CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH NĂM B An Phong op : Ngày cầu cho ơn gọi Fr. Jude Siciliano, op : Chúa chiên lành. Fr Jude Siciliano, op : Con chiên xứng đáng trong tay Mục tử Tôma Trần Ngọc Túy op : Chúa chiên lành. Giacôbê Phạm Văn Phượng op : Người Mục Tử Lời Chúa và Thánh Thể : Mục Tử nhân lành hi sinh mạng sống cho đoàn chiên JB Nguyễn Tuấn Dũng op : Tôi c̣n nhiều chiên lạc. Tôi phải đưa chúng về Fr. Jude Siciliano, op : Vị mục tử nhân lành
Ngày
cầu cho ơn gọi Chúa nhật thứ 4 trong mùa Phục sinh thường được gọi là "Chúa nhật Đấng Chăn Chiên lành". Lời Chúa hôm nay tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Chăn Chiên Nhân Lành, đă hiến mạng sống ḿnh v́ đàn chiên, và trở nên mẫu gương tuyệt vời của t́nh yêu Kitô giáo. Hội thánh luôn cần những người chăn chiên theo gương Đức Giêsu, Thầy Chí Thánh, dám hiến mạng sống cho anh em; v́ thế, hôm nay cũng là ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục, tu sĩ. H́nh ảnh Đức Giêsu, Đấng Chăn Chiên Lành, hiện lên sáng tỏ ở chính tâm điểm của mùa Phục sinh. V́ nếu như sự kiện Phục sinh là biến cố chính yếu, trung tâm và quan trọng nhất, th́ h́nh ảnh Đấng Chăn Chiên biểu lộ rơ ràng tầm mức cứu độ của biến cố ấy cho con người. Đấng Chăn Chiên Nhân Lành với một con chiên trên vai, h́nh ảnh đó vốn là điều quen thuộc và thân thương trong bối cảnh văn hóa Kinh thánh. H́nh ảnh đó cho thấy một t́nh yêu gắn bó mật thiết giữa người chăn và đàn chiên. Người chăn chiên chăm sóc từng chút cho chiên, c̣n chiên th́ vâng nghe lời người chăn; người chăn đi trước, chiên theo sau; người chăn đi đến đâu, chiên đi theo đến đó; người chăn gọi chiên, chiên nghe tiếng và "đáp lại"; người chăn đi t́m khi chiên bị lạc; người chăn buồn phiền khi chiên bỏ ăn, đau ốm; người chăn muốn cho chiên b́nh an, hạnh phúc… Đó thực là h́nh ảnh gắn bó giữa Đức Kitô với từng kitô hữu; và nơi đây, ta cảm nhận được mầu nhiệm "Thiên Chúa là t́nh yêu". Mỗi người chúng ta là những người con được Thiên Chúa chăm sóc, ǵn giữ và bảo bọc… điều đó không làm cho tâm hồn chúng ta được b́nh an sao? Chúng ta được Thiên Chúa hiểu, cảm thông và chia sẻ những gánh nặng của đời sống; điều đó không làm cho chúng ta thêm can đảm trên bước trên đường đời sao? Chúng ta được Thiên Chúa yêu thương trong chính t́nh trạng của ta (yếu đuối, tội lỗi...) như những con chiên bệnh tật được yêu thương; đó không phải là một hạnh phúc tuyệt vời sao? Chúng ta được sống trong một cộng đoàn Hội thánh, có một Cha trên trời yêu thương, có những anh chị em cùng hiệp thông; điều đó không phải là một mơ ước sâu xa của nhân loại sao ?
