giới mới của tình yêu. Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng (Tv 37 và 104). Hãy phụng sự Chúa với niềm hoan hỉ (Tv 100). Lạy Chúa, Chỉ trong Chúa, chúng con mới có được niềm vui đích thực "Chính Chúa ban xuống lòng con nhiều hoan lạc. MỪNG VUI LÊN TRONG CHÚA Thưa quý vị. Với những vị lớn tuổi, hiểu biết tiếng Latinh, thì chúa nhật này được gọi là Dominica Gaudete (chúa nhật hãy vui lên). Gọi như vậy vì cả hai bài đọc 1 và 2 đều bắt đầu bằng các từ “Hãy vui lên” : Reo vui lên hỡi thiếu nữ Xion, hò vang dậy đi nào, nhà Israel hỡi ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nức lòng phấn khởi (bài đọc 1). Thưa anh em, anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: Vui lên anh em (bài đọc 2). Từ xưa đến nay niềm vui này đã được các nhà giảng thuyết, các nhà diễn giải Kinh Thánh, và nhất là các thánh nhân đã đề cập tới rất nhiều. Nó là tinh thần chính yếu của những người sống gần gũi với Thiên Chúa. Un saint triste est un triste saint (một vị thánh buồn sầu là vị thánh chẳng ra gì.) Cho nên tôi cũng theo tinh thần đó mà khai triển suy tư cho ngày lễ hôm nay. Có lẽ suốt cả tuần ba mùa vọng, chúng ta nên chăm chỉ đọc toàn bộ lá thư của thánh Phaolô để rao giảng và cầu nguyện. Đoạn trích hôm nay là căn bản. Xin đừng hiểu lầm thánh nhân, ông không phải la người lạc quan cuồng tín, vùi đầu xuống cát khi chung quanh toàn là gian giảo, độc ác. Lý do ông đưa ra để vui mừng là “Chúa đã gần đến”. Nói cách khác. Việc Chúa đến là nguồn vui của các tín hữu trên khắp hoàn cầu. Nguồn vui này được thể hiện trong tình đoàn kết làm việc mở mang Nước Chúa : “Tôi luôn vui mừng mỗi khi cầu nguyện cho anh em hết thảy, vì từ buổi đầu cho đến nay, anh em đã góp phần vào việc rao giảng Tin Mừng” (1,5). Như vậy tín hữu thành Philipphê là cộng sự viên của thánh nhân và là đồng chí với nhau trong công việc. Suốt lá thư, thánh nhân dùng ý tưởng này như chủ đề khai triển nội dung. Thí dụ ở đoạn 4 câu 2, tác giả kêu gọi sự hoà giải giữa hai người đàn bà nổi tiếng trong cộng đoàn : “Tôi khuyên chị Êvôđia và cả chị Xintikhe nữa : Xin hai chị sống hoà thuận với nhau trong Chúa”. Như vậy chúng ta hiểu được trong Hội Thánh Philipphê không phải đã hoàn toàn đoàn kết, vẫn còn chia rẽ. Dầu sao thánh nhân khuyên nhủ họ hãy sống hoà hợp, một lòng một trí hầu việc Chúa. Nói rộng ra thánh Phaolô viết cho tất cả những ai xưa kia xa lạ, hiềm khích, nhưng sau khi đã lãnh nhận bí tích rửa tội, thì đều là quen thân trong gia đình Thiên Chúa, cùng nhau cộng tác rao giảng Tin Mừng, chịu thử thách bách hại, thực hiện những hy sinh cá nhân, cộng đoàn, yêu thương và yên ủi lẫn nhau. Cho nên, dù còn những chia rẽ bất hoà, Hội Thánh Philipphê vẫn nhận được tình cảm ưu ái của thánh nhân. Bởi lẽ họ vẫn là tôi tớ trung thành và rộng rãi của Thiên Chúa. Họ phải vật lộn với những khó khăn. Nhưng thánh Phaolô hiểu biết lòng kiên nhẫn phục vụ Chúa của cộng đoàn. Cho nên thánh nhân vui vẻ nói : “Hãy vui lên trong niềm vui của Chúa, luôn luôn.” Ngày nay cũng vậy, Hội Thánh xem ra chẳng bao giờ được sống trong hoàn cảnh lý tưởng, bốn bề yên ổn. Ngược lại luôn gặp thử thách, gian truân. Qua mọi thời đại, các tín hữu đều phải than van : “Chưa bao giờ khốn đốn như hôm nay.” Nó đã thành câu điệp khúc vĩnh viễn. Bây giờ những người cấp tiến hô hào Giáo Hội phải biết thức thời, thay đổi cơ chế, liên minh với quyền lực thế gian, tiến bộ tư duy, kinh tế, xã hội cho kịp với thời đại khoa học, loại bỏ cổ hủ, để được sống yên ổn. Nhưng như thế là phản bội với ơn gọi của mình. Chúa Giêsu chưa bao giờ được nghỉ ngơi khỏi những chống đối. Từng cá nhân tín hữu cũng vậy. Có lúc nào chúng ta tự vấn: Phải chăng tôi đã đánh đổi lòng trung thành theo Chúa để được đời sống thoải mái như hiện thời ? Đây không phải là câu hỏi đùa bỡn, mà để chúng ta thẩm định xem mình có chạy theo thói tục thế gian để được giàu sang, bất chấp những đòi hỏi của Tin Mừng ? Mùa vọng này, cộng đoàn giáo xứ cũng như từng tín hữu có rất nhiều vấn đề cần xem xét lại. Chúng ta chờ đợi Chúa ngự đến với tấm lòng nặng trĩu những lo âu hoặc hiềm tỵ vì quan điểm cá nhân. Dầu chưa hoàn toàn đồng ý, nhưng vẫn cùng nhau chia sẻ Lời Chúa và Bánh Thánh, Rượu Nho. Vậy xin hãy mừng vui lên vì có những người khác cùng tin kính, phụng thờ Chúa như mình. Giống như hai bà Xintikhe và Evôđia, chúng ta có những va chạm trong giáo xứ, ngoài xã hội, vì những khác biệt kinh tế, tính tình, học vấn, chữ đỏ phụng vụ, tiền bạc chung, trường học, bệnh viện, từ thiện... có thể là chúng gây nên nhiều cay đắng hơn thông cảm tha thứ. Tuy nhiên với thánh Phaolô và như giáo dân thành Philipphê, chúng ta cùng vui lên vì Chúa đã gần đến. Hãy ăn ở sao cho mọi người thấy được chúng ta sống hiền hoà rộng rãi. Đặc biệt, hôm nay chúng ta thành thực tạ ơn những bạn bè thân thích, những người làm gương sáng đức tin trong cộng đồng, những người đã nâng đỡ tinh thần lúc chúng ta đang nghi nan, lưỡng lự hay nhát đảm, thất vọng. Ở đây chúng ta lại thấy có lý do để cùng thánh Phaolô nói : “Hãy vui lên trong Chúa luôn mãi”. Vì Phúc Âm, thánh nhân đã bị quyền bính đền thờ hay vua quan Rôma bắt tống ngục nhiều lần, bị đòn vọt, tra khảo chí tử, chỉ thiếu cái chết. Ông viết lá thư này từ nhà tù ở Rôma, Êphêsô hay Cesare gởi giáo đoàn đang bị chèn ép, làm khó dễ ở thành phố Philipphê. Nhưng tại sao ông lại tuyên bố “Mừng vui lên anh em !” Xét theo bề ngoài thì chẳng có chi để vui mừng được cả, trái lại mọi sự rất tồi tệ, buồn thảm. Vậy thì phải vì lý do nào khác ngoài tình hình vật chất. Chẳng lẽ thánh nhân khuyên chúng ta diễn kịch giấu buồn làm vui ? Không đúng vậy, thánh nhân tin chắc Chúa Giêsu, nguồn vui chính yếu của mọi tín hữu, đã gần đến, bất chấp những vật lộn nội bộ hoặc bằng chứng bên ngoài ngược lại. Thánh Phaolô kêu gọi chúng ta nhìn tỏ bằng đức tin sự thật Chúa đang đến, mặc dầu chúng ta phải lội ngược dòng thế sự. Trên đường về quê trời chúng ta không chiến đấu một mình, nhưng luôn có Chúa cùng hoạt động, nâng đỡ và khích lệ trong các thử thách tối tăm của cuộc đời. Ngoại cảnh chẳng thể có ảnh hưởng gì tới mối tương giao thánh thiện giữa chúng ta với Chúa Giêsu, trừ phi chúng ta đầu hàng ma quỷ và thế gian. Thực tế hàng ngày, hàng giờ, hàng giây phút chúng ta bị cám dỗ tìm an ủi nơi vật chất. Nó bảo đảm cho mình cuộc sống giàu sang, đầy tiện nghi. Nhưng một khi Chúa ngự đến thì những thứ đó không cần thiết nữa. Sẽ đến ngày chúng ta không có nhu cầu nào khác ngoài việc chiếm hữu Nước Trời mà Chúa Giêsu chính là hiện thân trong xác phàm. Cho nên Chúa luôn gần gũi để kiên cường các quyết định của mỗi linh hồn. Chúng ta cố gắng lắng nghe tiếng Ngài khuyên nhủ. Thánh Phaolô nói : “Anh em đừng lo lắng gì cả” không có nghĩa là tự mình đủ sức làm nên mọi sự, nhưng thánh nhân muốn hàm ý “hãy tin cậy vào Chúa, Ngài đang đến gần.” Chính Ngài sẽ ban quyền năng để hoàn thành mọi việc. Do đó qua sự mật thiết với Chúa Giêsu và qua Chúa Thánh Thần chúng ta giãi bày những khát khao, những nhu cầu của mình trước tôn nhan Chúa trong lời cầu nguyện. Thiên