CHÚA NHẬT PHỤC SINH NĂM B An Phong op : Một Buổi Sáng Đẹp Tươi Như Hạ op : Phục Sinh Mầu Nhiệm T́nh Yêu Fr Jude Siciliano, op : Công Bố Ơn Phục Sinh Fr Jude Siciliano, op : Hồng ân phục sinh phá bỏ bóng tối sự chết Fr. Jude Siciliano, op : Ông đă thấy và đă tin G. Nguyễn Cao Luật op : Chúng Tôi Xin Làm Chứng Phêrô Chu Đinh Hoàng Nguyên op : Niềm Vui Phục Sinh Giacôbê Phạm Văn Phượng op : Mầu nhiệm Phục Sinh Lời Chúa Và Thánh Thể : B́nh An Cho Anh em Giuse Đỗ Văn Phi op : Đức Kitô Phục Sinh Là Lẽ Sống Đời Ta Học Viện Đa Minh : Chú Giải Tin Mừng Vọng Phục Sinh Học Viện Đa Minh : Chú Giải Tin Mừng Phục Sinh
Một
Buổi Sáng Đẹp Tươi Hôm nay Chúa nhật mừng Chúa Phục sinh. Ngay từ sáng sớm, bà Maria Mađalena đă đến mồ Chúa. Thấy tảng đá đă được lăn ra khỏi mồ. Bà lại tưởng người ta lấy mất xác của Thầy. Sau giấc ngủ đêm dài, chúng ta thức dậy, "sống lại" một ngày mới. Thế mà nhiều khi chúng ta lại cứ bị ám ảnh bởi đêm tối của quá khứ, cứ để cho đêm tối che phủ đời ḿnh mà chưa nhận ra một buổi sáng đẹp tươi. Ngay từ sáng sớm, hai môn đệ Đức Giêsu đến mồ, hy vọng t́m gặp Thầy. Các vị vào trong và chỉ thấy những chứng tích c̣n lại: khăn liệm, dây băng… Các vị biết Chúa đă sống lại. Các vị đă tin. Đời sống là một cuộc t́m gặp Chúa. Đôi khi Chúa như "ở xa", nhưng chứng tích của Ngài vẫn c̣n đó. Vẫn có quanh ta những chứng tích của ḷng bác ái, của ḷng vị tha, của thái độ bao dung… và chúng mời gọi ta tin vào Chúa Phục sinh. Ngay từ sáng sớm, hai môn đệ chạy đến mồ. Một vị trẻ trung và nhanh chân đến trước; một vị già nua chậm chạp hơn. Rồi kẻ đến sau lại vào trước; người đến trước lại vào sau. Nhưng cả hai đều "đă thấy và đă tin". Chúng ta thường phê phán người khác dựa theo quan điểm của ḿnh; từ đó, chúng ta loại trừ nhau, chống đối nhau. Nhưng Chúa mời gọi mỗi người theo hoàn cảnh riêng, và tất cả những ai thiện chí đều có thể gặp được Ngài cũng như gặp được nhau. Ngôi mộ trống, sự chết đă biến đi rồi. Sự chết cùng những "con cái" của nó : bi quan, chán nản, hời hợt, đố kỵ… Đức Giêsu đă sống lại; thật là một buổi sáng mới đẹp tươi ! Đời sống chúng ta mỗi ngày đang phục sinh cùng với Đức Kitô; không có điều ǵ có thể ngăn cản được t́nh yêu, ḷng khao khát điều thiện, sự đoàn kết… bởi v́ sự thiện đă chiến thắng cái ác, sự sống đă tiêu diệt thần chết…
Lạy Chúa
Giêsu,
Lạy Chúa
Giêsu,
Phục Sinh Mầu Nhiệm T́nh Yêu T́nh yêu đem lại muôn vàn kỳ thú và những cái nh́n mới lạ. Chỉ những người đang yêu mới thấy được những vấn đề mà người ngoại cuộc không thể thấy được. T́nh yêu là một cuộc sáng tạo vô cùng phong phú. Chính t́nh yêu đă dẫn Đức Kitô vào con đường kỳ lạ tới sự sống ngang qua cái chết. Đó là một cuộc mạo hiểm lớn lao. Đức Kitô đă liều mạng để giựt thoát sự sống ra khỏi tay tử thần. Cuộc hi sinh vô tiền khoáng hậu đó đă đạt được kết quả thật bất ngờ. Người đă phục sinh ! Đức Giêsu phục sinh đă trở thành đối tượng của niềm tin Kitô giáo ngay từ thuở sơ khai. Đó là điều kiện căn bản và vô cùng khẩn thiết cho những ai muốn được cứu độ. GẶP GỠ Ơn cứu độ đă đầu tiên đến với các môn đệ, nhưng dưới nhiều cách thức và nhịp độ khác nhau. Cùng quan sát một sự kiện, nhưng có người đọc được ư nghĩa. Chẳng hạn "người môn đệ yêu dấu". Người phải đợi tới khi Đức Giêsu xuất hiện mới bừng tỉnh. Chẳng hạn Maria Mađalêna. Chị Maria vẫn luẩn quẩn với tư tưởng : "Chẳng biết họ để Người ở đâu ?" (Ga 20:2). Sau khi đă quan sát "thấy tảng đá đă lăn ra khỏi mồ", chị liền chạy về báo tin cho các tông đồ "Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến" (Ga 20:1). Chị hoàn toàn dừng lại ở sự kiện, chứ chưa đọc được ư nghĩa đằng sau sự kiện. Phải chăng v́ chị hoảng hốt hay tại chị không phải là môn đệ được hân hạnh ghé vào ngực Chúa ? Chỉ có con tim mới đọc được những dấu hiệu của con tim. "Người môn đệ được Đức Giêsu thương mến" đă đọc ngay được ư nghĩa đó. "Ông đă thấy và đă tin" (Ga 20:8). Niềm tin đă phát xuất từ con tim ! Ông đă tin v́ đă nhận ra những dấu chỉ từ nơi mồ trống và những băng vải liệm xác Chúa "không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi" (Ga 20:7). Những dấu chỉ đó cũng đủ để ông vượt lên trên sự kiện, đi sâu vào mầu nhiệm Phục sinh, v́ "theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cơi chết" (Ga 20:9). Thực ra, "chẳng có đoạn Kinh Thánh Cựu Ước nào nói về việc Đức Giêsu Phục Sinh. Phải đợi tới khi Đức Giêsu hoàn toàn được tôn vinh, các môn đệ mới có thể "nhớ" và hiểu được ư nghĩa của những biến cố đă xảy ra" (The Jerome Biblical Commentary 1990:983). Nói khác, "Kitô hữu đă đọc lại Thánh Kinh trong ánh sáng Phục Sinh. Đó là đoạn nói về người đầy tớ Chúa (Is 53:1-12) và các đoạn khác đọc dưới ánh sáng mới"(Tv 16:10; Hs 6:2) (Faley 1994:290). Ông Gioan "tiêu biểu cho người Kitô hữu không bao giờ bị dao động và luôn trung tín. Vai tṛ của ông có tính cách thần học hơn là lịch sử" (Faley 1994:289). Bởi đấy, mặc dù ông phải nhường bước cho Phêrô v́ địa vị cao trọng hơn, nhưng t́nh yêu vẫn đem lại cho ông vinh dự là người đầu tiên tin vào Đức Giêsu Phục Sinh (c.8). T́nh yêu luôn mở ra một lối đi ưu việt cho những ai tuyệt đối tin tưởng vào sức mạnh t́nh yêu Thiên Chúa. Bởi thế suốt đời thánh Gioan luôn nói về t́nh yêu. Ông có cả một xác tín lớn lao và kinh nghiệm tuyệt vời về sức mạnh đó. Niềm tin Phục sinh không kiếm được bằng chứng nơi nấm mồ mở rộng hay những tấm khăn trắng toát, nhưng nơi những lần Đức Giêsu hiện ra với các môn (1Cr 15:3-8). Những lần đó đă củng cố niềm tin và thắt chặt t́nh yêu Thày tṛ. Chính cử chỉ đượm t́nh yêu đă mạc khải cho hai môn đệ làng Emmaus (Lc 24:13) về sự thật Phục Sinh. Một tiếng gọi đầy thân thương của Thày cũng khiến chị Maria Mađalêna bừng tỉnh trước thực tại Phục sinh (Ga 20:16). Niềm tin Phục sinh đó không phải là một ảo ảnh hay viễn mộng nội tại. Bằng chứng Đức Giêsu Phục sinh đă hiện ra và ăn uống với các môn đệ. Các ngài làm chứng "Ngày thứ ba, Thiên Chúa đă làm cho Người chỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đă tuyển chọn từ trước là chúng tôi, những kẻ đă được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cơi chết sống lại" (Cv 10:40-41). Nghĩa là có một sự liên tục trong thân xác Đức Giêsu trước và sau khi phục sinh.Chính Người đă trả lại cho các môn đệ một bầu khí thân t́nh và đầy hứng khởi. Trong tất cả những giờ phút cùng ăn cùng uống đó, Thày tṛ đă trao đổi biết bao tâm t́nh yêu mến.Càng trao đổi, các môn đệ càng thấm sâu mầu nhiệm t́nh yêu Phục Sinh. Phục sinh quả thực là mầu nhiệm t́nh yêu. Muốn thấy rơ Chúa Phục Sinh, đ̣i phải có động lực t́nh yêu mănh liệt. Hơn nữa, muốn làm chứng về Đức Giêsu Phục sinh, phải là những chứng nhân Phục Sinh. Những chứng nhân Phục Sinh là "một chút men cũng đủ làm cho cả khối bột dậy lên" (1Cr 5:6b). Men t́nh