Lạy Chúa Giêsu,
Xin dẫn dắt cuộc đời chúng con,
Xin đưa chúng con
SỨ MỆNH
TOÀN CẦU Ngày nay vấn đề toàn cầu hóa đang được đặt ra ráo riết, để đáp ứng kịp thời với chiều kích lớn lao của kỹ thuật, kinh tế, chính trị, dân số v.v. Trong khi năo trạng "lũy tre xanh" biến mất, thế giới hôm nay trở thành nhỏ bé như một ngôi làng. Nhưng con người lại không biết nhau như một phẩm giá, nhưng như một đơn vị hay như những mă số vô nghĩa. Thông tin ồn ào lấn át cả những tiếng nói của sự thật và luân lư. Đă đến lúc t́m một nền tảng và chiều hướng để việc toàn cầu hóa không mất ư nghĩa và không nguy hiểm cho chính con người. MỤC TỬ NHÂN LÀNH Nền tảng đó có thể t́m thấy nơi Đức Giêsu, Đấng đă Phục Sinh để trở thành "trưởng tử giữa một đàn em đông đúc" (Rm 8:29). Một ḿnh Người mới vạch ra nổi hướng đi cho toàn thể nhân loại, v́ Người chính là "Mục Tử nhân lành" (Ga 10:11). "Đức Giêsu chính là Mục Tử khuôn mẫu v́ tinh thần hi sinh và ư chí tận hiến cuộc đời cho con chiên" (Faley 1994:321). Chính nhờ sự hi sinh can trường của vị Mục Tử, mọi người đă trở thành con cái Thiên Chúa. Bởi thế, sau Phục Sinh, Người đă có sức mạnh qui tụ mọi người dưới mái gia đ́nh Thiên Chúa. Tất cả trở thành anh em, có quyền hưởng ơn cứu độ như nhau. Nếu Đức Giêsu không chết, bức tường ngăn cách vẫn c̣n đó. Không có cách nào xích lại gần Thiên Chúa và tha nhân. Chính cuộc hi sinh lớn lao đó đă xác định bản chất mục tử của Người. Ngược lại, thay v́ chết cho con chiên, người chăn chiên mướn sẵn sàng để con chiên chết thay ḿnh. Quả thực, tư lợi vẫn là tiêu chuẩn phân biệt chân giả. Hơn nữa, người mục tử chân thật đích thân quen biết từng con chiên. Đức Kitô thông cảm với từng Kitô hữu như Chúa Cha hiểu biết Người. Rơ ràng đối với Kitô hữu, Đức Giêsu là một vị Mục Tử chân thật và duy nhất. Đức Giêsu là Mục Tử nhân lành. Người là vị Mục Tử "cao thượng" hay "lư tưởng", chứ không chỉ là vị Mục Tử tốt lành theo nghĩa b́nh thường (The New Jerome Biblical Commentary 1990:968). Người có một trái tim bao la và một cái nh́n sâu sắc về một tương lai tươi sáng của nhân loại. Ṿng tay Người luôn bao bọc mọi hạng người, nhất là những người nghèo khổ, bệnh tật, già nua, yếu đuối, tội lỗi. Người là vị Mục Tử lư tưởng v́ dám đồng hóa với những người thua thiệt đó và đă chết để tranh đấu cho quyền làm người của họ. Không những quyền làm người, nhưng cả quyền làm con Thiên Chúa họ đă dành lại được nhờ cái chết và sự Phục Sinh của Người. Đức Giêsu không dừng lại nơi biên giới Kitô giáo. Người muốn mở rộng ṿng đai. Chính Chúa quả quyết : "Tôi c̣n có những chiên khác không thuộc ràn này" (Ga 10:16). Nghĩa là sứ mệnh Người bao trùm cả dân ngoại. Giấc mộng quá lớn đó phải được Giáo hội chia sẻ. Nói khác, Người muốn "nhấn mạnh đến sứ mạng toàn cầu của Giáo hội" (Faley 1994:323). Sứ mệnh đó được ân sủng Thiên Chúa bảo đảm. "Thật vậy, nếu v́ một người duy nhất đă sa ngă, mà muôn người phải chết, th́ ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, c̣n dồi dào hơn biết mấy cho muôn người" (Rm 5:15). Trong nguồn ân sủng lớn lao đó, Kitô hữu mạnh dạn lên đường làm chứng cho Đức Giêsu, như chính Người đă "tự ư hi sinh mạng sống ḿnh" (Ga 10:18), do đó đă được "Chúa Cha yêu mến" (Ga 10:17). Không có ǵ lớn mạnh hơn t́nh yêu Thiên Chúa. "Bởi ân t́nh Ngài quư hơn mạng sống", nên Kitô hữu rất vững dạ an tâm, (Tv 63:3). Càng hi sinh, họ càng có kinh nghiệm sâu xa về t́nh yêu Thiên Chúa và càng mở rộng chiều kích sứ mệnh cứu độ. "Chính nhờ Đức Kitô quảng đại hiến thân, t́nh yêu Thiên Chúa đối với nhân loại càng tỏ hiện" (Faley 1994:323). TOÀN CẦU HÓA "Mục Tử nhân lành" có một cái nh́n toàn cầu khi muốn vươn tới "những chiên khác không thuộc ràn này", những người cũng sống trong tương quan sâu xa với Người và cũng được Người "hi sinh mạng sống". Khi mở rộng chiều kích sứ mệnh như thế, Đức Giêsu không quên những nhu cầu từng cá nhân. Ước vọng sâu xa nhất của cá nhân cũng như chiều hướng cao cả của cộng đoàn đều được Người chú ư tới. V́ chính Người đă hứa : "Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử" (Ga 10:16). Nếu không có một "Mục Tử nhân lành", nhân loại có thể bị nghiền nát dưới sức mạnh của chiều hướng toàn cầu hóa. Chính ĐGH Gioan Phaolô II cảnh giác : "Những thực tại mới đang ảnh hưởng mạnh mẽ tới tiến tŕnh sản xuất, như là việc toàn cầu hóa : tài chánh, kinh tế, thương mại, lao động, những sự kiện này không bao giờ được phép vi phạm phẩm giá con người hoặc không coi con người là trung tâm của các thực tại này hoặc vi phạm tới nền dân chủ của quần chúng" (VietCatholic 2/5/2000). Biết bao vấn đề đă nảy sinh từ những vi phạm như thế. Bởi vậy, cần nhắc lại cho các nhà lănh đạo thế giới về một nền luân lư toàn cầu. "Nền luân lư toàn cầu t́m hiểu bản chất và những nguyên nhân sinh ra những vấn đề luân lư quốc tế và t́m cách làm cho các cá nhân và cộng đồng nêu các vấn đề đó lên" (Adeney 1995:100). Chẳng hạn, v́ quyền lợi kinh tế, người ta có thể phá hủy môi sinh trên địa cầu hay coi thường những nguyên tắc công b́nh. "Luân lư toàn cầu đặt nền tảng trên việc Thiên Chúa tạo thành toàn thể vũ trụ và việc Người 'thấy thế là tốt đẹp' (Stk 1:31)." Coi thường luân lư toàn cầu là nguyên nhân sinh chiến tranh. Bởi thế, Kitô hữu cần có những hoạt động tích cực trong việc cổ động và sống luân lư đối chiếu với luân lư toàn cầu ngay trong gia đ́nh và cộng đoàn của ḿnh. Tất cả đều nằm trong kế hoạch Phúc Âm hóa thế giới. Cần có một hướng đi cho công cuộc toàn cầu hóa hôm nay. Con người phải là trung tâm và cao điểm của mọi nỗ lực toàn cầu hóa. Nếu không, những hậu quả tai hại khôn lường sẽ xảy ra. Thật vậy, "toàn cầu hóa là một hiện tượng của đời sống hôm nay về mọi mặt, nhưng hiện tượng này cần phải áp dụng cách khôn khéo, đừng gây ra tai hại. Điều cũng thiết yếu là phải toàn cầu hóa tính cách đại kết liên đới con người với nhau" (ĐGH Gioan Phaolô II, VietCatholic 2/5/2000). Nếu vấn đề đại kết được nêu lên như một nỗ lực toàn cầu, chắc chắn mọi người sẽ sớm thấy cảnh ḥa b́nh lâu dài. Mọi người liên hệ với nhau như anh em và đều có trách nhiệm đối với nhau. Những giới lệnh thương yêu của Đức Giêsu liên hệ khẩn thiết tới nền luân lư toàn cầu (Adeney 1995:106). Chính ở điểm này, chúng ta thấy nổi bật vai tṛ cá nhân đối với việc toàn cầu hóa tính cách đại kết giữa các dân tộc. Thực vậy biết bao nhiêu vấn đề toàn cầu do những cá nhân tạo nên như bạo hành, x́ ke ma túy, đĩ điếm, bệnh liệt kháng, phá thai, hôn nhân đồng tính v.v. Quả thực, "cá nhân giừ một vai tṛ rất quan trọng trong việc làm lành hay dữ. Bởi đó, việc cải hóa cá nhân có thể có một tầm quan trọng" (Adeney 1995:106) trong việc đẩy mạnh việc toàn cầu hóa mối tương quan đại kết trên thế giới. Nhưng trong việc toàn cầu hóa liên đới giữa các dân tộc, cá nhân chỉ có thể tạo được sức mạnh thực sự nơi cộng đồng. Đó là lư do tại sao Đức Giêsu luôn kêu mời chúng ta liên kết với Người và với anh em trong một Giáo hội. Chỉ khi nào t́nh yêu Thiên Chúa đối với nhân loại được thực hiện trong Giáo hội, những vấn đề toàn cầu mới được giải quyết và Tin Mừng mới được thế giới lắng nghe. Cần đào sâu niềm tin vào t́nh yêu và sự hiện diện của Thiên Chúa trong lịch sử để ngày càng nhận ra sứ mệnh toàn cầu của Đức Giêsu. Sứ mệnh toàn cầu hóa chứng tá Tin Mừng đ̣i hỏi Kitô hữu thay đổi năo trạng và nếp sống để đáp ứng nhu cầu khẩn thiết của thời đại hôm nay.