Chúa sẽ biến đổi những lo lắng đó thành “Bình an vượt lên trên mọi hiểu biết”. Đây lại là lý do khác để chúng ta “Vui mừng luôn trong Chúa”. Tiếp theo thánh Phaolô nói : “Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn” lên Thiên Chúa. Đó cũng là lý do để người tín hữu vui mừng, vì lúc ấy họ cảm nhận được Thiên Chúa hằng quan tâm săn sóc mình, kể cả những chi tiết nhỏ nhặt trong cuộc sống. Một phương pháp cầu nguyện đặc biệt là dùng chính lời Kinh Thánh. Chúng được linh hứng bởi Chúa Thánh Thần. Chúng toát ra từ sự kiện chúng ta quyết tâm trung thành theo Chúa. Như vậy chúng nhắc nhớ : Thiên Chúa thấu suốt mọi tư tưởng trong trí khôn mình, mọi lo âu trong trái tim mình, mọi nguyên nhân gây cho mình bất an. Thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu giãi bày tất cả những điều đó lên Thiên Chúa và tin tưởng Ngài sẽ nghe lời. Thánh nhân cảm thấy phải “vui mừng luôn trong Chúa.” Lý do cuối cùng thánh Phaolô dạy bảo phải mừng vui là ơn bình an Thiên Chúa ban. Thánh nhân không cam đoan mọi lời cầu khẩn sẽ được Chúa đáp trả. Nhưng ông xác quyết rằng sẽ có an bình trong tâm hồn và trí khôn. Từ Do Thái “Shalom” bình an có nguồn gốc Thánh Kinh, thứ an bình thế gian không thể ban. Linh hồn cảm nghiệm nó sâu sắc từ sức mạnh thần linh. Nó không chỉ là vắng bóng chiến tranh hoặc xung đột, nó là sự yên tĩnh nảy sinh từ trật tự vĩnh hằng : Mọi sự thuộc về anh em, anh em thuộc về Đức Kitô và Đức Kitô thuộc về Thiên Chúa. Những linh hồn phân tán hoặc làm đảo lộn thế giới luân lý không được hưởng thứ bình an này, các tội nhân không thống hối ăn năn chẳng hạn. Sự bình an Chúa ban không làm chúng ta dửng dưng với bổn phận trần thế hoặc vô tâm với những đau khổ chung quanh mình. Ngược lại với an bình nội tâm, chúng ta có thể can đảm đối phó với hết mọi khó khăn long trời lở đất, kể cả sự chết. Bởi luôn luôn ý thức Thiên Chúa bênh đỡ mình. Nó là sức mạnh hàng ngày để chúng ta vượt sóng gió biển đời trần gian. Bình an Chúa ban không thể mua bằng vàng bạc, châu báu, ngọc trai. Nó là quà tặng nhưng không từ Thượng Đế. Như vậy thánh Phaolô lại cho chúng ta lý do để “Vui lên trong Chúa luôn mãi”. Những ngày mùa vọng sẽ thật nhộn nhịp, vội vàng mua sắm, các bất ổn tiềm tàng. Thế giới đang quằn quại đau khổ vì chiến tranh, đói khát, thù hận, bế tắc. Nhiều gia đình đang chịu cảnh chia ly, tan tác, khó khăn. Làm thế nào chúng ta có thể nói được hai chữ bình an ? Làm thế nào mùa này được gọi là “thánh thiêng” khi người ta ồn ào chạy chợ thương mại, quảng cáo vô luân, cạnh tranh bẩn thỉu ? Tuy nhiên thánh Phaolô vẫn khuyên nhủ: “Vui lên anh em vì Chúa đã gần đến.” Chúng ta phó thác mọi nhu cầu vào tay Chúa. Ngài sẽ chiến thắng tất cả và ban cho chúng ta bình an như món quà quý báu khi Ngài ngự đến. Vậy thì thánh Phaolô không phải là vô lý hoặc lạc quan mù quáng. Ngài rất thực tế khi khuyên nhủ tín hữu thành Philipphê ngày xưa, và chúng ta hôm nay: “Hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: Vui lên anh em”. Xin cho mỗi người chúng ta kinh nghiệm đầy đủ niềm vui thánh thiện này. Amen. VUI LÊN ANH EM ! Đời là bể khổ hay là một Tin Mừng ? Chắc chắn không ai có thể phủ nhận niềm vui trong cuộc đời. Thử tưởng tượng cuộc đời hoàn toàn vắng bóng niềm vui, còn ai muốn sống nữa không ? Nhưng niềm vui phát xuất từ đâu ? Niềm vui dễ hay khó ? NGUỒN SUỐI HOAN LẠC. Thánh Gioan Tẩy giả đã thấy rõ kết quả tốt đẹp gặt hái được từ những bài giảng bên bờ sông Giođan. Nghe ông nói, mặc dù có những điều trái tai, họ vẫn “lũ lượt tuốn đến xin ông Gioan làm phép rửa” (Lc 3:10) như một dấu chỉ lòng sám hối. Sám hối không chỉ là một hành động thiêng liêng, nội tâm, nhưng được thể hiện ra bên ngoài bằng những hành vi rất cụ thể, thực tế, đụng chạm đến miếng cơm, manh áo của con người. Sám hối có nghĩa là sống công bình và bác ái hơn. Lần lượt các thành phần dân chúng hỏi ông phải làm gì để hoán cải cuộc sống, tìm lại được bình an và xứng đáng với ơn cứu độ sắp tới. Ong đã có những chỉ dẫn sống động cho từng hạng người trong hoàn cảnh cụ thể. Chắc chắn thực tế những hạng người đó chẳng được lợi gì khi thi hành những chỉ dẫn đó. Được lợi gì cho những người dư ăn dư mặc phải chia cơm sẻ áo cho người khác ? Những người sở thuế không còn được ăn hối lộ ? Những quân nhân chỉ sống với số lương ba cọc ba đồng ? Rõ ràng cái lợi vật chất không thể tìm thấy trong những hi sinh đó. Nhưng những cử tọa của Gioan Tẩy giả đã sẵn sàng thực thi công bình xã hội để cho người nghèo và người bị áp bức thấy được ngày mai. Công chính đã ngự trị, chắc chắn bình an sẽ đến với muôn người, trước tiên với những người đã biết lấp đầy hố sâu, san phẳng núi đồi, sửa lối quanh co, lồi lõm. Cuộc sám hối tập thể của những người nắm quyền trong dân chứng tỏ những bất ổn đã dày vò lương tâm họ từ trước tới nay. Bên ngoài tưởng chỉ những người yếu thế mới có lợi. Nhưng thực tế, họ là những người có lợi nhất, vì chiếm lại được hạnh phúc đích thực từ sự bình an trong lương tâm. Cuộc đời họ sẽ chan hòa niềm vui từ khi khám phá ra nền tảng đích thực của hạnh phúc. Hạnh phúc vẫn là điều sâu kín nhất, mầu nhiệm nhất. Sau khi dân chúng đã sám hối, tới lượt ông Gioan Tẩy giả nói về con người đích thực của mình. Danh tiếng ông lên cao đến nỗi “ai nấy đều tự hỏi : biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng Mêsia !” (Lc 3:15) Một người đang ở ưu thế tuyệt đối như thế không dễ gì nhường địa vị cho một người đến sau còn vô danh tiểu tốt. Bao nhiêu quyền lợi có thể đến với Gioan nếu ông biết khai thác lòng ngưỡng mộ của toàn dân. Nhưng không. Ong dã hoàn toàn từ bỏ tất cả. Bởi đó, cuộc đời ông tràn ngập niềm vui vì đã hoàn thành sứ mạng “loan báo Tin Mừng cho” toàn dân (Lc 3:18) Ông đã khiêm tốn thú nhận : “Phần tôi, tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần và bằng lửa.” (Lc 3:16) Một lời thú nhận rất đáng khâm phục. Ông tự nhận không bằng một tên nô lệ. Ông đã tìm thấy được bình an và niềm vui khi khám phá thấy sự thực về mình. Ai cũng thấy sức mạnh của Gioan Tẩy giả là phép rửa. Nhưng phép rửa của ông chỉ có tính cách bên ngoài, cùng lắm gợi lên lòng sám hối ăn năn. Còn phép rửa của Đức Giêsu hoàn toàn thấm nhập vào tận tâm hồn. Không gì có thể tồn tại trong lửa. Thánh Thần chính là lửa sẽ thiêu đốt tận tâm can. Không những thế, Thánh Thần còn đẩy sứ mạng của Đức Giêsu đến mức toàn hảo tột cùng. Mức toàn hảo đó được thực hiện trong tình yêu. Quả thực, Gioan Tẩy giả chỉ dừng lại ở lãnh vực luân lý. Đạo thật khô khan và nặng nề với những luật điều cứng ngắc. Đức Giêsu không thỏa mãn với giới hạn chật hẹp đó. Luân lý trở thành truyện nhỏ. Đạo không dừng lại ở đó. Thật vậy, mức độ phóng tới chính Người đã vạch ra : “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt 5:48) Luân lý mới dừng lại ở mức hoàn thiện con người. Làm cách nào đạt tới mức hoàn thiện của Chúa Cha, nếu không có sức mạnh Thánh Linh ? NIỀM VUI ÒA VỠ. Chỉ có Thánh Linh mới có thể biến bể khổ này thành một Tin Mừng và qui tụ tất cả vào trong gia đình Thiên Chúa. Mọi người sẽ là anh em vì cùng có một Cha. Tình yêu sẽ là động lực thúc đẩy mọi người sống cho nhau. Hạnh phúc không phát sinh từ những toan tính ích kỷ hay những nỗ lực qui ngã. Trái lại, con người chỉ thực sự hạnh phúc khi biết phục vụ lẫn nhau. Từ đó, niềm vui sẽ òa vỡ trong mọi cảnh ngộ cuộc đời. Chính vì thế, thánh Phaolô dám nói với tín hữu Philipphê : “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại : vui lên anh em ! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa, rộng rãi, Chúa đã gần đến.” (Pl 4:4-5) Niềm vui này không ai cướp mất được ! Vì “Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi, Người là Vị cứu tinh là Đấng anh hùng.” (Xp 3:17) Thế nên, dù đau khổ trăm bề, Kitô hữu luôn được trấn an : “Đừng sợ, chớ kinh hãi rụng rời.” (Xp 3:16) Hạnh phúc không tìm thấy nơi những bảo đảm vật chất bên ngoài. Hạnh phúc nằm ngay trong tâm hồn. Thật thế, “Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông.” (Lc 17:21) Chỉ cần trở vào nội tâm, con người có thể tìm gặp Thiên Chúa. Chính trong tâm hồn con người sẽ diễn ra một đại hội. “Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương cuả Người mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng, như trong ngày lễ hội.” (Xp 3:17-18a) Hình ảnh tuyệt vời này đủ diễn tả tất cả niềm vui lớn lao của người tín hữu. Niềm vui ấy chính Đức Maria đã cảm nghiệm sâu xa trong bài kinh Magnificat. Chính “Đức Mẹ dạy chúng ta muốn mang hòa bình và niềm vui đến cho thế giới, trước tiên cần nồng hậu tiếp đón vị Hoàng Tử Hòa Bình đến trong tâm hồn chúng ta. Và nguồn vui là chính Đức Đức Giêsu Kitô vậy.” (ĐGH Gioan Phaolô II, VietCatholic 19/12/2000) Người Mở Đường và Tiếng Nói ... Người mở đường Khi ông Gioan xuất hiện và loan báo một thời đại mới, thì đám đông dân chúng lũ lượt, kéo nhau đến nghe ông giảng và xin ông làm phép rửa cho. Họ là một đoàn dân, là những người có tinh thần thiện chí, thuộc đủ mọi hoàn cảnh sống, mọi nghề nghiệp. Họ lắng nghe lời giảng của vị Tiền Hô, họ nhìn lại đời mình và nhận ra cần phải thay đổi lối sống. Họ chấp nhận mở rộng tâm hồn trước những hành động bất ngờ của Thiên Chúa : họ là một “dân tộc đang chờ đợi”. Một ai đó sẽ đến và sẽ tiếp tục con đường đã được khai mào trong tâm hồn họ. Chính vì thế, họ hỏi ông Gioan : “Chúng tôi phải làm gì đây?” Có người cho rằng câu hỏi này không thích hợp lắm, vì nó hướng tới những việc cụ thể, những đòi buộc về luân lý. Nếu đám đông chỉ nghĩ đến điều này thì rõ ràng là không đủ, bởi vì điều cốt yếu, như Tin Mừng sẽ đòi hỏi, đó là sẵn sàng tiếp đón một ai đó để dấn mình vào một cuộc phiêu lưu thiêng liêng. Các đòi hỏi về luân lý chỉ là hệ quả của việc lên đường này. Đúng thế, lên đường là điều quan trọng. Ông Gioan Tẩy Giả không phải là con đường, ông chỉ là “người mở đường”. Tuy nhiên ông biết rõ điều cần phải làm để đón tiếp con người đang đến ; đó là mỗi người phải xem xét lại những mối tương giao của mình với người khác, cũng như cách thức mình sống những tương giao đó. Như vậy, trước câu hỏi của dân chúng, vị ngôn sứ không đòi hỏi điều gì lạ thường. Mỗi người phải hối cải tức là từ bỏ thái độ cho rằng mình đầy đủ và nhận ra nhu cầu để cho Lời Chúa tác động. Vị ngôn sứ đưa mỗi người trở về với đời thường, và đề nghị họ thay đổi, hối cải bắt đầu từ hoàn cảnh riêng của mình. Tuỳ bối cảnh sống và nghề nghiệp, mỗi người phải tìm cách thực hiện các đòi buộc về công bình xã hội, về sự tương trợ lẫn nhau và về đức bác ái. Trong số những người đến nghe ông Gioan giảng, có những binh lính (người ngoại quốc bị coi là kẻ bóc lột) và những người thu thuế (những người này bị kể là những kẻ phạm tội công khai vì cộng tác với thế lực ngoại bang, thế lực chiếm đóng). Chi tiết này cho thấy viễn tượng phổ quát của Tin Mừng Luca, bắt nguồn từ lời ngôn sứ Isaia : “Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Is 40,5). Những người Do thái có lòng tin thắc mắc ông Gioan có phải là Đấng Mêsia không. Ông Gioan phản bác lại ý tưởng này bằng cách minh chứng rằng, từ căn bản, phép rửa do ông cử hành không đem lại điều gì mới. Phép rửa này chỉ gợi lại những hình ảnh Thánh Kinh trong đó việc băng qua sông có nghĩa là tiến bước về ơn cứu độ. Phép rửa trong nước và Thần Khí hoàn tất ước nguyện của ông Môsê trong hoang địa, tức là đã đến ngày toàn dân trở thành “dân ngôn sứ”. Phép rửa này báo trước cuộc thay đổi toàn diện mà ông Gioan cảm thấy đã đến gần. Trình thuật Tin Mừng hôm nay nói đến hai ngôn sứ cùng một lúc : ông Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu Kitô. Việc chuyển giao từ Giao Ước Cũ sang Giao Ước Mới diễn ra cách đơn giản, nhưng cũng theo nghi thức và phần nào long trọng. Việc nói đến hai ngôn sứ cùng một lúc, theo lối tương phản, làm nổi bật biến cố trọng tâm của toàn bộ Lịch Sứ Cứu Độ. Trình thuật này minh hoạ cuộc di chuyển từ hoang địa đến dòng sông : Hoang địa hay sa mạc là nơi thử thách, nơi để thực hiện việc từ bỏ và cảm nghiệm sự cô tịch. Hoang địa là hình ảnh báo trước đồi Canvê. Gioan là một con người của hoang địa. Ông thu tóm nơi mình toàn bộ truyền thống Kinh Thánh : chính trong hoang địa, dân Do thái đã học biết kinh nghiệm về tôn giáo, đã lãnh nhận phép rửa sám hối. Theo Kinh Thánh, biến cố đặc biệt của hoang địa là bụi gai bừng cháy. Hình ảnh này báo trước cuộc biến hình đổi dạng của Đức Giêsu trên núi cao, báo trước Vinh Quang của Thiên Chúa vĩnh cửu. Sông Giođan là dòng sông đưa tới sự sống, là bến bờ của Đất Hứa. Chính tại đây, ông Gioan đã làm phép rửa cho dân và báo trước phép rửa mới. Cũng tại đây, Đức Giêsu đã lãnh nhận nghi thức thanh tẩy của ông Gioan, để trở thành cây cầu nối giữa hai giao ước. Đức Giêsu sẽ biến đổi nghi thức của ông Gioan : ông Gioan làm phép rửa bằng nước, còn Đức Giêsu làm phép rửa trong Thần Khí. Ngoài ra, còn phải kể đến sự thay đổi về “tiếng nói”. Ông Gioan nghe Tiếng Nói và ông chỉ là người làm dội lại. Ông công bố cuộc chiến với Thần dữ. Còn Đức Giêsu chính là Lời sống động của Thiên Chúa, như lời ông Gioan loan báo và được Chúa Cha xác nhận. Người chính là điểm nối giữa hai giao ước. Người là trung tâm, là cốt lõi của mặc khải đem lại ý nghĩa trọn vẹn cho những điều đã được nói trước và những điều sẽ được nói sau này. Như vậy, theo thánh Luca, Đức Giêsu là một trường hợp ngoại thường về mọi khía cạnh. Tác giả Tin Mừng thứ ba nhận định rõ mối khác biệt về đẳng cấp giữa vị ngôn sứ của Giao Ước Cũ và vị ngôn sứ của Giao Ước Mới. Tuy vậy, Đức Giêsu cũng tuyên dương phẩm cách và vai trò đặc biệt của vị Tiền Hô : “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả” (Mt 11,11). Thánh Luca sử dụng một công thức đơn giản, nhưng rất quyết liệt : “Đấng quyền thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người...” (Lc 3,16). Người ta có thể nghe thấy câu nói này nơi nhiều ông thầy khi ông nhận ra tài năng của người học trò. Tuy nhiên, câu nói này của ông Gioan còn có ý nghĩa quan trọng hơn nhiều : “Có người đến sau tôi, nhưng trổi vượt hơn tôi, vì có trước tôi” (Ga 1,30). Lời tuyên bố này làm người ta liên tưởng đến câu mở đầu Tin Mừng thứ tư : “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời” (Ga 1,1). Do đó, tiếng nói từ trời vọng xuống khi Đức Giêsu chịu phép rửa không còn là lời tiên tri, không còn là lời hứa, nhưng chính là tiếng nói của mặc khải, tiếng nói của sự hiện diện, Đấng từ Ta mà đến, chính là Lời Ta. Nơi Người có tràn đầy Ân Sủng và Sự Thật. Hiện diện bằng lời "Thiên Chúa, Đấng từ trước tới nay vẫn ẩn mình, nay đã không còn muốn chỉ là Thiên Chúa dành cho những nhà thần bí hay một vài người muốn phiêu lưu tìm về tuyệt đối. Người đã muốn trở thành Thiên Chúa cho mọi người, cho cả nhân loại, kể cả những cô gái điếm, người thu thuế, người ở thôn quê lẫn người ở thành thị. Chính vì thế, Người đã cho Dân Do thái biết rằng Người sẽ không còn hiện diện với họ qua lời nói, qua các ngôn sứ. Đây chính là nét mới của mặc khải. Từ nay, ngọn lửa sẽ là lời nói. Tuy nhiên, cần phải lưu ý : không phải là bất cứ lời nói nào, không phải là bất kỳ một ngôn sứ giả danh nào. Thời đại chúng ta có rất nhiều tiếng nói hoa mỹ của những người muốn mê hoặc quần chúng để phục vụ cho kế hoạch riêng tư. Một lời nói mà mọi lương tâm ngay thẳng có thể nhận ra phải chứa đựng sự thật. Lời nói này không vặn vẹo, nhưng có sức xuyên thủng tâm hồn. Lời nói ấy thiêu đốt lương tâm, nhưng là để đánh thức và giải phóng...” (Theo A.M. Bernard). Lạy Chúa, Chúa là Đấng Vô Biên, Chúa là Cha của những người Châu Phi, Xin Chúa thương chúc phúc, (Theo P.Charles, Lời nguyện truyền giáo) Chia sẻ : (Lc 3,10-18) Lời Chúa hôm nay kêu gọi, nhắc nhở hãy khẩn trương chuẩn bị tâm hồn đón mừng Chúa đến, đón mừng lễ Giáng Sinh, cụ thể, trong bài Tin Mừng, thánh Gio-an Tiền Hô đề nghị một trong những cách chuẩn bị rất tốt là thể hiện tình bác ái, thực thi lòng yêu thương với mọi người. Sau nhiều năm sống ẩn dật, thánh Gio-an công khai xuất hiện rao giảng và làm phép rửa. Điệp khúc rao giảng của ngài là “hãy ăn năn, hãy thống hối”. Lời rao giảng của ngài đã khích lệ và làm sóng gió mọi tầng lớp, sử gia Fla-vi-ô đã ghi lại : “Gio-an có ảnh hưởng sâu đậm trên quần chúng đến nỗi họ sẵn sàng làm bất cứ điều gì ông răn bảo”. Vì rao giảng phép rửa thống hối, thánh Gio-an đặt ngay vấn đề : “không phải chỉ chịu phép rửa là xong, nhưng còn phải sinh quả phúc đức thể hiện lòng thống hối ấy”, nên mọi người đều thấy nao núng và phản xạ tức khắc với câu hỏi : “Chúng tôi phải làm gì đây ?”, nghĩa là mọi người đều đến gặp Gio-an để xin ngài chỉ dẫn cách phải sống và việc phải làm. Trong số những người đến với Gio-an, có nhiều thành phần : dân sự, thu thuế, lính tráng. Tùy theo hạng người, ngài đề nghị những việc phải làm khác nhau : dân chúng thì ngài khuyên : hãy chia cơm nhường áo; nhân viên thu thuế được ngài nhắn nhủ : đừng bội thu để nhét vào túi riêng; với lính tráng thì ngài căn dặn : đừng đe dọa ai để tống tiền, hãy bằng lòng với lương bổng của mình. Chúng ta thấy thánh Gio-an rất thực tế và có những giải pháp thích ứng với từng hoàn cảnh, từng loại người. Ngài không bảo mọi người hãy sống như ngài hoặc gia nhập nhóm của ngài, ngài không yêu cầu ai phải làm gì khác thường, cũng không đòi hỏi họ phải đổi nghề nghiệp hay đổi chỗ ở, nhưng ngài khuyên : dù ở hoàn cảnh nào cũng phải biết thắng dẹp tính vị kỷ, bằng cách làm việc bác ái, chia sớt với anh em mình, đó là cách ăn chay đền tội tốt nhất. Thánh Gio-an Tiền Hô, với sứ mạng chuẩn bị tâm hồn dân chúng đón nhận Chúa Ki-tô, ngài đã làm đầy đủ sứ mạng của mình. Đối với chúng ta ngày nay, những lời giảng dạy của thánh Gio-an cũng rất thiết thực trong những ngày chờ đón Chúa giáng sinh, chúng ta cũng cần phải chuẩn bị tâm hồn, nghĩa là mỗi người cũng phải tự đặt câu hỏi như những người đương thời đã hỏi thánh Gio-an : “Còn tôi, tôi phải làm gì ?”, và cách trả lời của ngài vẫn còn giá trị cho chúng ta : mỗi người hãy sống đúng cương vị của mình, hãy hoàn thành trách nhiệm của mình, hãy thực thi tình bác ái huynh đệ và sống trong tương giao tốt đẹp với mọi người, cụ thể, chúng ta hãy san sẻ chia sớt cho nhau : chia sẻ cái mình hơn cho người kém, cái mình có mà người khác không có, và ngược lại, người khác cũng làm như thế, đó gọi là “lá lành đùm lá rách”, “lá rách đùm lá nát”, “em ngã chị nâng, chị ngã em nâng”, “có đi có lại mới toại lòng nhau”. Là con cái Chúa, chúng ta mắc nợ món nợ yêu thương đối với bất cứ ai đang cần được chúng ta giúp đỡ. Chúng ta có bổn phận, có dịp tiện, có khả năng, có người cần thiết, thì sự giúp đỡ này phải được thực thi, và sự giúp đỡ đó phải được coi như một hành động trả nợ, nghĩa là chúng ta bắt buộc phải yêu thương họ để giúp đỡ họ. Chúng ta hãy nhớ : nếu chúng ta đã được Thiên Chúa ban cho hơn người, là để chúng ta có dịp cho đi, để chúng ta có dịp liên hệ đến người khác một cách mật thiết hơn, và để người đó nhận ra bài học Thiên Chúa quan phòng cho đời họ. Cho nên, mỗi khi chúng ta san sẻ cho người khác thì đó là một lần chúng ta tạ ơn Thiên Chúa, là một lần chúng ta trả ơn Ngài qua con cái của Ngài. Hơn nữa, biết đâu một lần giúp đỡ của chúng ta lại không có ảnh hưởng quyết định lôi kéo người anh em ra khỏi mặc cảm tự ti hay khỏi những lúc “đói ăn vụng, túng làm liều”. Xin Chúa cho chúng ta đừng bao giờ gây ra những bất công, đau khổ cho ai xung quanh vì đồng tiền phân bạc. Xin Chúa mở rộng đôi tay và trái tim chúng ta để dù túng thiếu, chẳng còn là bao, mà có người cần tới, chúng ta vẫn sẵn sàng giúp đỡ họ. Xin cho chúng ta biết thương người như thể thương thân, và biết thương yêu nhau như Chúa đã thương chúng ta.
Mừng Vui Lên Anh Em. Thưa quý vị, Xin đưa ra nhận xét nhỏ: Suốt mùa vọng, các ngôn sứ xem ra rất bền gan thậm chí mạnh miệng lạc quan. Những bài đọc một của các Chúa nhật mùa này không hề có lơì tuyên án chống lại bất công và thói giả hình. Mặc dù phần còn lại của các sách Sấm ngôn đều không thiếu kết án. Như vậy trong mùa vọng chúng ta được nghe mặt khác của các lời tiên tri: Những đoan hứa và khích lệ cho kẻ nhát đảm và dân tộc đang chịu tàn phá. Thực vậy, xin lắng nghe Sôphônia: “Reo vui lên hỡi thiếu nữ Xion, hò vang dậy đi nào nhà Israel hỡi. Thiếu nữ Giêrusalem hãy nức lòng phấn khởi, án lệnh phạt ngươi, Đức Chúa đã rút lại”. Thực tế, vị tiên tri đã nhảy cẫng mừng vui. Còn phần sau của sách thì giọng điệu chuyển qua ảm đạm và buồn đau bởi các thất bại của tuyển dân về mặt luân lý và tôn giáo. Trước đoạn trích hôm nay, Sôphônia tiên báo “ngày của Chúa đang đến” (3, 11-13). Ngài sẽ nặng nề trừng phạt tỗi lỗi của tuyển dân. Sau đó ngài dành lại một nhóm nhỏ trung thành, gọi là “Anawim”(người nghèo của Thiên Chúa): “Bấy giờ ta sẽ đuổi cho khuất mắt Sion những kẻ kiêu căng đắc thắng và ngươi sẽ không còn nghênh ngang trên núi thánh của ta nữa. Ta sẽ cho sót lại giữa ngươi một đám dân nghèo hèn và bé nhỏ. Chúng sẽ tìm nương ẩn nơi danh Đức Chúa”. Những kẻ nghèo hèn này được thừa hưởng Tin Mừng của Sôphônia, khi ngày của Đức Chúa tới. Những ai tuân giữ giao ước, chẳng có chi phải sợ hãi. Thiên Chúa sẽ ngự giữa họ để bênh vực chở che: “Này Sion đừng sợ, chớ kinh hãi rụng rời. Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi. Người là vị cứu tinh, là Đấng anh hùng”. Ngày ấy ngay cả người công chính cũng được canh tân trong tình yêu Thiên Chúa, cho nên là cơ hội tốt cho mọi nỗi vui mừng. Nhưng ngài sẽ đối xử thế nào với tội lỗi và tội nhân? Sẽ là tai hoạ cho các kẻ mắc tôi? Không hẳn vậy, bởi vì bài đọc 2 và 3 tuyên bố Tin Mừng cho họ. Thánh Luca viết: “Ngoài ra ông còn khuyên dân nhiều điều khác nữa, mà loan báo Phúc Âm cho họ”(bài đọc 3). Còn bài 2 thánh Phaolô khuyên tín hữu thành Philiphê: “Thưa anh em, anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em”. Như vậy không vì lý do nào mà tội nhân phải sợ hãi, nhưng hãy tin tưởng vào lòng Thiên Chúa nhân từ luôn rộng lượng thứ tha ( xin nhắc quý vị giảng thuyết: Mùa vọng và mùa chay, 3 bài đọc của mỗi Chúa nhật liên kết với nhau thành một chủ đề, khác với mùa thường niên, bài đọc 2 thường độc lập theo một dàn bài riêng. Xin cố gắng tìm ra chủ đề, mùa TN thì không được đâu). Khi còn cử hành phụng vụ bằng tiếng Latinh, Chúa nhật hôm nay được gọi là Chúa Nhật mừng vui lên “Gaudete Dominica”. Ngôn từ đã thay đổi, nhưng nội dung còn y nguyên. Vào giữa mùa đợi trông này, tín hữu được mời gọi “hãy vui lên”. Tại sao? Xin thưa vì Chúa đã gần đến. Thánh Phaolô trong thơ Philiphê lấy lại thông điệp của ngôn sứ Sôphônia nói với thiếu nữ Xion để an ủi tín hữu của ông đang trong cơn u sầu nhát đảm vì các khó khăn trong đức tin. Ong cũng kêu gọi chúng ta ở thời đại nản lòng này với bao nhiêu cám dỗ của tiện nghi vật chất, khiến chúng ta dễ dàng từ bỏ lòng đạo đức mà chạy theo thế gian. Thiên Chúa sẽ toàn thắng tội lỗi, nhưng thương sót tội nhân. Chẳng hiểu chúng ta lắng nghe lời Ngài hay sáng tai họ, điếc tai cày, ưa thích sung sướng xác thịt mà bịt tai trước lời kêu gọi của Phaolô? Thông điệp của ông quả thật là tin vui và là lý do chính đáng để các tín hữu mừng vui luôn trong Chúa. Phải chăng thánh nhân lạc quan cách khờ dại? Sống trên mây gió, hoàn toàn cắt đứt với thực tế? Nếu chúng ta ăn ở không đúng với ơn gọi Kitô hữu thì qủa thật như vậy. Nhưng đàng này ông đang ở tù, viết cho các tín hữu cũng đang chịu bách hại thì không thể tưởng tượng ông xa thực tế. Thánh nhân viết: “Quả thế, nhờ Đức Kitô anh em đã được đặc ân chẳng những tin vào Người, mà còn được chịu đau khổ vì người. Nhờ vậy, anh em được tham dự vào cùng một chiến đấu như tôi” (1, 29-30). Vậy khi kêu gọi tín hữu “hãy vui lên trong Chúa”, thánh nhân không bảo chúng ta nhắm mắt trước đau khổ và bất công để đeo lấy mắt lạ “vui vẻ” hoặc dùng một thành ngữ quen thuộc hơn trong đạo là “ăn bánh vẽ”, mà thực sự đưa mắt nhìn những vật lộn cay đắng người tín hữu phải đối mặt hàng ngày: chiến tranh , áp bức , bạo lực, siđa, AIDS, nghèo khó, tu sĩ lạm dụng tình dục… nhưng vẫn lạc quan vì sự dữ không thể hoành hành mãi, Chúa đã tới gần. Ngài sẽ dẹp yên sóng gió ba đào. Thánh nhân khuyến khích hy vọng, không phải vì dễ dàng tìm ra giải pháp cho những khó khăn, nhưng chỉ vì ở giữa chúng ta ông tin tưởng chúa sắp hiện diện. Quả là một đức tin mạnh mẽ. Nhưng xin đừng hiểu lầm đức tin của Phaolô. Với giọng điệu lạc quan thánh nhân không khuyến khích tín hữu “dễ dãi” với cuộc sống, tiếng Pháp gọi là “laissez faire la vie” thái độ buông thả. Đó không phải là lối sống của thánh nhân. Trái lại, ông luôn cố gắng mang ánh sáng đến với những ai “ ngồi trong bóng tối sự chết”. Thánh nhân khuyên nhủ tín hữu Philiphê : “bình an của Thiên Chúa là bình an vượt trên hết mọi hiểu biết sẽ giữ lòng trí anh em được kết hợp với Đức Giêsu Kitô”. Vậy người tín hữu không có chi phải sợ, cả về tôi riêng, cả về nếp sống xấu xã hội đã in đậm dấu vết nơi văn hoá thế giới. Và để được mục tiêu ấy người Kitô hữu phải chăm chú vào việc cầu nguyện: “Anh em đừng lo lắng gì cả, nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn”. Chỉ còn hơn tuần lễ nữa là đến Giáng sinh. Mọi sự sẽ trở nên náo niệt, và có thể là vượt khỏi tầm kiểm soát của chúng ta. Do đó thánh Phaolô muốn giữ tín hữu vào ý chính của mùa vọng: Chúa đã đến gần. Thế gian và tội lỗi không thể đè bẹp các linh hồn, miễn là chúng ta chú tâm vào Đức Kitô, bày tỏ hy vọng, biết ơn Thiên Chúa trong lời cầu nguyện, hiếu hoà rộng rãi với mọi người. Còn về những gì mà chúng ta phải làm để đón Chúa thì thánh Gioan rất cụ thể và rõ ràng: ai có hai áo thì chia cho người không có, ai có gì ăn uống thì cũng làm như vậy. Thánh nhân còn nói với thính giả của mình: “Nòi rắn độc kia ai chỉ cho các anh cách trốn tránh cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời sắp giáng xuống.” Thánh nhân chẳng bao giờ là một nhà rao giảng nhu nhược. Ong triệt để nghiêm khắc và thẳng thắn. Đó là đặc tính của ngôn sứ. Chúng ta đừng mị dân, nói những lời êm tai vừa ý, chẳng tác dụng gì đâu. Tuy cứng cỏi nhưng Gioan lôi kéo được đám đông. Họ ăn năn hối cải và hỏi thánh nhân: Chúng tôi phải làm gì? Thánh nhân trả lời đơn giản: hãy ăn ở tốt lành và trung tín với Thiên Chúa, để tỏ ra xứng đáng là dân riêng của Ngài, phản ánh đúng tinh thần Anawim mà Xôphônia miêu tả. Có lẽ lúc ấy, đám đông mong đợi một nhiệm vụ nặng nề hơn, như các ngôn sứ xưa thường đòi hỏi. Họ phải thi hành những bổn phận khó nhọc để minh chứng đã thay đổi con tim. Vậy thì chúng ta cũng ở trong tình huống tương tự: Chúa không đòi hỏi những công việc to lớn nhưng những sinh hoạt bình thường với con tim tốt lành, lưu tâm đến những kẻ nghèo khổ: ai có hai áo thì chia cho người khác không có, đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định, chớ hà hiếp ai, đừng chiếm đoạt của người, bằng lòng với lương bổng của mình. Những việc làm rất dễ thực hiện trong cuộc sống Vậy mà nhiều người không làm được hay không muốn làm thì sao gọi được là sửa soạn con đường cho Chúa đến? Chẳng hoá ra người ta chỉ kêu la vớ vẩn như kiểu 450 tư tế của Baal xưa! Xin lưu ý lời Gioan tẩy giả, ai có hai áo thì chia cho người không có. Ong đòi hỏi một nửa gia tài người ta sở hữu. Cho nên chẳng bao giờ chúng ta thi hành đầy đủ bổn phận bác ái. Xin đừng tự mãn trong nếp sống đạo đức của mình. Suy rộng ra thánh Gioan căn bản khuyên các thính giả của ông: hãy trung thành trong vai trò của mình: làm cha mẹ tốt, láng giềng thân thiết, công nhân lương thiện, viên chức công bằng…nếu họ giữ địa vị nào đó trong xã hội (tư tế, binh lính, thu thuế) thì đừng dùng quyền bính và sức mạnh mà hà hiếp dân lành. Hãy ăn ở công bằng với mọi người, nhất là giúp đỡ những ai nghèo khổ, thấp cổ bé miệng. Tôn giáo của chúng ta không phải ở đời sau hay trên ngọn núi cao vời. Mà là ở mặt đất gồm những người bằng xương bằng thịt, có đặc tính sống thánh thiện toàn vẹn, đối xử với nhau với lòng tôn trọng. Thánh nhân kêu gọi mọi người bằng lòng với tài sản hiện có và chia sẻ với những ai thiếu thốn. Trong Phúc Âm Luca, Gioan Tiền Hô giữ vai trò quan trọng. Hôm nay, lời ông nói, việc ông làm nổi bật trong bài đọc và thánh lễ. Những ai lắng nghe ông không chỉ bằng lòng với nội dung thông điệp mà còn bày tỏ tâm hồn mình bằng hành động, thay đổi con tim, nếp sống. “Chúng tôi phải làm gì?” câu họ hỏi