yêu vô cùng cần thiết cho bột trần gian. Đó là sức mạnh nhân chứng, v́ "ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy : là anh em có ḷng yêu thương nhau" (Ga 13:35). Nói cho cùng, chứng nhân của Đức Giêsu là chứng nhân về mầu nhiệm Phục Sinh, v́ "nếu Đức Kitô không chỗi dậy, th́ lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng" (1Cr 15:14). Phục Sinh là một đề tài căn bản và cực kỳ quan trọng trong niềm tin Kitô giáo. Nói khác, "tất cả mọi góc cạnh của lời rao giảng và niềm tin Kitô giáo chỉ có ư nghĩa khi quy về đối tượng trung tâm là Đức Kitô Phục Sinh" (KTTƯ 1995:701). T̀M LẠI LẼ SỐNG Mỗi Chúa Nhật tín hữu qui tụ để mừng mầu nhiệm Phục Sinh, một mầu nhiệm có sức đem lại lẽ sống cho một thế giới băng hoại. Ngày nay sự sống đang bị chà đạp v́ những vi phạm nhân quyền, những vụ bắn giết, khủng bố, phá thai v.v. Con người cần t́m ra lẽ sống cho chính ḿnh và tái khám phá giá trị con người để biết tôn trọng người khác."Con người được tạo dựng giống h́nh ảnh Thiên Chúa. Sự sống con người tự nội tại có giá trị và tự bản chất phải được coi là một cứu cánh chứ không thuần túy là một phương tiện để đạt tới một mục đích nào khác" (McCartney 1994:8). Bởi thế, tiêu diệt sự sống con người là xúc phạm nặng nề đến Thiên Chúa. Không thể nhân danh bất cứ danh nghĩa nào để tiêu hủy mạng sống. Chẳng hạn, làm sao chấp nhận được lập luận của những người chủ trương và ủng hộ việc phá thai dựa trên lư do bảo vệ quyền riêng tư cá nhân ? Không ai là một ốc đảo. Sống là luôn luôn sống với. "Khi quyết định phá hay không phá thai, trước tiên người phụ nữ làm một hành động liên quan tới chính mạng sống của thai nhi, tới cha của đứa bé, tới gia đ́nh, họ hàng thân thuộc, tới giáo dục và chức nghiệp. Bởi vậy quyết định đó tự bản chất là một quyết định có chiều kích xă hội chứ không thể là một việc riêng tư chút nào" (McCartney 1994:5). Đức Giêsu Phục Sinh mạc khải cho mọi người thấy sự sống là một giá trị không ǵ có thể thay so sánh được. Chính Chúa đă đi vào cơi chết và chỗi dậy để đẩy con người lên trên những cái nh́n tầm thường. Những cái nh́n này muốn đánh giá con người dưới những điều kiện vật chất, muốn biến con người thành phương tiện thực hiện những mưu đồ chính trị, kinh tế v.v. Con người phải hi sinh cho những giá trị kém con người. Chính trị, kinh tế trở thành cứu cánh, trong khi tự bản chất đó chỉ là phương tiện. Chính v́ chủ trương bảo vệ mạng sống con người, sự hiện diện của Vatican tại Liên Hiệp Quốc đă bị đặt thành vấn đề. Đă có cuộc vận động để trục xuất Vatican ra khỏi chiếc ghế quan sát viên tại diễn đàn có tầm cỡ thế giới đó. Giáo Hội hiện diện như một kỳ đà cản mũi trước những dự án kiểm soát dân số thế giới của những nước tư bản. Khắp nơi trên quê hương Việt Nam hôm nay cũng đang cổ động hạn chế sinh sản tối đa bằng đủ mọi +phương tiện. Biểu ngữ "mỗi gia đ́nh chỉ có hai con" dán đầy đường phố và làng quê. Từ xưa, khi thế giới mới vỏn vẹn ít trăm triệu, người ta đă la hoảng về nạn nhân măn. Nếu những người thời đó c̣n sống, chắc chắn họ không thể tưởng tượng nổi nhân loại có thể tồn tại và phát triển vượt bực như bây giờ. Sự sống vẫn luôn là một huyền nhiệm, huyền nhiệm như chính sự sống của Đức Giêsu, Đấng đă Phục Sinh để trả lại cho con người ư nghĩa sâu xa nhất và giá trị lớn lao nhất của cuộc sống. Chính v́ sông mầu nhiệm Phục sinh sâu xa, Giáo hội mới biết quư trọng sự sống.
Công Bố Ơn Phục Sinh
Trong bản đồ Châu Âu cổ ngày xưa, người ta vẽ toàn thể lục địa và một phần Đại Tây Dương. Khi ra ngoài biển khơi, nhiều nơi chưa thám hiểm và chưa biết hết, người ta vẽ những con rồng và đề hàng chữ "rồng sống ở đây". Có đúng người thời đó tin vào sự hiện hữu của rồng và chúng ở những nơi chưa ai biết tới Nếu người nào đó muốn mạo hiểm ra chỗ chưa người lui tới, họ có thực sự gặp được rồng ? Những người vẽ bản đồ liệu có coi những điều họ vẽ là một sự kiện, rồng sống ở ngoài biển khơi xa mù ? Thời đó người ta c̣n tin trái đất dẹp, bằng phẳng, bệnh tật là do ma quỷ hành hạ ! Ở vùng Salem (nước Hoa Kỳ) khi mới đến định cư, người ta tin một số đàn bà có ma thuật, thường xuyên tiếp xúc với quỷ thần. Lịch sử kể lại họ đă thiêu sống một số người mà họ đă gán cho đă thực hành nghề nghiệp như vậy. Ngày nay, chúng ta coi những chuyện như vậy là mê tín, cổ hủ, không ai tin nữa. Tuy nhiên vẫn c̣n một số người cổ vơ bói toán và dị đoan. Họ vẫn sống trong niềm tin ấy, và xem chúng như những chân lư. Vậy biến cố phục sinh của Chúa Giêsu th́ sao ? Nó có phải là sự kiện có thật ? Một điều đă xảy ra trong thế giới vật lư ? Hay lại dính líu vào niềm tin ngây thơ của dân bán khai, mang dáng dấp "con rồng" huyền thoại ? Lấy ǵ làm bằng cứ Chúa đă sống lại ? Và những bằng cứ đó có đủ thoả măn tiêu chuẩn về sự thật cho trí óc tân thời ? Tại sao chúng ta lại phải tin vào lời những kẻ bán khai mà văn hoá, niềm tin của họ chúng ta vừa bác bỏ ? Hơn nữa đám người khai truyện, truyền tụng nó cho đến ngày hôm nay như chúng ta vừa công bố trong thánh lễ, lại không phải là những bộ óc lớn, những tư tưởng gia trong thời đại họ, họ chẳng làm được việc lạ lùng nào như xây kim tự tháp, vườn treo Babylon cho thế giới ngưỡng mộ. Thực tế phần đông họ là những kẻ thấp cổ bé miệng, những người thua thiệt nhất trong xă hội đương thời. Và các câu chuyện họ kể về sự phục sinh của Chúa mang tính chất rất lộn xộn. Ngày nay nghe lại chúng ta không thể nắm bắt rơ ràng được điều ǵ thực sự đă xảy ra. Năm ba câu chuyện chồng chất lên nhau, thiếu hẳn sự mạch lạc. Chẳng có chuyện nào Chúa sống lại hiện ra với những kẻ không tin. Chỉ những môn đệ và các phụ nữ đạo đức được chứng kiến Chúa phục sinh mà thôi. H́nh như Phúc âm được viết ra cho những người đă tin. C̣n hạng người khác th́ sao, chẳng lẽ Lời Chúa không dành cho họ nữa sao ? Chẳng chuyện nào kể lại người vô tín t́nh cờ gặp Chúa Phục sinh ! Rơ ràng phúc âm không liệt kê các chứng nhân trung lập hay vô tư, chỉ các môn đệ Chúa Giêsu mới được nghe và kể lại chuyện Chúa phục sinh. Lúc này họ cũng chỉ loan báo cho chúng ta, những kẻ tin chứ không hề cho kẻ vô tín ngưỡng. Cho nên chuyện Chúa phục sinh là nhằm củng cố đức tin của chúng ta, khuyến khích chúng ta t́m hiểu và gặp gỡ Chúa sống lại như Ngài đă hiện ra với các tông đồ. Điều mà chúng ta phải tin hôm nay cũng là một Chúa Giêsu như thuở xưa lúc Ngài tỏ ḿnh ra cho các môn đệ. Ngơ hầu ḷng tin của chúng ta vững mạnh và mọi người có thể sống bằng đức tin ấy. Cứ như Phúc âm theo thánh Gioan, Chúa sống lại khởi sự từ tảng sáng, lúc trời c̣n tối. Dĩ nhiên nó đă mang ư nghĩa một ngày mới. Nhưng chưa hoàn toàn là thanh thiên bạch nhật, v́ trời vẫn c̣n tối. Cô Maria Macdala hăy c̣n phải ṃ mẫm trong bóng đêm, tất cả những ǵ cô biết được là Thầy yêu dấu của ḿnh đă chết thực