Chúa chiên
lành. Thưa quí vị. Trong thời gian tôi sống ở miền West Virginia (Mỹ). Tôi được chỉ định phục vụ một giáo xứ nhỏ. Cộng đồng giáo dân đa số làm phu mỏ và nghề nông. Đây là cơ hội tốt để suy tư về bài Tin mừng hôm nay: Đức Giêsu là Chúa Chiên Lành. Chung quanh dẫy Appalachia toàn đồi núi và cao nguyên, không có nhiều ruộng đồng bằng phẳng để trồng hoa màu. Thành thử cư dân sống bằng nghề chăn nuôi dê, cừu, trâu, ḅ. Những loại súc vật không kén địa thế. Chúng có thể gặm cỏ trên những dải đất dốc như sườn đồi, triền núi. Trong buổi học hỏi về đoạn Tin mừng này, bất thần một nông dân hỏi tôi: "Cha có biết một trăm con cừu gặm cỏ ở cánh đồng, một con nhảy ra ngoài hàng rào th́ c̣n lại bao nhiêu không?" Tôi ngẩn người v́ câu hỏi quá dễ, đứa con nít sáu bảy tuổi cũng có thể trả lời được: Chín mươi chín con. Thấy tôi trả lời ngây thơ cả hội nghị cười khúc khích. Họ biết rơ câu trả lời của tôi sai một trăm phần trăm ! Tôi sinh trưởng ở quận Brooklyn, thành phố New York, nơi chẳng có nhiều đất để chăn nuôi hay làm ruộng th́ làm sao tôi biết được t́nh tiết của nghề này. Tôi hỏi lại bác nông dân: Vậy bác bảo c̣n bao nhiêu? Mọi người cùng nói : Chẳng c̣n con nào cả. Một con nhảy ra là cả đàn cùng nhảy theo. Giống cừu ngu lắm! Thấy động là toàn thể làm theo một con. Tôi ngạc nhiên v́ chưa biết tính nết đó của loài cừu, cho nên không dám khẳng định rằng ḿnh có thể tự hào v́ được làm một trong những con chiên của đoạn Tin mừng hôm nay không? Dầu sao, câu truyện sau đây khiến tôi tự tin phần nào. Số là trong biến cố ám sát tổng thống John F. Kennedy ngày 22.11.1963 tại thành phố Dallas. Có một người hoàn toàn thất vọng. Ông ta là cận vệ của tổng thống. Người ta trả lương cao cho ông với nhiệm vụ đỡ đạn cho vị Nguyên thủ quốc gia mỗi khi có sự cố. Ông ta đă thất bại và bị sa thải. Sau những ngày buồn sầu, ông quyết định đi t́m cơ hội khác. Ông vào làm cho các thương gia giầu có, và trong một cuộc tranh chấp, ông đă bị tử thương v́ đỡ đạn cho chủ ḿnh. Ở nước Mỹ, hai hạng người thường dễ bị ám sát: Các chính trị gia và các ông chủ buôn bán lớn. Họ trừ khử lẫn nhau v́ quyền lợi hay địa vị. Do đó, phát sinh nghề đỡ đạn thuê với lương bổng rất cao. Nhưng cách đây hơn hai ngh́n năm, cũng có một người làm nghề này ở đất Palestine. Ông không có lương. Chẳng ai chịu trả lương cho ông. Tên ông là Giêsu, người làng Nazareth. Có điều dị biệt là không phải ông chỉ đỡ đạn cho nguyên thủ quốc gia hay các kẻ tai to mặt lớn của xă hội. Ông giơ lưng đỡ đạn cho toàn thể nhận loại. Ông đă chết để cho mọi người được sống. Viên đạn giết ông là tội của mỗi người. Đúng thật ông là Chúa Chiên Lành. Như thế, tôi không phải xấu hổ v́ là một con chiên trong đàn của ông. Dù tôi đích thị là một con hết cỡ ngu xuẩn. Tôi đă phạm đủ mọi thứ lỗi lầm trong cuộc đời ḿnh. Ông đă tha thứ cho tôi và không hề bỏ mặc tôi bao giờ nữa. Thế gian, ma quỉ, xác thịt có vây hăm, doạ nạt, dụ dỗ thế nào đi nữa, tôi vẫn cứ an ḷng. V́ Ông không bỏ rơi tôi trong những nỗi gian truân. Ông đă hứa như vậy và đă lấy máu ḿnh để đóng ấn lời hứa. Hồi c̣n bé, tôi