cũng là câu hỏi của chúng ta, của mỗi tín hữu trong mùa vọng này. Chúng ta cũng phải phản ứng theo lời chỉ bảo của thánh nhân để bày tỏ những điều mình tin và lãnh nhận. Đừng chần chừ lườn khườn, hoãn lại công việc cật vấn lương tâm vào thời gian khác. Chẳng vậy mùa vọng của chúng ta ra vô ích. Thánh Gioan rao giảng với luận điệu khẩn trương chứ không phải tà tà như người ta nhâm nhi càphê: “Này cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa”(Mt 3, 10). Đối với người tín hữu chân chính, không có thời gian để phí phạm. Tiếp theo Gioan cho biết ông làm phép rửa trong nước. Nhưng Đấng đến sau, mạnh thế hơn ông, trong Thánh Thần và lửa. Như vậy là để tinh lọc tâm hồn người ta. Cho nên ông khuyên sám hối ăn năn và thay đổi nếp sống. Sửa soạn con đường Chúa đến bằng linh hồn thanh sạch. Khi Ngài đến Ngài sẽ nhận chìm nhân loại vào khổ nạn, sự chết và sống lại của mình. Ngõ hầu chúng ta được sạch tội. Bổn phận mỗi người là duy trì sự dấn tân vào sứ vụ của Đức Kitô trong Thánh Thần và lửa, ngõ hầu hành động vì tình yêu và phục vụ tha nhân vì tinh thần Phúc Âm chứ không phải nịnh bợ Chúa để được Ngài ban ơn. Chúng ta luôn phải ý thức ngày của Chúa đã tới gần và hạ quyết tâm suốt đời phục vụ Ngài. Thực ra chẳng bao lâu nữa thánh Luca sẽ để ông Gioan lui vào hậu trường với sứ vụ luân lý của ông. Đức Kitô công khai hoạt động ban lời hằng sống và là trung tâm điểm thu hút lòng trí chúng ta, ngõ hầu chúng ta tỉnh tức đón chờ ngày Ngài trở lại. Trên trái đất này luôn đầy dẫy những đau khổ nhọc nhằn. Chúng ta chẳng thể giải quyết tất cả. Nhưng vẫn có khả năng làm điều chi đó tốt cho nhân loại. Phúc Âm hôm nay kêu gọi chúng ta nhận thức Thiên Chúa là Đấng nào, thực hiện những gì cho chúng ta trong Đức kitô? Thánh thể là cơ hội tuyệt hảo để chúng ta thờ phượng, tạ ơn, ngợi khen Ngài. Khi ra về đừng quyên loan báo cho thế gian Tin Mừng tốt lành mà chúng ta kinh nghiệm trong thánh lễ. Chúng ta làm việc này trong sinh hoạt hằng ngày: An ở khiêm tốn, chính trực, nhận ra sự dữ ở đâu? Ai cần nâng đỡ, ai cần lắng nghe, ai cần an ủi, ai cần chữa trị? Ước chi những người gặp gỡ chúng ta đều nhận biết rằng: “Chúa đã đến gần” để sửa soạn tâm hồn đón tiếp Ngài. Nếu như qua chúng ta mà họ có thể tin vào các ngôn sứ, các thánh sử thì quả thật, chúng ta có muôn vàn lý do để mà phấn khởi vui mừng: “Rejoice, Gaudete”. Lời hay ý đẹp: Tôi không có bí quyết chỉ cho bạn thành công, nhưng có bí quyết chỉ cho bạn thất bại. Đó là bạn hãy cố gắng làm hài lòng mọi người. (một tác giả Đức)
Hãy mở cửa lòng, chào đón Đấng Cứu Độ Trong các Chúa Nhật Mùa Vọng, Chúa Nhật III Mùa Vọng hôm nay diễn tả niềm vui đặc biệt ngày Đấng Cứu Thế sẽ đến với nhân loại. Sự xuất hiện của Gioan Tẩy Giả chứng thực : Thời kỳ đã mãn và triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Đã đến lúc con người không còn phải trông mong, ngóng chờ Đấng Cứu Độ nhưng đến lúc con người phải ăn năn sám hối, tin vào Tin Mừng và mở rộng cửa lòng để chào đón Đấng Cứu Độ. Thưa Thầy, chúng tôi phải làm gì ? Dân chúng khắp nơi nghe thấy lời ông Gioan rao giảng, trong đám đông hẳn nhiên sẽ có một số người chế nhạo ngài và thẳng thừng làm ngơ, nhưng còn một số khác nữa nhận biết từ thâm sâu cõi lòng mình sự sai trái của họ. Thái độ cúi mình để xin Gioan làm phép rửa của dân chúng là một hành vi khiêm tốn nhìn nhận mình tội lỗi, đã làm nhiều điều sai quấy. Trong bài phúc âm hôm nay, các người thu thuế đã nhận ra mình có lỗi trong việc thu thuế quá mức; đám lính tráng nhận thấy mình thường hay bắt nạt dân chúng; còn tất cả dân chúng đều nhận ra tội không biết chia sẻ phần của cải dư thừa cho những người túng thiếu. Những lời rao giảng mạnh mẽ, vạch trần sự thật của ông Gioan dường như đã chạm vào vùng thâm sâu dễ tổn thương nhất của dân chúng. Ngài đòi buộc dân chúng xét lại tâm hồn mình và sám hối nhận biết lỗi lầm của mình. Ngài còn đòi họ phải từ bỏ tội lỗi để quay về cùng Thiên Chúa. Mỗi người hãy thay đổi đời sống cụ thể của chính mình, chẳng phải ăn chay, cầu nguyện hay dâng lễ vật đền tội mà chính là thực thi công bình và bác ái đối với tha nhân. Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, phần chúng con, mỗi người chúng con cũng tự hỏi mình với Chúa rằng : Chúng con phải làm gì để đón chờ ngày Chúa đến ? Có lẽ thái độ cúi mình là điều cần thiết để chúng con nhận ra những lỗi lầm khuyết điểm của chính mình. Chúng con phải chân nhận rằng chúng con là những kẻ có tội nên chúng con cần đến lòng thương xót của Chúa. Xin đừng để trái tim chai đá của chúng con trở nên khô héo. Xin đốt lên trong tâm hồn chúng con ngọn lửa của Lời Ngài để Lời Ngài soi thấu vào tận tâm can cõi lòng chúng con, giúp chúng con mở rộng lòng đón chờ ngày Chúa đến. Chúa ơi, thế giới hôm nay vẫn còn nhiều người sống trong bóng tối tội lỗi. Nhiều tâm hồn Kitô hữu đã trở nên chai đá nguội lạnh vì sống thiếu tình thương. Có những tâm hồn không còn cảm thấy mình tội lỗi. Nhiều người đã mất dần cảm thức về tội, không biết mình đang sống trong tình trạng tội lỗi. Xin Chúa đánh động tâm hồn họ qua tiếng nói của lương tâm và của Lời Ngài để giúp họ thức tỉnh, quay trở về với đời sống mới. Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, mùa vọng chính là thời gian thuận lợi giúp chúng con chuẩn bị tâm hồn để đón nhận ân sủng Chúa ban. Tâm hồn chúng con càng trở nên trống rỗng thì ân sủng của Chúa sẽ đầy tràn. Bí tích hòa giải là phép rửa thanh tẩy tâm hồn chúng con nên trong sạch, giúp chúng con mở rộng lòng đón chờ ngày Chúa đến. Lạy Chúa, chỉ có nhận ra tình yêu của Chúa mới giúp chúng con hoán cải trở về. Nhận ra tình yêu của Chúa là điều cần thiết trong cuộc đời mỗi người chúng con. Xin cho chúng con nghiệm thấy được tình thương của Chúa để chúng con có thể đón nhận mùa hồng ân này thật xứng đáng. “Lạy Chúa là núi đá cho chúng con trú ẩn, là Đấng cứu chuộc chúng con, cúi xin Ngài vui nhận bấy nhiêu lời miệng lưỡi thân thưa, và bao tiếng lòng chúng con thầm thĩ mong được thấu đến Ngài.”(TV 19,15). Xin Ngài hãy đến, xin đến để cứu độ chúng con. Hồn chúng con đang khao khát Ngài. Mỗi Ngày Chọn Một Niềm Vui Nhìn thẳng vào sự thật cuộc sống, Ðức Phật nói : “Ðời là bể khổ.” Chúa Giêsu cũng đồng ý khi thấy cuộc đời ngổn ngang những gánh nặng nề[1] và cây thập giá.[2] Ai cũng đồng ý bể khổ và thập giá đều là những hình ảnh cực tả về sự thật cuộc sống. Thế nhưng, giữa thực tại đau thương đó, tại sao thánh Phaolô lại kêu lên : “Vui lên anh em !”[3] Phải chăng đó là một tiếng kêu lạc lõng của một con người hoang tưởng ? Thực tế, tiếng kêu đó phát xuất từ một con người đang sống giữa vùng cay đắng nhất của bể khổ. Suốt đời thánh Phaolô đã trải qua cảnh “ba chìm, bảy nổi, chín lênh đênh.” Cuối cùng ông đã phải máu đổ đầu rơi. Ông đã viết lời kêu gọi đầy lạc quan đó lúc ngồi tù ở Êphêsô giữa bao xiềng xích, gông cùm, đòn vọt. Vậy tại sao ông có thể có cái nhìn tích cực như thế về cuộc đời ? Giữa bể khổ cuộc đời, niềm vui vẫn là một điều hiếm hoi và kỳ diệu. Nhưng đối với những người tin tưởng nơi Chúa, cuộc đời là một Tin Mừng. Dù cả cuộc đời đầy đau thương và khổ giá, Chúa Giêsu đã luôn sống và hoạt động để đem lại niềm vui và hy vọng cho người nghèo khổ, bệnh tật và chết chóc. Bởi thế, thánh Phaolô thấy không có lý do gì phải buồn nản khi được chia sẻ thân phận và sứ mệnh với Chúa Kitô. Sứ mệnh đó nhằm xây dựng Nước Thiên Chúa, tức là “sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.”