sự, được mai táng tại vườn này, nhưng bây giờ xác Ngài không c̣n ở đây nữa. Rất nhiều người trong chúng ta cũng có những kinh nghiệm tương tự. Người thân qua đi, đám tang nghiêm trang, trịnh trọng. Ngày ngày chúng ta ra viếng mộ, đọc kinh, cầu nguyện cho người xấu số, tưởng nhớ lại các kỷ niệm được sống với họ, và xót xa khóc thương. Tất cả chỉ có vậy, c̣n trong ṿng tăm tối, hoặc những cuộc vật lộn khác, như hôn nhân tan vỡ, gia đ́nh phân tán, bệnh tật, già yếu, thất nghiệp, khủng hoảng kinh tế, toàn là những tối tăm, không ngơ thoát. Mồ mả ở khắp bốn chung quanh, chỉ c̣n biết ngồi mà than khóc giống như cô Maria Macdala : "Họ đă lấy xác Thầy khỏi mộ và chúng tôi không biết họ để Người ở đâu !" Nhiều lần trong cuộc đời, chúng ta cũng phải đặt câu hỏi bâng khuâng như vậy. Cho nên, niềm tin vẫn là chiếc neo lôi kéo chúng ta về với thực tại thiêng liêng cũng như trần thế. Từ đó mọi người sẽ được chiêm ngưỡng dung nhan Chúa phục sinh. Chúa sống lại không phải để trả thù những người vô tín đă hành xich Ngài, mà chính yếu ban hy vọng cho loài người cùng khốn. Tin để mà được xem thấy. Đó là câu châm ngôn của các tín hữu trên khắp hoàn cầu. Khi được nghe Maria báo tin, lập tức Phêrô và người môn đệ khác chạy ra mồ. Phêrô chạy chậm hơn, bị người môn đệ vô danh bỏ lại sau. Điều ǵ khiến Phêrô chạy chậm ? Có lẽ v́ tuổi tác chăng ? Theo ư kiến tôi th́ không hẳn như vậy. Thánh Gioan ghi lại chi tiết này v́ mục tiêu khác, tế nhị hơn chăng ? Theo ư kiến thánh nhân th́ chính kư ức phản bội đă làm cho ông chạy chậm lại. Ông lưỡng lự v́ đă phạm tội đối với Thầy. Cũng như chúng ta ngày nay kư ức quá khứ nhiều khi làm chúng ta e ngại, không dám hăng hái tham gia vào những công việc tông đồ, hữu ích cho tha nhân và cộng đồng địa phương. Có lẽ chúng ta lo sợ thiên hạ đánh giá ḿnh giả h́nh, không thành thật ! Nhưng nếu tin chắc việc sống lại là có thật và Chúa Phục Sinh đang sống th́ thái độ của chúng ta phải là tuyệt đối trung thành, không bóng mây nghi hoặc. Và Đức tin đó thúc đẩy chúng ta đặt vấn đề với các quyền bính, các cơ cấu đoàn hội, các quốc gia và ngay cả với Giáo hội khi những tổ chức này không đạt yêu cầu về công lư, t́nh yêu, khoan dung và thương cảm mà Chúa Giêsu đă rao giảng và dạy dỗ (nhân tiện xin nhắc lại bốn cột trụ của hoà b́nh trong Thông điệp Pacem in terris của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan XXIII là sự thật, công lư, t́nh thương, và tự do). Trước hoàn cảnh hiện tại của thế giới, những người tin Chúa Phục Sinh có rất nhiều công việc phải làm, trong hầu hết mọi lănh vực của cuộc sống nhân sinh. Tại sao c̣n chiến tranh cụ thể như ở Iraq ? Tại sao c̣n phân biệt chủng tộc, màu da, ngôn ngữ ? Tại sao c̣n bất công trong việc làm lương bổng ? Tại sao không đối xử đồng đều ngay trong các tổ chức của Hội thánh ? Tại sao lấy bạo tàn đáp trả tàn bạo rồi nói rằng : "Đích đáng ?" Tại sao ăn ở bất công nhân danh từ bi, bác ái ? Tại sao người bóc lột người rồi hô to "toàn cầu hoá" ? Trăm ngàn câu khác tương tự đ̣i hỏi lương tâm người tin Chúa Phục Sinh phải trả lời rơ ràng, dứt khoát. Bằng không, Chúa Giêsu vẫn chưa sống lại cho thế giới và xă hội. Chúa vẫn chưa có thể hiện ra với Khanan, Caipha, Philatô và những người Do thái không tin. Nếu như Phêrô chạy tới mồ và được ơn tin kính, th́ ông phải nh́n thế gian bằng chiếc lăng kính mà Thần Khí Chúa sống lại vừa ban cho ông. Ông không thể nh́n và xét đoán sự vật theo chiều hướng cũ. Năo trạng ông phải hoàn toàn mới mẻ, đầy sự thật, tin yêu : "V́ thế, chúng ta đừng lấy men cũ, là ḷng gian tà và độc ác, nhưng hăy lấy bánh không men, là ḷng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ" (1Cor 5,8). Hôm nay, chúng ta vẫn c̣n phải nh́n vào ngôi mộ trống, liệu có được ơn soi sáng để tin yêu Chúa đă sống lại ? Liệu chúng ta có dám bắt chước Phêrô chấp nhận sự tha thứ, tuyên xưng ḷng trung thành và ra đi rao giảng Tin mừng Phục Sinh cho thế giới ? Liệu chúng ta có thành thực thứ tha cho anh em, những kẻ đă xúc phạm đến ḿnh cách này hay cách khác? Liệu chúng ta có dám công bố Tin mừng Phục Sinh cho các đối thủ của ḿnh, cho kẻ đói ăn, khát uống, quần áo cho những ai rách rưới, rét mướt ? Bàn tiệc Thánh thể hôm nay phải là điểm chính yếu công bố ơn Phục Sinh, quà tặng rộng răi cho mọi người : Đời sống mới trong Đức Kitô vinh hiển. Nó thúc đẩy chúng ta đi đến với những người xa lạ, thâu nhận họ về làm con Chúa. Dĩ nhiên ngôi mộ trống c̣n vô số thắc mắc, nghi vấn cho nhiều linh hồn. Nhưng đức tin của các tín hữu có nhiệm vụ giải toả những nghi nan đó bằng cách thực sự thay đổi cuộc sống của ḿnh. Ngoài Phêrô, c̣n có một nhân vật khác cũng chạy đến mồ. Trong bài đọc hôm nay, ông được gọi là "người môn đệ khác", nhưng ở nhiều chỗ thánh Gioan gọi ông là: "người môn đệ được Chúa yêu". Ông là ai ? Không ai biết đích xác. Không tên, ông có thể là nam hay nữ, đại diện cho mọi hạng giáo dân. Chúng ta cũng được Chúa yêu, và cũng có thể là người môn đệ đó. Người môn đệ vô danh này, thực tế, giữ vị trí đặc biệt trong Phúc âm của tác giả Gioan. Ông nh́n vào mồ, thấy những giây băng và là kẻ đầu tiên tin Chúa đă sống lại. Linh cảm của ông thật nhạy bén v́ ông hằng được Chúa yêu dấu. T́nh yêu xem ra là một phương tiện hữu hiệu để tin Chúa Phục Sinh. Thiếu t́nh yêu không ai có thể tin vào chuyện "rồng nhang" như có thật. Cho nên t́nh yêu là cần thiết để tin kính Chúa đă Phục Sinh. Mỗi người tín hữu cũng đă từng có những kinh nghiệm về Thiên Chúa yêu thương ḿnh, qua sự sống, cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. T́nh yêu sẽ giúp chúng ta trông thấy những sự thật mà kẻ khác không hề thấy được. "Người môn đệ khác" đă giúp đỡ các tín hữu nh́n được tỏ tường biến cố siêu nhiên. Xin đừng quên lăng điều đó, để có thể nhận ra rằng ḿnh luôn được Thiên Chúa yêu thương và thứ tha. Bổn phận của chúng ta là phải đáp trả t́nh thương đó, bằng đời sống công chính và thánh thiện. Ăn ở buông tuồng, phóng túng là phản bội. Rồi chúng ta cũng phải nh́n thế giới bằng con mắt tin yêu đó, cải tạo nó thành nơi ở hạnh phúc cho mọi người. T́nh yêu là dấu chỉ chúng ta tin Chúa sống lại. Chúng ta sẽ hành động theo dấu chứng này. Khoa học chẳng thể chứng minh Chúa phục sinh. Nhưng đối với chúng ta điều đó không có nghĩa là biến cố đó không có thực, trái lại, nó cũng rất cụ thể và xác thực như các kinh nghiệm hằng ngày. Vậy th́ hôm nay mỗi người giáo dân phải chạy ra nơi an táng Chúa, nh́n vào mồ trống và vào tâm hồn tăm tối của ḿnh, tin cậy vào t́nh yêu hải hà Chúa ban, tự hỏi: "Tôi đă được trông thấy chi trong ánh sáng đức tin ? Tôi đă cảm nghiệm ra sao đời sống mới Chúa ban ? Và tôi sẽ chia sẻ sức sống này với ai ?" Xin Chúa Giêsu phục sinh chiếu soi tôn nhan Ngài trên mọi tín hữu. Amen. Alleluia.