có nhiều bạn bè thân t́nh, có thể nói là chí thiết hơn cả Bá Nha, Tử Kỳ. Mỗi lần thề hứa với nhau, chúng tôi vắt máu đầu ngón tay để kư kết: "Bạn muôn đời." (Friends forever). Bây giờ tôi chẳng hiểu những đứa trẻ mười, mười một tuổi đầu khi ấy đă thề thốt làm bạn vĩnh viễn với nhau bằng máu, hiện đang ở đâu? C̣n sống hay đă chết, làm nghề ǵ, có gia đ́nh hay chưa? Được hạnh phúc hay phải khốn khổ, thành công hay thất bại? Nói cho đúng, lời thề nghiêm trọng đến thế mà cũng chẳng kéo dài nổi cho đến khi lên Trung học. Khoảng 4,5 năm sau, chúng tôi mỗi người một ngả, mỗi người một trường tuỳ theo hoàn cảnh gia đ́nh và học hành. Phần Chúa Giêsu, Ngài không hề bội tín. Thánh giá của Ngài, bửu huyết của Ngài đă đóng ấn vào giao ước cứu độ, th́ Ngài luôn ở bên mỗi linh hồn. Chúng ta chẳng cần giàu có, đẹp trai, quyền thế, tài năng, chủ xí nghiệp, ngân hàng, lạc quan, bi quan hay cùng đinh khố rách mới được kết bạn với Ngài. Điều kiện duy nhất Ngài đ̣i hỏi để được Ngài lănh đạo là tổ chức cuộc đời thế nào để có thể sẵn sàng noi gương Ngài, nghe tiếng Ngài. Cụ thể như trong Chúa nhật hôm nay: Giữa những thứ ồn ào của xă hội đương đại chúng ta nghe thấy ǵ trong các bài đọc? Cầu nguyện ra sao cho các nhu cầu của Hội thánh và các người nghèo? (Xin đọc thêm bài kế tiếp). Ngay cả những linh hồn không thành thạo Kinh thánh, có lẽ cũng thuộc ḷng vài câu của Thánh vịnh 23. Thánh vịnh này thường được đọc trong các dịp lễ hội hay trong các đám tang, an ủi nạn nhân: "Chúa là mục tử tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới ḍng nước trong lành và bổ sức cho tôi… Dầu qua lũng âm u tôi chẳng sợ nguy khốn, v́ có Chúa ở cùng… Tôi được ở đền Người suốt ngày tháng, suốt đêm dài triền miên!" Trong thời gian mừng lễ Phục sinh, chúng ta được nhắc nhớ đặc biệt đến h́nh ảnh mục tử của Chúa Giêsu. Bởi lẽ giáo dân thường bị cám dỗ nghĩ về Chúa sống lại như đă xảy ra hàng ngàn năm trước. Không phải vậy, vai tṛ của Ngài luôn hiện tại. Ngài đă hướng dẫn Hội thánh và mỗi linh hồn thủa xưa làm sao, th́ bây giờ vẫn vậy. Không giảm bớt, không lạnh nhạt, không thiếu chính xác cho đến ngày Ngài trở lại. Khi chúng ta tung hô: Chúa Kitô đă chết, sống lại và sẽ đến, xin đừng nghĩ là truyện đă qua mà là đức tin hiện tại cho tới khi tất cả loài người trở thành môt đàn chiên của một Chúa Chiên Giêsu Kitô. Ngay từ những ngày đầu của Giáo hội h́nh ảnh Chúa Chiên Lành rất được phổ thông, yêu mến. Ngày nay vẫn vậy. Chúng ta có thể t́m thấy vô số tranh ảnh, kính mầu cửa sổ, tượng đài nghệ thuật miêu tả ư tưởng này. Nhiều nhà thờ, trường học, bệnh viện, cư xá, quán ăn lao động, nồi súp cứu đói…. Mang tên Chúa Chiên Lành (Good Shepherd). Nhưng có điều cần bàn là trong các tranh ảnh đó người ta thường vẽ Ngài quá đẹp đẽ trang trọng như thể từ một thế giới khác, xa lạ, kỳ quặc, quá khứ, chứ không thực với đời thường, phải vật lộn với miếng cơm manh áo, nhọc nhằn cực khổ, vấy nhơ lấm bùn. Đó là những h́nh ảnh để giáo dân tôn thờ, chứ không phải để đồng hành, làm bạn. Nó ở trên nếp sống con người, chứ không phải từ nếp sống xă hội hằng