[4] Người môn đệ Chúa Kitô hy sinh cả đời xây dựng Nước Thiên Chúa. Khổ đau trở thành phương tiện cần thiết cho nhân loại ngày càng sống công chính, bình an, vui tươi và hạnh phúc hơn. Có khi phải hy sinh cả tính mạng cũng chưa đạt kết quả. Nhưng người môn đệ vẫn tin vào cuộc chiến thắng cuối cùng của Triều Ðại Thiên Chúa nơi trần gian. Nước Chúa sẽ đến mang theo hòa bình, ân sủng, sự sống cho toàn thể nhân loại. Vì thế, chỉ những ai tin Chúa sẽ đến, mới có thể hưởng được tất cả niềm vui cứu độ trong Nước Chúa, vì họ đã quan tâm tới Thiên Chúa và tha nhân đúng mức. Triều Ðại Thiên Chúa đã, đang và sẽ đến với nhân loại. Ngày xưa, Ítraen đã vui mừng biết bao khi nghiệm thấy Thiên Chúa hiện diện giữa dân tộc.[5] Sự hiện diện đầy ắp sức mạnh và tình thương sẽ là một bảo đảm vững chắc cho toàn dân sống an bình và hạnh phúc. Khi hiện diện giữa dân tộc, “Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới”[6] họ nên công chính. Niềm vui quá lớn đến nỗi “Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội.”[7] Niềm vui của Chúa trở thành sức mạnh cho dân Người.[8] Ðó là cách diễn tả niềm “hoan lạc trong Thánh Thần.” Ðó cũng là dấu chỉ những ai thuộc về Nước Thiên Chúa. Nắm vững động lực đó, thánh Phaolô mạnh dạn nói : “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa.”[9] Trong lịch sử dân Chúa, những nhân vật nổi tiếng về sự công chính đều tràn ngập niềm vui, mặc dù sống giữa trăm ngàn thử thách. Họ hết tâm tuân giữ Luật Thiên Chúa để trở nên công chính. Sống công chính là sống đúng ý Thiên Chúa, nghĩa là sống trong Giao ước của Người. Giao ước mở ra những mối liên hệ thâm sâu với Thiên Chúa và tha nhân. Những cuộc gặp gỡ hàng ngày phơi bày đủ thứ, từ những cái rất tầm thường đến những điều quan trọng, từ những điều êm xuôi đến những trắc trở. Mỗi lần gặp gỡ như thế, chúng ta đều phải nhận ra tha nhân và quyền lợi của họ. Ðúng hơn, chúng ta nhìn nhận nhau là anh chị em, vì tất cả đều được Chúa sinh ra theo hình ảnh và họa ảnh Người. Có như thế, chúng ta mới có thể lựa chọn niềm vui đích thực cho chính mình và tha nhân. Giữa bao nhiêu cám dỗ thời đại, họ phải luôn lựa chọn giữa cái tốt và xấu, giữa công bình và bất công, giữa niềm vui và nỗi buồn. Nhiều người đã có những lựa chọn sai lầm vì đã không sống theo những đòi hỏi của sự sống và tình yêu đích thực. Sự sống và tình yêu là những giá trị vượt trên quyền lực, khoái lạc, tiền của. Chỉ những giá trị đích thực đó mới đem lại niềm vui cho con người. Sống trong một xã hôi ồn ào hôm nay, con người vẫn có thể nghe thấy tiếng mời gọi lựa chọn niềm vui đích thực.[10] Nhưng muốn nghe rõ tiếng mời gọi đó, con người phải hồi tâm và khiêm tốn thú nhận mình yếu đuối. Chỉ trong thinh lặng, con người mới có thấy rõ nguồn gốc phát xuất niềm vui đích thật là chính Thiên Chúa. Nhờ đó, tương quan với tha nhân mới có giá trị và ý nghĩa. Nếu không, chỉ còn những quay cuồng vô nghĩa. Tương quan giữa con người không dừng lại ở những đòi hỏi công bình tối thiểu. Không đếm xỉa tới lòng quảng đại, công bình sẽ không đạt tới mức toàn hảo. Công bình không còn phải là công bình nữa. Công bình đòi phải có nền tảng vững chắc để phát triển tới mức trưởng thành thực sự. Công lý chỉ đạt được tới mức trưởng thành khi đi với tình yêu. Công lý là một bước đi cần thiết trước khi tới mức trưởng thành trong tình yêu. Nhờ đó, công chính mới có thể dẫn tới “hoan lạc trong Thánh Thần,” và là nền tảng vững chắc cho niềm vui. Sống trong ân sủng và tình yêu Thiên Chúa, thánh Phaolô vô cùng vui sướng, đến nỗi ông cảm thấy không gì có thể tách ông khỏi tình yêu của Ðức Kitô.[11] Nếu tình yêu con người đã tạo nên bao nhiêu niềm vui, làm sao tình yêu Thiên Chúa thua tình yêu con người được ? Trái lại, vượt xa con người, tình yêu Thiên Chúa vô cùng mãnh liệt, vững chắc, nồng nàn, sâu thẳm và bao la. Chỉ trong tình yêu vô cùng sung mãn đó, con người mới có thể kiếm thấy niềm vui bất tận. Vì thế, thánh Augustinô đã phải kêu lên : lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa. Con tim con chỉ hoàn toàn vui thỏa khi nào được nghỉ yên trong Chúa mà thôi.” Niềm vui là bầu khí trong Nước Trời và là hơi thở của những môn đệ Chúa Kitô. Không vui không thể có sức mạnh xây dựng Nước Trời. Niềm vui bắt nguồn từ niềm tin. Có niềm tin, con người mới tìm được hứng khởi và sức mạnh tuân giữ những đòi buộc luân lý như ông Gioan Tẩy Giả đã kêu gọi để chuẩn bị đón chào Nước Chúa. Hơn nữa, niềm tin không chỉ giới hạn trong những đòi hỏi luân lý, nhưng quyết liệt hơn. Con người còn có thể vượt lên trên những đòi hỏi thường tình để thực hiện những điều lớn lao hơn. Ðúng thế, Chúa Giêsu đã mở ra một chân trời mới cho những ai muốn hy sinh tất cả vì Nước Trời. Dầu sao, càng nghe Gioan Tẩy Giả, càng thấy rõ sự khác biệt và trổi vượt của Chúa Giêsu, Ðấng Cứu độ muôn dân. Trên bước đường cứu độ, Chúa đã đi sát từng người. Khi nhìn đến dân chúng, Chúa Giêsu đã cho mọi người thấy rõ sự quan tâm đầy trìu mến của Người. Cái nhìn đó đã nâng đỡ, đồng hành, tiếp nhận và nâng cao những ai đang vác thập giá theo Người. Bởi vậy, Người đã trở thành người anh em của mọi người. Dân chúng đã tuốn đến với Người để hưởng tất cả tình yêu thương và kính trọng của Người. Người gặp gỡ và đối thoại với mọi hạng người. Chúa tha thứ và cứu mọi người khỏi thói quen khinh thường và vô tâm trước tha nhân. Không ai có thể hiểu nổi Thiên Chúa khi Người sai Con Chúa đến trần gian mạc khải tình yêu vô cùng quảng đại của Người. Ðối với những người có quyền trong đạo hay ngoài đời, Chúa Giêsu không sợ làm chứng cho sự thật, dù phải mất mạng. Ðối với những người yếu thế, Người không coi thường hay tảng lờ trước những yêu cầu hay nguyện vọng của họ. Người biết trả về cho Xêda những gì của Xêda, cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa, cho anh em những gì của anh em. Cũng như các ngôn sứ, Người mời gọi chúng ta đi vào cuộc hiệp thông với Thiên Chúa và anh em. Thánh Gioan Tẩy Giả kêu gọi mọi người chú ý tới phẩm chất của những tương quan đó, những tương quan đòi chúng ta phải hy sinh cả một cuộc đời. Tất cả giá trị cuộc đời đều tùy thuộc vào đó ! Tóm lại, khi ơn cứu độ đến với muôn dân, niềm vui tràn ngập. Niềm vui đó phát xuất từ niềm tin. Nước Trời và tình yêu Thiên Chúa nơi Ðức Kitô Giêsu là nguồn gốc và nền tảng vững chắc bảo đảm niềm vui cứu độ đã đến với toàn thể nhân loại. Mỗi ngày cố gắng sống công chính và yêu thương anh em hơn là chọn một niềm vui đích thực cho mình và cho người. Lạy Chúa, xin cho con mỗi ngày chọn một niềm vui để đón chờ Con Chúa sắp đến viếng thăm chúng con. Amen. Lm. Jude Siciliano, OP. Hãy vui lên! Xp 3,14-18a; Pl 4,4-7; Lc 3,10-18 Kính