Hồng
ân phục sinh phá bỏ bóng tối sự chết Anh chị em thân mến, Vì sao người ta trở lại thăm mộ những người quá cố? Cha mẹ tôi, bà con bên ngoại, tất cả vợ chồng họ được chôn gần nhau trong một nghĩa trang ở Long Island. Chúng tôi là con cháu cũng thường đi thăm mộ, dãy cỏ, tu bổ các bia mộ bị hư, và dĩ nhiên là cầu nguyện cho những người quá cố. Trong những dịp như vậy, chúng tôi thường nhớ tới cảnh gia đình sum họp ăn uống, nói cười vui, tranh căi, hôn nhau, nhớ lại những ngày chúng tôi còn bé tí sống với những người thân yêu đó. Tôi nghĩ: Bà Maria Magdalena có lẽ cùng đi thăm mộ Chúa như chúng tôi thăm mộ các người thân. Thánh Gioan viết: sáng sớm, lúc trời đang còn tối. Trời tối ở các nghĩa trang dễ làm chúng ta thương nhớ đến những ngày vui khi người thân còn sống. Nếu không có ánh sáng của đức tin, và niềm hy vọng của đức cậy, th́ mộ của những người chết đang ch́m trong bóng tối kia, chỉ gợi lại những kỷ niệm xưa đầy nỗi buồn sầu. Bà Maria đi thăm mộ để nhớ đến Chúa Giêsu, nhớ đến tình thương Ngài dành cho bà, và tình thương của bà đối với Ngài. Bà đi trong lúc trời tối để khóc. Nhưng khi bà đến nơi thì tảng đá đã lăn ra khỏi cửa mộ, và xác Chúa Giêsu biến mất. Bà liền chạy về báo tin cho Simon Phêrô và các Tông đồ khác. Bà nói: "người ta đã đem Chúa ra khỏi mồ, chúng tôi chẳng biết họ để Ngài ở đâu?". Chúa Giêsu đã bị xử tử hình rất tàn nhẫn, và bây giờ lại thêm vào sự lăng nhục một cách cách tán tận, "họ" đã đánh cắp xác Ngài. Bà Maria kết luận rất hồn nhiên, tuy rằng trong lúc buồn bã nhưng bà vẫn giữ bình tĩnh. Bà không có cách suy nghĩ nào khác được? Thật là một cách suy nghĩ đơn giản, và câu chuyện Chúa Giêsu đã xong mà "vẫn còn trong bóng tối" Vì sao Phêrô và các môn đệ khác đi lên mộ? Các ông không tin bà Maria hay sao, và muốn tìm hiểu thêm chi tiết? Các ông muốn kiểm tra nơi họ đánh cắp xác Chúa Giêsu, và tìm thủ phạm? Họ còn nhớ lời Chúa Giêsu nói trong bữa tiệc ly: "Thầy ra đi và đến cùng anh em"(Ga 14:28), và họ có thể có chút hy vọng là Ngài còn sống không? Các ông đi lên mộ vì các ông chán nản về sự thất bại của công việc Chúa Giêsu đă làm, và các ông muốn làm một cái gì đó? Các ông cố đi để kết thúc một quảng đời đầy hy vọng của các ông những khi còn đi theo Chúa Giêsu, nghe lời Ngài giảng dạy, và chứng kiến các việc ngài đã làm? Vậy anh chị em thử nghĩ xem vì sao các ông lên mộ? Có một chi tiết trong câu chuyện gợi ý cho chúng ta suy gẫm là Phêrô và các bạn ông vừa mới đi ngang qua mộ, và họ muốn xem thử ra sao trước khi họ tiếp tục đi về nhà. Họ chạy lên mộ. Hay đúng ra là họ chạy đua với nhau lên mộ, và vì môn đệ kia "chạy nhanh hơn Phêrô nên đến mộ trước". Có lẽ cả hai ông nhớ lời Chúa Giêsu nói, và có thể hai ông chạy lên mộ với chút hy vọng. Khi tôi đi thăm mộ, tôi chỉ hy vọng vào điều Chúa Giêsu đă nói, là đến ngày sau cùng, Ngài sẽ giữ lời hứa với chúng ta, là sẽ cho chúng ta sống lại. Thật là một điều khó tin! Tôi tự hỏi, làm sao Chúa có thể mở mồ chôn xác đã lâu đời của tôi lên được? Ngài làm sao được vì vừa mới chết, là đã có ai đó đánh cắp xác Ngài. Nhưng Ngài có thể làm cho chúng ta sống lại, nếu Ngài từ cơi chết sống lại và có một đời sống mới để chia sẻ với chúng ta ngay từ bây giờ. Với niềm hy vọng đó, chúng ta có thể là người môn đệ kia, người môn đệ chạy nhanh hơn Phêrô để đến mộ không? Hay là chúng ta ở trong số những người, ngay bây giờ, còn nhìn vào ngôi mộ trống, và với đức tin chúng ta chắc rằng Chúa Giêsu Kitô đã từ cơi chết sống lại, và chúng ta cũng sẽ được như Ngài. Ngay từ đầu câu chuyện về Chúa sống lại, Bà Maria Madalena còn ở trong bóng tối. Bà chưa thấy Chúa sống lại. Chúa là ánh sáng của thế gian. Bà chưa có đức tin của sự sống lại, và vì thế bà suy luận ra việc xác Chúa bị đánh cắp. Những người đọc Phúc âm thánh Gioan không lạ gì về bà Maria đến ngôi mộ khi trời còn tối. Bóng tối và ánh sáng là hai đề tài chính xuyên suốt Phúc âm thánh Gioan. Ngay từ đầu "Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng"(1:5) Bài Phúc âm hôm nay lại nói về đề tài ánh sáng và bóng tối một lần nữa. Trong Phúc âm, bóng tối là trường hợp của những người rời xa Chúa, vì tội lỗi, vì sự thiếu hiểu biết và sự chết. Chúa Giêsu sống lại mang đến sự mong chờ thoát khỏi chuỗi ngày của bóng tối. Loài người không còn bị dằn vặt trong bóng tối, hay loay hoay tìm cách thoát khỏi bóng tối, thoát khỏi sự kềm chế của tội lỗi nữa. Bà Maria đến mộ khi trời đang còn tối, nhưng Gioan đã biết trời sắp sáng khi ông viết "sáng sớm". Bóng tối đe dọa, nhưng bóng tối sắp hết. Người nào chạy đến ngôi mộ, và với con mắt đức tin, khi nhìn vào sẽ thấy ánh sáng . Bà Maria nhìn vào ngôi mộ và thấy mất xác Chúa. Phêrô nhìn vào ngôi mộ cũng thấy như vậy. Nhưng, người "môn đệ được Chúa thương" cũng nhìn, "thấy và tin". Ông thấy tấm vải liệm được xếp ngay ngắn, vải liệm nhắc đến một xác chết. Nhưng ông thấy nhiều hơn. Là Chúa Giêsu đã ra khỏi cõi chết và để lại tấm vải liệm. Có phải đó là nhờ tình thương mà người môn đệ kia nhìn thấy sự thật đã xảy ra? Có phải nhờ sợi dây tình yêu ràng buộc chúng ta với Chúa Giêsu, giúp chúng ta chịu đựng được biết bao nhiêu lần thân xác chúng ta bị chết thật, và nhờ đức tin, đã giúp chúng ta trung kiên trong những lúc khó khăn ở đời. Đó chính là nguồn hy vọng giúp chúng ta nhìn vào tương lai, trong khi hiện tại quá nặng nề trong đời sống chúng ta. Thánh Gioan cho chúng ta biết: người môn đệ có lòng tin đó chính là người môn đệ được Chúa thương. Nhờ biết được Chúa Kitô thương, nên bản thân mới có năng lực trong lời cầu nguyện, và hăng hái thi hành nhiệm vụ, vì thế sẽ Ngài không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Với sự cam đoan của t́nh thương đó, nhờ tình yêu ấy, chúng ta luôn tin tưởng và hy vọng. Chúng ta cũng như người môn đệ được Chúa thương, phải tin mà không