ngày. Các Phúc âm không mô tả Ngài như vậy. Ngược lại các thánh sử chẳng tách Chúa Giêsu ra khỏi đám đông. Ngài hoàn toàn nhận lấy thân phận làm người. Chịu đựng những hoàn cảnh của con người. Ngài biết đủ: hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục, của tâm lư con người. Ngài có bạn bè và t́nh yêu, Ngài ăn bữa với gia đ́nh và bạn hữu. Ngài đi dự tiệc cưới, đám tang. Ngài biết hy vọng và thất vọng, trung tín và phản bội, sự sống, đau khổ, nhục nhă và cái chết. Ngài cảm nhận cái giá phải trả v́ sự thật, v́ làm chứng tá. Ngài tuyên bố sẽ thí mạng sống v́ đàn chiên và đă thực hiện đúng như vậy. Đối với chúng ta, những người được ông bà, cha mẹ, thầy cô giáo, hàng xóm láng giềng dạy cho biết thế nào là yêu mến, đại lượng, phục vụ tha nhân… chúng ta hiểu rơ Chúa Chiên Lành không phải chỉ có trên các cửa sổ. Qua những người đó chúng ta nghe thấy tiếng thúc giục của Chúa trong lương tâm ḿnh. Rồi khi lớn lên, xa gia đ́nh, nhớ lại những lời giáo huấn của ông bà, cha mẹ về những việc phải làm, những điều phải tránh, chúng ta thực chất được Chúa Chiên Lành hướng dẫn. Chúng ta c̣n có những ảnh hưởng tốt khác từ bạn bè, đồng nghiệp, tư vấn tâm lư, cha giải tội, tu sĩ, linh mục… trong cuộc sống và chúng ta nhận ra Chúa Chiên Lành không chỉ ở trong các tranh ảnh. Chúng ta thực sự nghe được Ngài trên khắp các nẻo đường đời. Thú thật, khi đi thuyết giáo lưu động, tôi đă gặp vô số "mục tử tốt lành". Tôi gặp họ trong các d́ phước thánh thiện, trong các tu sĩ khắc khổ, trong các linh mục nghèo khó và cả trong các giáo dân nhiệt thành, các hội đồng giáo xứ, trung tâm cấm pḥng, tuyên uư đại học, nhà trọ lỡ đường, bệnh xá, viện mồ côi, các Caritas quốc tế, địa phương v.v… Họ là những mục tử "không chỉ định" của Chúa Giêsu. Họ làm việc hăng say trong các cơ quan từ thiện, bác ái. Họ đă chăn dắt tuyệt vời đàn chiên Thiên Chúa. Cũng không nên bỏ xót những cộng đoàn chuyên biệt như ca đoàn, hội giúp lễ, ban phục vụ kẻ liệt, giáo lư thêm sức, xưng tội lần đầu, ban kinh tế giáo xứ. Thiếu vắng họ chắc hẳn đời sống tôn giáo của chúng ta gặp rất nhiều khó khăn. Hôm nay chúng ta phải tạ ơn Chúa, cầu nguyện và biết ơn họ. Như vậy trong Hội thánh có muôn vàn mục tử. Tất cả đều theo gương Chúa Chiên Lành, chăm chỉ nghe lời Ngài và nhất là sẵn sàng hy sinh tài sức, thời giờ, tiền bạc, mạng sống cho đàn chiên khi cần. Họ đang nỗ lực thu gom tất cả mọi người vào đàn chiên của Đấng Mục Tử duy nhất. Những cố gắng này phát sinh từ đâu? Nếu không phải từ Chúa Chiên Lành Phục sinh. Ngài đang chăn dắt chúng ta trong sự hy sinh của các linh hồn lành thánh. Tóm lại, tinh thần Chúa Chiên Lành không ngừng phát triển trong Giáo hội, kêu gọi sự cộng tác của mọi người. Qua họ, Ngài vẫn chăm sóc, hướng dẫn đàn chiên Thiên Chúa. Chúng ta cũng được mời mọc tiếp tay với Ngài chăm lo cho các linh hồn, chữa lành các vết thương, cho kẻ đói ăn, khát uống, rách rưới ăn mặc, để tất cả nhân loại, mai ngày, họp thành một đàn duy nhất dưới quyền lănh đạo một Chúa Chiên như Ngài đă hứa. Quí vị có đồng ư cho Ngài mượn một tay? Amen. Alleluia.