thưa quý vị, Dòng cuối của bài Tin mừng hôm nay tóm tắt tất cả nội dung bài Tin mừng, mô tả những gì dân chúng nghe được từ ông Gioan Tẩy Giả, “ông còn khuyên dân nhiều điều khác nữa, mà loan báo Tin Mừng cho họ”. Chúng ta thường chờ đợi một tin vui khi lắng nghe Lời Chúa, việc dân chúng đáp lại lời giảng của Gioan nhắc nhở chúng ta biết điều gì xảy đến cho những ai lắng nghe Lời: “Dân chúng đang trông ngóng”. Tất cả các bài đọc hôm nay đều nói đến việc đáp lại Lời Chúa – niềm vui, hoan hỉ, sung sướng, hò vang dậy, tạ ơn, bình an và mong đợi. Hôm nay, lời mời gọi hãy vui lên được lặp đi lặp lại, những lời đầu tiên chúng ta bắt gặp nơi Xôphônia. Ông mở đầu bài viết với niềm hoan hỉ, “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xion! Hò vang dậy đi nào, nhà Israel hỡi!” Thật bất thường đối với một ngôn sứ được mệnh danh là “ngôn sứ của sự bi quan!” Hai chương đầu của sách Xôphônia lên án và cảnh cáo Giêrusalem, “thiếu nữ Xion”, tiên báo thảm họa vì dân đã bất trung. Nhưng đoạn văn hôm nay lại nói đến một ngày sắp đến khi Thiên Chúa tiêu diệt kẻ thù đã triệt hạ thành thánh và khiến dân phân tán. Vị ngôn sứ hứa rằng “ngày của Đức Chúa” đang đến, một ngày vui cho những ai luôn tỉnh thức và không ngừng hy vọng nơi Thiên Chúa. Vị ngôn sứ trước hết lên án dân vì bao tội lỗi của họ. Nhưng Thiên Chúa không bỏ rơi dân của Ngài, như Xôphôia đoan hứa, “Người sẽ lấy tình thương mà đổi mới ngươi”. Đâu là lý do khiến dân vui sướng? Thiên Chúa sắp đến để ban ơn thứ tha và tái thiết giao ước với họ. Đó là điều mà chúng ta khẩn nguyện và đợi trông trong suốt Mùa Vọng này: Thiên Chúa sẽ trở lại với chúng ta; tội lụy của chúng ta sẽ được rửa sạch; tinh thần chuẩn bị và những thực hành đạo đức không ngừng sẽ mang lại một đời sống mới nhờ hơi thở của Thánh Thần Chúa. Hầu hết chúng ta đều đã sống đức tin trong suốt thời gian dài. Có lẽ cũng đã trở nên đều đặn và khuôn phép. Chúng ta hiếm khi tham dự Thánh lễ Chúa Nhật mà thấy muốn la lên vì vui sướng, như vị ngôn sứ mời gọi (đừng có cố la to, coi chừng ban tiếp tân mời quý vị ra ngoài đấy!). Chúng ta biết những gia đình hoặc bạn bè mình đã bỏ nhà thờ vì nhiều lý do; có thể do nhàm chán. Chúng ta cần một “ngày của Chúa” mới mẻ, một lần Chúa đến trong tinh thần ủ rũ của chúng ta. Có thể, như Xôphônia nói, Thiên Chúa đang đến và thực sự đã đến, và “đang ở giữa ngươi” rồi. Chúng ta hãy cầu xin cho được mở lòng ra trong Mùa Vọng này để sẵn sàng đón Chúa, Đấng luôn sẵn sàng ngự đến. Gioan Tẩy Giả nói với đám đông rằng: Thiên Chúa sắp thực hiện một điều mới lạ và Đấng đang đến “…sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa”. Trong khi giới kinh doanh thông báo với chúng ta “còn chín ngày nữa để mua sắm trước Giáng Sinh”, thì Gioan Tẩy Giả chuẩn bị cho chúng ta lửa của Thánh Thần Thiên Chúa. Một điều mới mẻ, trong con người Đức Giêsu, là sẽ đến giải thoát chúng ta khỏi những bận tâm lo lắng cũng như thoát khỏi niềm tin hững hờ. Thay vì dấn sâu hơn vào những mua sắm, thì Mùa Vọng là một lời mời gọi chúng ta thoát khỏi nợ nần của việc tiêu xài và những niềm khao khát đặt không đúng chỗ; đây là cơ hội để Thiên Chúa xây dựng một con đường thẳng tắp dẫn vào tâm hồn và đưa chúng ta ra khỏi nhà tù mà chúng ta tự xây dựng và nhốt mình trong đó. Mùa Vọng là đây, Thiên Chúa đến loan báo ơn giải thoát cho chúng ta! Hôm nay, thánh Phaolô có vẻ như quan trọng. Ngài giống như trưởng đoàn những cổ động viên thắng trận sau mùa World Cup. Nhưng, thực tế không hề suôn sẻ đối với cả Phaolô lẫn tín hữu Philiphê. Các tín hữu tại Philíphê trong tình trạng sợ hãi vì đang bị bách hại. Ngài khích lệ họ hãy đứng vững trong những điều kiện hết sức khó khăn này. Nhưng chính Phaolô cũng đang trong những ngày tăm tối. Ngài viết thư này khi bị giam trong tù. Nhưng, ngài nói với tín hữu Philíphê: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: Vui lên anh em! Chúa đã gần kề!” Vì thế, lý do để vui mừng không phải vì Phaolô và hội thánh Philíphê đang thành công trong một thế giới an bình. Nhưng, lý do là vì Chúa đang đến gần. Khi cuộc đời thử thách chúng ta và Thiên Chúa ra như vắng bóng hay ở rất xa những hoàn cảnh thực tế của những khó khăn thường nhật, thánh Phaolô lại mời gọi chúng ta đáp trả dựa trên những gì ngài đã rao giảng và xác tín. Ngài hối thúc chúng ta phải cầu nguyện “van xin và tạ ơn”. Chính việc cầu nguyện của chúng ta diễn tả hoàn cảnh và cảm xúc của mình ra như mâu thuẫn. Thiên Chúa ở gần kề và bình an luôn có vì “bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Giêsu Kitô”. Chúng ta thường hay liên tưởng việc sám hối với Mùa Chay. Nhưng đó còn là chủ đề yêu thích của Tin mừng Luca. Những người thuộc những cấp bậc ngành nghề khác nhau đến nghe Gioan giảng và băn khoăn: “chúng phải làm gì đây?” Ngài kêu gọi họ thay đổi cách sống; để sống một cuộc đời công chính ngay trong môi trường họ sống và làm việc. Ngài không bảo họ phải bỏ cuộc sống hiện tại để vào trong sa mạc, nhưng hãy sống thánh thiện ngay nơi họ đang sống. Những ai có quyền lực thì ngài bảo hãy đừng tống tiền hay hà hiếp người ta. Một khi họ thay đổi lối sống gian dối, uốn ngay cuộc đời của họ, thì họ sẽ sẵn sàng đón Đấng sắp đến. Tin mừng của Gioan Tẩy Giả thể hiện ở hai điểm: trước hết, dân chúng tin sứ điệp của ngài và thay đổi lối sống; rồi họ sẽ được chuẩn bị sẵn sàng đón Đức Giêsu ngự đến, “Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến”. Và những ai tin thì tinh thần của họ sẽ được phấn khởi. Lời giảng của Gioan Tẩy Giả cho thấy rằng nếu chúng ta muốn cảm nghiệm được thực tại mới mà ngài đang loan báo, chúng ta cần phải lắng nghe lời mởi gọi của ngài để hoán cải. Chúng ta cần phải thay đổi. Lời khẩn nài mà chúng ta thốt lên trong cử hành phụng vụ hôm nay phải là thắc mắc của dân chúng khi hỏi Gioan: “Chúng tôi phải làm gì?” Đó chính là lời cầu nguyện mà chúng ta thưa lên trong từng bước đi trong hành trình Mùa Vọng này. Tôi viết những dòng này khi ngồi chờ ờ phi trường. Một bé gái dễ thương tầm hai tuổi đang chăm chú nhìn qua cửa kính và chỉ cho mẹ ngồi bên cạnh những gì cô bé thấy – phi cơ, xe tải, xe đẩy hành lý và cả mặt trời đang lên. Bà mẹ gọi tên từng thứ mà cô bé chỉ. Tôi thấy cảnh này nhiều lần; nhưng ít khi để ý thấy một ngày mới ngoài kia tuyệt vời làm sao và tất cả mọi việc ngoài ấy đang trôi chảy thế nào. Nhưng cô bé với cái nhìn thắc mắc vỗ tay vui sướng với mỗi khám phá của mình. Người mẹ giống như những thánh ký hôm nay. Các ngài giúp chúng ta hiểu và trân trọng những thứ chúng ta có lẽ đã lỡ mất. Các ngài giúp chúng ta thấy, như thể lần đầu tiên, những gì diễn ra quanh ta. Nếu lắng nghe thông điệp của các ngài, có thể chúng ta sẽ phải xin cho được ơn có cái nhìn thắc mắc như trẻ nhỏ, để lắng nghe và chiêm ngắm như thể ấy là lần đầu tiên. Rồi, giống như trẻ nhỏ, chúng ta vỗ tay cảm nhận những điểu tuyệt vời được tỏ bày cho mình.
[1] Mt 11:28. [2] x. Lc 9:23. [3] Pl 4:4. [4] Rm 14:17. [5] Xp 3:14-16. [6] ibid., 3:17. [7] ibid. [8] x. Nkm 8:10. [9] Pl 4:4. [10] Ðnl 3:19. [11] x. Rm 8:35.39.
|