cần phải thấy; không có bằng chứng nào rõ ràng về sự sống lại thật của Chúa Giêsu. Nhưng chỉ với tình thương của Chúa Giêsu đối với chúng ta, chúng ta đă là người môn đệ được Chúa thương. Chính đời sống, sự đau khổ và sự chết của Ngài là bằng chứng của tình yêu ấy. Ngài muốn tình yêu đó luôn sống động trong chúng ta, để chúng ta có thể chia sẻ t́nh thương của Chúa cho kẻ khác. Thánh Gioan nói với chúng ta "ngày thứ nhất trong tuần", một lần nữa ông nhắc đến sách Sáng Thế. Về ngày đầu tiên Đức Chúa tạo dựng trời đất, Chúa dùng ánh sáng để phá tan bóng tối. Và bây giờ, Thánh Gioan gợi ý, Chúa lại làm như vậy qua sự sống lại của Chúa Giêsu. Trời đang còn tối, nhưng ánh sáng chiếu qua bóng tối. Và người môn đệ Chúa thương đáp lại với đức tin của ḿnh. Người môn đệ có lòng tin trong bóng tối của ngôi mộ, chứ không phải trên đỉnh núi sáng chói. Chúng ta cũng vậy, lòng tin chúng ta phải kinh qua những ngôi mộ tối om như khi: Một người thân qua đời; Đời sống hôn nhân bị tan vỡ; công việc làm ăn thất bại; tuổi già hay bệnh tật ngăn chặn mọi sinh hoạt của cuộc sống,v.v...không còn một tia hy vọng nào. Chính những lúc đó, nhờ vào tình yêu của Chúa Giêsu mà chúng ta tuyên xưng trong đức tin "Chúa Giêsu đã sống lại từ cơi chết". Với lời tuyên xưng đó, chúng ta được bảo đảm rằng Đấng đã thương chúng ta sẽ giúp chúng ta chiến thắng sự chết và những gian dối của nó.
Chúng Tôi Xin Làm Chứng
Buổi sáng vội vă Vào buổi sáng ngày lễ Vượt Qua này, theo các tŕnh thuật Tin Mừng, dường như mọi người đều ở trong tâm trạng bồn chồn, có vẻ rất vội vă. Ngay từ sáng sớm, đă có nhiều người t́m đến một ngôi mộ, mỗi người có hoàn cảnh và mục đích riêng. Theo Tin Mừng Máccô, "sáng tinh sương, ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc ...", các phụ nữ đă chứng kiến việc an táng Đức Giêsu vào ngày thứ sáu, đă ra mộ, mang theo dầu thơm để ướp xác Đức Giêsu ... Sau đấy, khi đă nh́n thấy ngôi mộ trống, và gặp một nhân vật lạ, các bà đă rời nơi ấy, "cắm đầu chạy, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía". C̣n theo Tin Mừng Gio-an, cô Maria Mác-đa-la ra thăm mộ và "thấy tảng đá đă lăn khỏi mộ". Mấy ngày trước đây, cô đă trải qua những giờ phút đầy phiền muộn khi chứng kiến Vị Thầy yêu quư của ḿnh chịu chết và được an táng trong mộ. Lúc này, cô cảm thấy sợ hăi : cô nghĩ rằng ai đó đă lấy cắp thi thể của Đức Giêsu và đem đi mất. Trong đầu cô xuất hiện một mối hoài nghi : Đức Giêsu đă là nạn nhân của ḷng thù ghét, phải chăng Người c̣n bị truy đuổi ngay cả khi đă nằm trong mộ ? Thế là cô chạy về báo tin cho những người bạn của Đấng đă từng giải thoát cho cô. Nghe lời thuật lại của cô Maria Mác-đa-la, hai ông Phêrô và Gio-an liền đi ra mộ. Cả hai người đều chạy. Tới mộ, các ông đă nh́n thấy "những băng vải, và khăn che đầu Đức Giêsu, được cuốn lại, xếp riêng ra một nơi". Trước bằng chứng này, các ông gạt bỏ giả thuyết thi thể Đức Giêsu bị đánh cắp. Nhưng trong khi ông Phêrô c̣n phân vân, chưa hiểu được sự kiện xảy ra có ư nghĩa ǵ, th́ người môn đệ Đức Giêsu yêu quư đă hiểu rơ : ông nhận ra rằng không có chuyện đánh cắp thi thể Đức Giêsu. Qua các tấm khăn được xếp lại và để riêng, ông đọc thấy những dấu chỉ về một cuộc Phục Sinh đích thực ; sự sống đă đánh bại vương quốc tử thần. Chỉ có t́nh yêu mới đem lại cho người môn đệ ấy cặp mắt sáng ngời, biết nh́n ra mầu nhiệm giấu ẩn đằng sau những sự kiện. Nhờ t́nh yêu ấy, ông đă nh́n và đă tin, đồng thời khám phá ư nghĩa trọn vẹn của con người Giêsu - Đấng đang sống. Trở lại chuyện với cô Maria Mác-đa-la, cũng do t́nh yêu thúc đẩy, cô đă t́m đến mộ mà than khóc. Nhờ đó, cô là người đầu tiên được gặp gỡ Đức Giêsu Phục Sinh, và sau đó trở thành người đầu tiên loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Quả là một buổi sáng nhiều vội vă, dồn dập sự kiện quanh một ngôi mộ. Nhiều người đă t́m đến ngôi mộ, và rồi lại từ đó ra đi, bắt đầu một hành tŕnh mới, tin tưởng hơn, hăng hái hơn. Phục Sinh, một hứng khởi kỳ diệu Nếu không có Phục Sinh th́ cuộc đời Đức Giêsu đă chấm dứt với một thất bại rơ ràng : chết trên thập giá, những người bạn thân tín bỏ trốn hết. Tuy nhiên, vấn đề được nêu lên là làm sao có thể giải thích được cái chết ấy là khởi đầu cho một hứng khởi kỳ diệu là niềm tin Kitô giáo ? Trong thế kỷ đầu, mặc dù những cuộc bách hại khốc liệt diễn ra khắp nơi, nhưng Đức Giêsu đă được biết đến, được yêu mến, được tiếp nối và thờ kính ở khắp vùng ven Địa Trung Hải và cả những miền lân cận. Về vấn nạn này, các tông đồ và các môn đệ đă giải thích : "Đức Kitô đă sống lại. Chúng tôi xin làm chứng." Cụ thể như trường hợp ông Gio-an : "ông đă thấy và đă tin". Khởi đầu từ những yếu tố khác nhau như ngôi mộ trống và những lần Đức Giêsu hiện ra, tất cả trở nên sáng tỏ trước mắt ông : ông nhớ lại những điều Đức Giêsu nói, những việc Người làm, và ông tin. Nhờ ánh sáng của Thần Khí, ông cảm nghiệm được rằng : Đức Giêsu đă chỗi dậy, Người đang sống. Với tất cả các tông đồ khác cũng vậy. Các ông xác tín vào mầu nhiệm Phục Sinh và xác tín này làm thay đổi cuộc đời các ông : thái độ sợ hăi được nhường chỗ cho thái độ can đảm trong ḷng tin. Các ông sẵn sàng làm chứng về Đức Giêsu Phục Sinh dù phải hy sinh tính mạng. Cũng nhờ xác tín đó, nhờ thái độ can đảm và kiên quyết, các ông đă lôi kéo cả một đám người, mỗi ngày một đông hơn, Do-thái lẫn dân ngoại, đi theo các ông và cùng tin như các ông. Sau đó, đến lượt ḿnh, những người này cũng quả quyết Đức Giêsu đă sống lại, Người là Chúa. Thật thế, sự chỗi dậy từ cơi chết là đỉnh cao trong cuộc đời Đức Giêsu, giúp cho các tông đồ thấy rơ cuộc đời và con người Đức Giêsu. Đối với các ông, những lời Người nói, những việc Người làm, lời Người cầu nguyện, nhất là cái chết của Người, tất cả đều có ư nghĩa thâm sâu và phong phú. Sự Phục Sinh này đă mở mắt các ông, cho