Con
chiên xứng đáng trong tay Mục tử
Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu nói: Ngài biết chiên của Ngài. Thiên Chúa biết Chúa Giêsu, và Ngài biết Thiên Chúa, đó là cách mà Chúa Giêsu biết chúng ta tất cả. Trong Phúc âm thánh Gioan, Chúa Giêsu lại nói "Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha" (10:38). Thử hỏi chúng ta có bao giờ hiểu thấu ý nghĩa lời Chúa Giêsu nói về đời sống của chúng ta không? Sự liên hệ giữa Chúa Giêsu và các người theo Ngài giống như sự liên hệ mật thiết giữa Ngài và Chúa Cha. Chúng ta nên nhớ rằng, trong Phúc âm thánh Gioan, Chúa Giêsu được gọi là "Chiên Thiên Chúa". Ngài như con chiên ở giữa chúng ta, bị bắt và bị giết vì chúng ta. Chúa Giêsu biết chúng ta, không phải một cách trừu tượng, nhưng như là một họa sĩ biết kỹ về bức tranh ông vẽ vì ông đã tạo ra nó. Đúng ra, khi Chúa Giêsu nói "tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi..."(10:14), vì Ngài là một người trong chúng ta, Ngài sống giữa chúng ta, và chết cho chúng ta. Trong Phúc âm thánh Gioan, chúng ta thấy rõ là sự sống trần gian của Chúa Giêsu dính liền với Ngài, và Ngài luôn để diễn trình sự sống đó xảy đến, vì Ngài cho chúng ta biết: "Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ư hy sinh mạng sống ḿnh..."(10:18). Cái chết của Chúa Giêsu là do Ngài tự lãnh nhận, Ngài tự làm người phục vụ cho kẻ cần giúp, kẻ bị ruồng bỏ, bị xua đuổi và những người tội lỗi. Ngài không từ bỏ ý muốn của Thiên Chúa đối với chúng ta, vì thế Ngài đã bi giết. Qua đó, chúng ta thấy rõ lòng yêu thương của Thiên Chúa đối với chúng ta, là những người bị lạc lối, cần được giúp đỡ. Chúa Giêsu cho chúng ta biết: Thiên Chúa luôn là Mục Tử nhân hậu. Nhưng qua đời sống của Chúa Giêsu, chúng ta thấy không phải chỉ có chừng đó mà thôi, nhưng với Thánh Linh của Ngài, Thiên Chúa muốn chúng ta phải làm cho tha nhân những gì Ngài đã làm cho chúng ta. Điều này được thể hiện bằng cách từ bỏ cuộc sống thường nhật để theo Ngài, vị Mục Tử nhân lành. Khi Chúa Giêsu tự gọi mình là Mục Tử nhân hậu, đó là điểm chính của Ngài. Trong Cựu ước và Tân ước, hình ảnh của mục tử rất nhiều. Thánh vịnh 23 nói về Thiên Chúa vị Mục Tử nhân hậu, dẫn dắt dân Israel. Có điều hơi khác là Chúa Giêsu không nói về tính cách mục tử nhân hậu nơi Thiên Chúa. Mà nói về dân Israel đã gặp những lãnh đạo thối nát, đàn áp dân. Họ đã gặp những mục tử chỉ nghĩ đến họ mà thôi, không biết gì đến đoàn chiên đã được giao phó cho họ. Vì thế, khi Chúa Giêsu tự gọi mình là "Mục Tử nhân hậu", Ngài muốn chúng ta thấy là Ngài khác với những kẻ lănh đạo bất xứng với đoàn chiên của Thiên Chúa . Những gương xấu của các lãnh đạo trong Giáo Hội hiện nay, khi đối chứng với lời Chúa Giêsu nói về Ngài là mục Tử nhân hậu, làm cho chúng ta cảm thấy xấu hổ. Vì nó đã gây tai hại cho những người vô tội. Nó đã để lại những vết thương khó lành. Qua lịch sử Giáo Hội, chúng ta cũng đã thấy. Có những người đã được chọn làm mục tử không phải là họ đương nhiên là tốt đâu. Chúa Giêsu đã nói rõ, muốn là mục tử tốt th́ phải biết yêu chiên của mình, đặt con chiên lên trên hết, kể cả mạng sống của mình. Vì Ngài đã sẵn sàng hy sinh mạng sống Ngài cho đoàn chiên. Nếu suy đến những lời Chúa Giêsu nói, chúng ta sẽ gặp được những lỗi thiếu bổn phận trong cuộc sống. Đó là những lúc chúng ta nhượng bộ, những lúc chúng ta thiếu can đảm dấn thân làm môn đồ của Chúa Giêsu, những lúc hồ nghi về đức tin khi gặp khó khăn, những lúc tuột hậu sau Chúa Giêsu vì thiếu can đảm, thiếu cầu nguyện; những lúc trốn việc bổn phận, với lý do là mình không xứng