các ông nhận ra Đức Giêsu thực sự là Con Thiên Chúa, Người là ánh sáng trần gian. Do đó, cái chết của Người trên thập giá có ư nghĩa đặc biệt : đó không phải là dấu chứng về thất bại, nhưng là chứng tá tuyệt vời về t́nh yêu. "Không ai có t́nh thương lớn hơn t́nh thương của người hy sinh mạng sống ḿnh cho bạn hữu" (Ga 15,13). Trước mắt các ông, Đức Giêsu thật là Đấng Cứu Thế. Mở đường hướng tới tương lai Cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu cũng soi chiếu cuộc đời chúng ta và lôi kéo chúng ta. Đức Giêsu, Đấng đă trải qua cái chết, chính Người là Thiên Chúa, đồng thời cũng vẫn là một người như chúng ta, là anh em của chúng ta. Lễ Phục Sinh đem lại cho chúng ta biết bao hứng khởi để cố gắng bênh vực con người, để mỗi người cũng được phục sinh như Đức Kitô. Quả thế, lễ Phục Sinh cho thấy tất cả mọi khía cạnh trong câu nói của Đức Giêsu : "Chúa Cha đă yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hăy ở trong t́nh thương của Thầy ... hăy yêu thương nhau ..." Những việc Đức Giêsu làm, những lời Người nói giúp chúng ta nh́n cuộc đời theo một cách thức mới ; chính Người là Thầy, nhưng lại sống trong thân phận một tôi tớ. Người đă nói : "Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó ... ai hiền hoà ... xây dựng hoà b́nh ..." và Người đă sống đến cùng. Chính Thiên Chúa nói trong Đức Giêsu Kitô và thúc đẩy chúng ta bước theo Người, hành động như Người. Lễ Phục Sinh c̣n mở ra cho chúng ta những cánh cửa hướng tới tương lai. Phục Sinh, đó là vượt qua. Đức Giêsu là người đầu tiên vượt qua để làm cho chúng ta cũng vượt qua với Người. Phục Sinh, đó là cánh cửa hướng đến sự sống không bao giờ tận : từ nay cuộc đời trần thế của chúng ta đă có một chiều kích mới, chiều kích vĩnh cửu. Với Đức Giêsu Phục Sinh, không có con đường nào là con đường cùng, không lối ra ; cái chết không c̣n phải là rào cản ; tội lỗi có thể được thứ tha và tội nhân có thể được giải thoát. Chúng ta luôn có thể lên đường lại, và không bao giờ thất vọng về chính ḿnh cũng như người khác, bởi v́ từ nay, Đức Giêsu đă làm nảy sinh t́nh yêu, khởi đầu từ những hận thù đỗ xuống trên chính Người.
"Này Maria,
Này các
Tông Đổ,
Niềm Vui Phục Sinh
Giáo hội hôm nay cử hành màu nhiệm phục sinh nhằm hiện tại hóa biến cố Chúa sống lại cho mỗi người chúng ta. Tin mừng Máccô hôm nay cho chúng ta biết Chúa đă sống lại thật, bằng chứng là ngôi mộ trồng, bằng chứng là có Thiên Thần báo tin, bằng chứng là Chúa đă hiện ra với bà Maria Mácdana. Trước ngôi mộ trống, xác Chúa không c̣n nữa, trước sự lạ lùng của màu nhiệm phục sinh, cũng như Môsê cảm thấy hăi sợ trước bụi gai cháy, các bà cũng hoảng sợ và có ư nghĩ muốn trốn đi. Nhưng khi thức tỉnh, với niềm tin xác tín, các bà đă đi báo tin vui cho các môn đệ. Tâm thức của các bà giờ đây chỉ c̣n là một Đức Giêsu "Đấng đă phục sinh", Người không c̣n là một con người b́nh thường, quê ở Nagiarét, chịu đóng đinh, chết chôn trong mồ. Các bà đă chứng thực : Ngài đă thoát ra khỏi không gian và thời gian để hiện diện, gặp gỡ, tiếp xúc trước hết với mấy phụ nữ, các tông đồ, và tất cả chúng ta ngày hôm nay. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Giáo Hội một lần nữa muốn mỗi người chúng ta ư thức và xác tín vào việc Chúa phục sinh để cùng nhau tin tưởng, vui mừng và hy vọng vào sự phục sinh của mỗi người chúng ta trong ngày sau hết. Chúng ta tin v́ lời Chúa đă báo trước, và hôm nay điều đó đă trở thành hiện thực, hôm nay một ánh sáng mới, một sinh khí mới, một mầm sống mới đă đến với mỗi người chúng ta, như ḍng nước trường sinh tươi mát làm dịu bớt những nỗi đau, những hụt hẫng của cuộc đời. Chúng ta vui mừng v́ sức mạnh của ánh sáng vinh quang phục sinh đă chiếu sáng cho những người đau khổ nghèo hèn, những người bị tù đày, những người đang sống trong bóng tối thất vọng, tất cả từ nay được sống trong vui tươi hạnh phúc. Chúng ta hy vọng v́ cuộc đời mỗi người từ nay có chúa phục sinh cùng đồng hành và thần khí Chúa giúp ta sống trong b́nh an, hạnh phúc. Nói đến niềm vui phục sinh, tôi nhớ có câu chuyện kể lại rằng : Ở Nga, có một trại tù, nổi tiếng là tàn bạo, người tù sống ở đây suốt năm suốt tháng luôn bị đe dọa bởi những hành động dă man, độc ác và tàn nhẫn. Tù nhân sống ở đây ai nấy đều buồn bă ủ dột. Năm nọ vào dịp lễ phục sinh, bầu khí ảm đạm vẫn bao trùm cả ngục thất, bỗng nhiên một cô gái reo vang : "Chúa đă phục sinh Allêluia", thế là cả trại tù "như ong vỡ tổ" cũng động loạt reo vang trong niềm vui và niềm hạnh phúc "Chúa đă phục sinh Alleluia" các lính canh gác cũng không biết làm sao mà giữ cho yên lặng, trật tự. Th́ ra, sức mạnh của Đấng phục sinh có thể làm nổ tung tất cả và đem lại niềm vui bất tận. Nh́n vào cuộc đời của mỗi người chúng ta : ngày qua ngày vẫn c̣n đó những nỗi buồn, vẫn c̣n đó những khổ ải, vẫn c̣n đó những thất vọng, như canh ngục thất ảm đạm vẫn bao trùm. Xin Chúa Phục sinh luôn đồng hành, hiện diện trong cuộc đời mỗi người để chớ ǵ cuộc đời mỗi người chúng ta được liên kết nên một, gắn vào thân thể phục sinh nhiệm màu của Chúa, để những nỗi buồn trở thành niềm vui, những khổ ải, thất vọng trở thành niềm hy vọng. Và với niềm tin, sự xác tín vào Chúa Phục Sinh Từ nay mỗi người sẽ trở nên những con nguời mới, như lời khuyên của thánh Phaolô tông đồ : "Anh em hăy trở nên con người mới". Được mặc lấy con người mới trong Đức Giêsu Kitô, mỗi người dám chết đi con người tội lỗi của ḿnh, là những tham sân si, những ích kỷ, những hận thù gen gét, những đam mê dục vọng, để cùng với Đấng phục sinh tái sinh trong cuộc đời mới. Ước ǵ niềm vui, niềm hy vọng và niềm tin vào Chúa phục sinh của mỗi người chúng ta được thể hiện bằng hành động qua từng ngày sống. Từ nay, mỗi người sẽ điều chỉnh lối sống, định đoạt lối sống của ḿnh sao cho gia đ́nh ấm êm, xă hội lành mạnh và thế giới yêu thương.
Mầu nhiệm Phục Sinh Chúa Giêsu Kitô, một vị tướng lănh có một chiến lược hết sức ly kỳ : lùi một bước để tiến hai bước, Ngài lùi để tiến mạnh mẽ và chắc chắc hơn, Ngài nhượng bộ cho địch thù, để đang khi họ đàn hát vui mừng v́ đă loại trừ được một đối thủ nguy hiểm th́ Ngài quay lại mà chiếm cuộc toàn thắng cuối cùng, Ngài đă tự nộp ḿnh cho những vua quan văn vơ đạo đời về cả hai dân Do Thái và Rô-ma, họ đă đối xử với Ngài như bọn sói rừng hung dữ xông vào cắn xé con chiên hiền lành : đánh đập Ngài, bắt Ngài vác thập giá và căng thây Ngài trên cái giá khổ h́nh đó, họ đă giết Ngài, chưa hết, một tên lính lại lấy lưỡi đ̣ng đâm thủng trái tim Ngài. Lẽ nào một người đă bị đâm thủng trái tim mà c̣n sống được sao ? một người đă được chôn táng cẩn thận trong mộ đá mà c̣n sống sao ? Đúng thế, đúng như Chúa đă báo trước nhiều lần : “Con Người sẽ bị nộp cho kẻ gian ác, chúng sẽ giết Người, nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại”. Hôm nay, không riêng ǵ Giáo hội Công giáo mà tất cả những người tin Chúa Kitô trên khắp thế giới đều hân hoan mừng cuộc chiến thắng khải hoàn của Chúa Giêsu : Ngài đă sống lại, Ngài đă phục sinh. Không có tác giả Tin Mừng nào thuật lại chính sự việc Chúa sống lại : Ngài sống lại đích xác vào giờ nào và như thế nào, điều đó không ai được biết, nhưng cả bốn sách Tin Mừng khi kể biến cố Chúa Giêsu sống lại đều nhất trí về ba điều : Thứ nhất, thời gian sống lại là sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, theo cách tính bây giờ là sáng sớm ngày Chúa nhật. Thứ hai, sự việc xảy ra là mộ trống, Chúa Giêsu không c̣n ở trong mộ, có những nhân vật chứng kiến sự kiện này là cô Maria Mác-đa-la, hai tông đồ thế giá nhất là Phêrô và Gio-an. Thứ ba, Chúa Giêsu đă hiện ra nhiều lần với các tông đồ và với nhiều người khác trong những hoàn cảnh khác nhau. Quả thực, một con người có tên là Giêsu, và c̣n được gọi là Kitô, đă từng khuấy động cả nước Do Thái, con người đó đă bị xét xử trong một vụ án công khai làm xôn xao cả thủ đô Giê-ru-sa-lem, liên hệ đến cả chính quyền bảo hộ cao cấp nhất thời đó ở Pa-lét-tin, con người đó đă bị giết chết trên thập giá, được an táng trong mộ đá, và mộ đă được niêm phong cẩn thận có lính gác. Thế rồi, đúng như đă nghe nói trước, ngày thứ ba sau khi chết, con người đó không c̣n trong mộ, Ngài đă sống lại. Đây là một biến cố vĩ đại, một sự kiện vô tiền khoáng hậu, độc nhất vô nhị, có một không hai trong lịch sử : Chúa Giêsu Kitô phục sinh. Đây là một sự kiện minh giáo hùng hồn nhất, chứng tỏ sứ mệnh thần linh của Chúa Giêsu, đồng thời đây cũng là một chân lư ṇng cốt của đức tin Công giáo, là nền tảng căn bản cho lâu đài đức tin của chúng ta : Chúa sống lại mới cứu chuộc được nhân loại, nếu như Ngài chết luôn như các giáo chủ khác th́ Ngài không có quyền ǵ cứu chuộc chúng ta, nhưng Ngài đă sống lại để chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa, là Thiên Chúa hằng sống và là nguồn sống, từ đó Ngài ban sự sống cho tất cả mọi người, ai tin vào Ngài th́ được sống đời đời. Như vậy, một điều chắc chắn : sự kiện Chúa phục sinh không thể minh chứng một cách rơ ràng như chúng ta minh chứng một sự kiện tự nhiên, không thể chụp h́nh, đo lường hay thí nghiệm được, v́ cả nhân loại chỉ có một ḿnh thân xác Chúa sống lại, lấy đâu mà thí nghiệm, kinh nghiệm, cho nên, việc Chúa sống lại, vấn đề chính yếu là đức tin : không thấy mà tin, bởi v́ sự việc đó vượt trên phạm vi của khoa học thực nghiệm cũng như không thể nào dùng những lư luận hay những bằng chứng khoa học để minh chứng. Tuy nhiên, khi xem xét hậu quả của niềm tin nơi mầu nhiệm đó, người ta có thể nhận ra mầu nhiệm ấy chân thật, vững chắc. Hậu quả của niềm tin đó là Kitô giáo nói chung và Giáo hội Công giáo nói riêng. Nói rơ hơn, Kitô giáo chính là bằng chứng lịch sử cho sự kiện phục sinh của Chúa Kitô, chính sự kiện Chúa Kitô phục sinh đă phát sinh ra Kitô giáo, và cho đến ngày nay mầu nhiệm Phục Sinh vẫn là nền tảng của Kitô giáo, không có Chúa Kitô Phục Sinh không thể có Kitô giáo, hủy bỏ được Chúa Kitô Phục Sinh, đạo Kitô không c̣n. Lời thánh Phao-lô xưa kia đă đúng, ngày nay vẫn đúng và sẽ c̣n đúng măi : “Nếu Đức Kitô không sống lại th́ tất cả niềm tin của chúng ta sụp đổ”. Như vậy, tất cả những điều trên đây cho chúng ta biết : mặc dầu Kinh Thánh đă cống hiến cho chúng ta một số bằng chứng về sự phục sinh của Chúa Kitô, nhưng đối với mầu nhiệm cao cả và ṇng cốt này vẫn đ̣i hỏi chúng ta phải có một niềm tin, hay đúng hơn, một đức tin. Nếu Chúa Giêsu đ̣i hỏi chúng ta phải tin những điều Ngài giảng dạy và những việc Ngài làm nhân danh Thiên Chúa, th́ Ngài lại càng đ̣i hỏi chúng ta phải đặt niềm tin sắt son gắn bó với mầu nhiệm Phục Sinh, là cao điểm, là trung tâm điểm của toàn thể các mầu nhiệm của Ngài. Tóm lại, sự kiện Chúa Kitô phục sinh là một trong những chân lư đức tin, một mầu nhiệm. Đây là chân lư nền tảng cho cuộc sống đức tin và niềm hy vọng của chúng ta. Chân lư đức tin này giúp cho chúng ta có một cái nh́n mới về Thiên Chúa, về chính ḿnh, về cuộc đời, về sự sống, sự chết, đời này, đời sau, về lịch sử, về những biến cố thăng trầm…những cái nh́n mới ấy không sách vở nào ban cho chúng ta được, mà chính mỗi người phải cảm nghiệm để hướng dẫn và giúp chúng ta sống mỗi ngày một tốt đẹp hơn. Như vậy cũng có nghĩa là chúng ta đừng bao giờ hài ḷng với một đức tin lư thuyết và h́nh thức, nhưng phải sống một đức tin chân thật và thân ái. Nói rơ hơn, chính cách sống tốt đẹp của chúng ta, như thực hành các việc đạo đức cho nghiêm chỉnh, sống hài ḥa, công bằng và yêu thương với mọi người…Sống như vậy là chúng ta đang thể hiện niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh và sự phục sinh của chính ḿnh.