đáng, và chính lời Chúa Giêsu mới là động lực thúc đẩy chúng ta. Ngài đã yêu thương chúng ta đến nỗi hy sinh mạng sống mình vì chúng ta. Chính vì Ngài biết và hiểu thấu những yếu hèn của chúng ta. Đấng Mục Tử nhân hậu đã gọi chúng ta giúp đỡ tha nhân cho Ngài. Không vì chúng ta xứng đáng làm mục tử tốt phục vụ cho tha nhân, nhưng chính đó là sự sống mà Chúa Giêsu đã đặt vào chúng ta. Bí tích Rữa Tội, và Mình Thánh Chúa đã ban cho chúng ta sự sống của Chúa Giêsu trong chúng ta. Tinh thần phục vụ, và tình thương của Ngài đối với đoàn chiên, chính là tinh thần và tình thương của chúng ta đối với cộng đoàn. Chúng ta nên cầu nguyện cho các Giám Mục của chúng ta trong thánh lễ này. Họ là những mục tử của đoàn chiên, vì các ngài cầm gậy của mục tử. Cho dù có nhiều trường hợp đau lòng về những lãnh đạo không làm đủ bổn phận, nhưng chúng ta luôn nhớ đến những giám mục đã hoạt động trong việc giúp đỡ người nghèo, kiến tạo hòa bình và công bằng trong xã hội. Các vị ấy đã mở mắt chúng ta và thách đố chúng ta sống theo Phúc âm trong thế giới hiện tại. Cho dù trong hàng ngũ giáo dân, nhiều người có học thức cao, nhưng chúng ta vẫn muốn các giám mục lên tiếng và dạy chúng ta về tình thương của Đấng Mục Tử nhân hậu. Trong xã hội hiện nay, biết bao vấn nạn về người nghèo, về nền kinh tế suy thoái trên toàn cầu, về những đe dọa cho cuộc sống của chúng ta... Hơn lúc nào hết, chúng ta cần lên tiếng kêu gọi sống theo Phúc âm và quyết tâm gìn giữ trái đất. Chúng ta nên cầu nguyện cho hội đồng giám mục, để các vị đó trở nên những mục tử tốt cho chúng ta và cho toàn thế giới. Chúng ta đã thấy những gương tốt của các mục tử tốt lành trên thế giới. Là những vị đã sẵn sàng hiến mạng sống của họ cho những người nghèo khó, người bị áp bức. Chúng ta sực nhớ đến: đức Tổng Giám Mục Romero bênh vực cho người nghèo ở châu Mỹ La tinh, Bà Dorothy Day, người bênh vực cho thợ thuyền ở Mỹ, Mẹ Teresa ở Ấn Độ, bốn nữ tu dòng Truyền giáo Maryknoll đã tử đạo ở Salvador, Đức Hồng y Bernardine ở Chicago, Đức giáo hoàng Gioan Phaolô đệ nhị v.v...Và còn biết bao nhiêu người khác ở địa phương chúng ta. Ở Việt Nam, có Đức hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận, Đức Tổng Giám Mục Huế Philipphê Nguyễn Kim Điền ... Các vị đó đã nêu gương tốt, và đã thu hút nhiều người theo họ để giúp đở tha nhân. Giờ phút này, chúng ta nên nhìn những người cùng chúng ta dâng thánh lễ hôm nay, hăy đếm xem có được bao nhiêu con chiên ngoan đạo. Và đó là lý do để chúng ta dâng lời ca ngợi và cảm ơn Thiên Chúa, vì nhờ Chúa Giêsu Phục Sinh đang ở giữa chúng ta, và đang dẫn dắt chúng ta phục vụ kẻ khác. Chúng ta cũng không nên quên những thành viên hội đồng giáo xứ của chúng ta, họ cũng là những mục tử tốt. Họ không lãnh lương, nhưng tận tâm làm việc chỉ để phục vụ cho giáo xứ. Họ cũng hiến dâng đời sống họ cho đoàn chiên. Khi nghe Phúc âm hôm nay, anh chị em có nghe được âm vang lời Chúa hứa cho dân Israel khi xưa không ? "Ta sẽ nhận các ngươi làm dân riêng của Ta, và đối với các ngươi, Ta sẽ là Thiên Chúa. Các ngươi sẽ biết rằng Ta, ĐỨC CHÚA, là Thiên Chúa các ngươi, Đấng cứu các ngươi khỏi phải làm việc khổ sai cho người Ai-cập”(Xh 6:7). Hôm nay, Chúa Giêsu lập lại lời hứa đó một lần nữa cho một dân tộc mới của Ngài "Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi" (Ga 10:14). Đây là lời của Thiên Chúa Đấng vẫn luôn trung tín với lời giao ước : Ngài là Chúa của chúng ta, cùng đi với chúng ta qua sa mạc, và nuôi dưỡng chúng ta hằng ngày, đó là của ăn mà chúng ta sắp lãnh nhận trong Bí tích Thánh Thể hôm nay.
| |