B́nh An Cho Anh em “B́nh an cho anh em !” (Ga 20,21). Đó là lời đầu tiên Đức Giêsu Kitô trao ban cho các môn đệ sau khi Người vinh thắng khải hoàn. Sự b́nh an Người trao cho các môn đệ nối kết lời các Thiên Thần hân hoan chúc tụng trong ngày Con Thiên Chúa giáng trần (x. Lc 2,14). B́nh an dưới thế cho loài người Chúa thương (x. Lc 2,14). “B́nh an cho anh em !” (Ga 20,26). Lời ban b́nh an đặc biệt được Đức Kitô Phục Sinh trao ban cho cộng đoàn Giáo hội tiên khởi c̣n đang trong ṿng kinh hăi, lo sợ, nghi ngờ. Các Tông đồ c̣n đang trong cơn hỗn loạn, hoang mang, bối rối. Niềm tin vào một Thầy Giêsu đang bị chao đảo sau khi đă chứng kiến cuộc hành h́nh hai ngày trước đó. Sự sợ hăi đă làm cho các Tông Đồ trở lên nghi hoặc, được đẩy lên cao trào khi Tôma tuyên bố cách khẳng khái : Nếu không tận mắt nh́n thấy, tay không chạm tới Thầy th́ nhất quyết không tin (x. Ga 20,25). Sự b́nh an của Đức Kitô Phục Sinh đă đến đúng lúc, làm tăng thêm sức mạnh niềm tin, đẩy lùi sự hèn yếu trong tâm trí các Tông Đồ, để rồi cũng Tôma đại diện đă phải thốt lên : “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,28). Trong cuộc sống lữ hành, con người luôn phải đối mặt với những lo âu, phức tạp về bản thân, gia đ́nh, cộng đoàn và xă hội. Khi cuộc sống c̣n đó đầy những bất hoà, bất thuận, chia rẽ, xô xát, đố kỵ, ích kỷ, nghi ngờ, giả dối,… con người vẫn cố gắng vượt qua để t́m kiếm sự b́nh an. B́nh an chỉ có được khi có niềm tin. Con người không thể sống mà không có niềm tin. Thế nhưng, tin là chấp nhận bấp bênh. Tin là chấp nhận có thể bị lừa dối. Niềm tin chỉ được triển nở và phát triển qua những hành động bên ngoài. Mỗi người Kitô hữu đều được mời gọi trở nên dấu chứng niềm tin về Chúa Kitô Phục Sinh. Trong gia đ́nh, cộng đoàn, giáo xứ hay xă hội, mọi tín hữu được mời gọi xây dựng niềm tin cho người khác bằng cách tạo sự b́nh an cho họ. Niềm tin gắn kết trong hành động sẽ là dấu chứng hùng hồn cho mọi người thấy. Quả vậy, đức tin không có hành động chỉ là đức tin chết (Gc 2,17). Mỗi người Kitô hữu cần hành động để người khác thấy thế nào là tin (x. Gc 2,18). Thế giới ngày nay đang đứng trước vực thẳm niềm tin khi phong trào khử thiêng lan toả khắp mọi nơi. Niềm tin vào một Thiên Chúa bị lung lay, chao đảo. Con người đang tự đặt ra những câu hỏi cật vấn về niềm tin của ḿnh. Những ǵ họ tin có chăng là sự thật hay một tṛ bịp ẩn nấp dưới danh nghĩa tôn giáo ? Những ǵ họ tuyên tín phải chăng chỉ là những lời lẽ lố bịch ? Cuộc khủng hoảng niềm tin ngày nay dường như phản ánh tâm tư của các Tông đồ trong những ngày đầy sóng gió trước một Giêsu bị giết trên thập giá ? Hơn nữa, sự phát triển của các ngành khoa học mang lại cuộc sống sung túc, con người chạy theo lối sống thực dụng, càng làm cho giá trị thực tế trở nên quan trọng dường bao. Đức Kitô Phục Sinh đă đến mang theo sự b́nh an cho các Tông Đồ. Người soi sáng và dẫn đưa các ông bằng nhận thức mới về niềm tin : “Đừng cứng ḷng, nhưng hăy tin” (x. Ga 20,27), bởi “Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga 20,29). Với mối phúc thứ chín này Đức Giêsu Kitô Phục Sinh cho nhân loại thấy rằng : thay v́ phải tận mắt thấy tôi mới tin, th́ ngược lại, hăy tin th́ bạn sẽ được thấy và thấy cách trọn vẹn. Niềm tin phải đi trước, niềm tin cần vượt trên tất cả sẽ trở thành hạnh phúc và b́nh an. Nhiều khi chúng ta tuyên bố niềm tin cách mạnh mẽ, kiên quyết và dứt khoát, nhưng khi phải đối mặt với những dấu tích thập giá trong cuộc đời, niềm tin nơi chúng ta tưởng chừng bị tan biến. Chúng ta có biết rằng, dầu là Con Thiên Chúa, Đức Kitô vẫn phải trải qua thập giá trước khi bước vào vinh quang (x. Dt 2,10), và chính dấu chứng thập giá mới đảm bảo cho đức tin của Hội thánh, của người Kitô hữu khi bước vào đời sống vĩnh cửu. Niềm tin đó không phải là một yếu tố đơn thuần, mà là một tổng hợp giữa ơn thánh và nghị lực con người. Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể ! Trên đường đời lữ hành đầy gian truân, chúng con thú nhận rằng, có nhiều lúc niềm tin hạnh phúc của chúng con c̣n lắm nhạt nḥa. Có những khi chúng con c̣n ngại tin hoặc chậm tin vào điều ḿnh không thấy ; đặc biệt khi phải hy sinh những hạnh phúc chính đáng nh́n thấy để vươn đến một thứ hạnh phúc ở ngoài tầm nh́n khả giác. Lạy Chúa, xin ban cho chúng con luôn b́nh an. Từ đó, chúng con có được nghị lực và can đảm tin vào những điều ḿnh không thấy để được thấy điều ḿnh đă tin. Xin cho chúng con vững tin vào những ǵ Ngài dạy qua Hội thánh, để chúng con có thể nói được rằng : “Tôi đă thấy Chúa” (Ga 20,18) ; và qua mỗi người chúng con, mọi người cũng đều nói lên : “chúng tôi đă thấy Chúa” (Ga 20,25). Amen
Đức
Kitô Phục Sinh Là Lẽ Sống Đời Ta Sự sống là một ân ban nhưng không Thiên Chúa dành cho nhân loại cũng như vạn vật. Sự sống đời này rồi cũng sẽ có ngày kết thúc bằng cái chết. Phải chăng chết là hết, là chấm dứt tất cả, là đi vào cơi hư vô? Tŕnh thuật tin mừng theo thánh Gioan hôm nay cho chúng ta biết rằng: Đức Giêsu đă sống lại từ cơi chết. Đó chính là niềm hy vọng và là lẽ sống của chúng ta. Niềm tin Kitô giáo giúp chúng ta hiểu rằng: chết không phải là hết nhưng nhưng là để bước vào một sự sống mới - sự sống trường sinh. Đức Kitô đă chết và đă sống lại là một minh chứng hùng hồn nhất về niềm tin ấy. Mọi khổ đau và nhục nhă Đức Giêsu phải chịu, giờ đây đă trở thành vinh quang bất diệt. Cái chết chẳng c̣n quyền chi đối với Người (x.Rm 6,9). Trong Đức Kitô phục sinh, cái chết c̣n là một sự sinh nở, là bước vào sự hiệp thông trọn hảo với Thiên Chúa Ba Ngôi. Đức Giêsu sống lại đă mở ra một thời kỳ mới, thời kỳ số phận con người được nâng lên làm con cái Thiên Chúa. Thực vậy, cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Giêsu đă trở thành trung gian giao hoà giữa trời với đất, giữa Thiên Chúa và nhân loại. Từ đây, con người được quyền trở thành công dân của Nước Trời. Quyền ấy đ̣i hỏi con người phải biết đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa thông qua giới luật “yêu thương”. Tin mừng theo thánh Gioan hôm nay kể lại một sự kiện gây xúc động – thi hài Đức Giêsu đă biến mất. Chính bà Maria Mác-đa-la đă phát ra sự kiện này. Đoạn văn này c̣n đặc biệt chú ư đến hai môn đệ: Thánh Phê-rô và một môn đệ khác mà theo truyền thống thường coi là tông đồ Gioan. Theo tŕnh thuật, ngay khi thánh Gioan thấy những băng vải để ở đó và khăn che đầu Đức Giêsu ở trong mộ, th́ ông đă tin. Điều ǵ đă làm cho thánh Gioan tin là Đức Giêsu đă sống lại? Có thể đó là do cách xếp đặc trưng của Đức Giêsu mà thánh Gioan đă nhận ra. Người làm được việc ấy không thể là người chết nhưng là người đang sống. Người đó chỉ có thể là Đức Giêsu. Đó là cuộc gặp gỡ đầu tiên của thánh Gioan với Đức Kitô phục sinh. Đức Giêsu đă hiện ra nhiều lần để củng cố niềm tin cho các môn đệ sau khi Người trỗi dậy từ cơi chết. Người giải thích cho họ hiểu những điều kinh thánh đă viết về Người. Người cùng “bẻ bánh” với các môn đệ và mở mắt cho họ để họ nhận ra Người. Các điều ấy đă được các môn đệ của Đức Giêsu làm chứng. Lời chứng của các môn đệ đă thấy tận mắt này chính là nền tảng cho đức tin Kitô hữu. Họ biết rằng Đức Kitô đă chết trên cây thập giá, họ cũng biết rơ nơi Đức Giêsu đă được chôn cất, và mỗi người trong họ đă gặp Đức Kitô phục sinh. Những cuộc gặp gỡ này với Đức Giêsu phục sinh đă làm cho ḷng tin của họ vào sự thật của Kinh Thánh thêm vững chắc: họ biết rằng những ǵ đă được nói và báo trước trong Kinh Thánh là lời xác thực của Thiên Chúa. Các môn đệ đă làm chứng về Đức Giêsu phục sinh không chỉ bằng lời nói mà c̣n bằng chính mạng sống của ḿnh. Bởi họ đă xác tín và đặt trọn niềm hy vọng vào Thầy của ḿnh: “Ai phục vụ Thầy, th́ hăy theo thầy; và Thầy ở đâu th́ kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó” (x.Ga 12, 26). Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, mầu nhiệm Chúa sống lại là lẽ sống và là niềm hy vọng đích thực cho toàn thể nhân loại, cách riêng cho chúng con là các Kitô hữu. Xin giúp chúng con mỗi ngày một thêm tín thác vào Chúa, để chúng con không chán nản, thất vọng hay buông xuôi trước những thử thách của đời sống chứng tá cho sự phục sinh vinh hiển của Chúa. Amen.
CHÚ GIẢI TIN MỪNG Vọng PS – năm B 16,1 : Có thể nói Tin Mừng Máccô là Tin Mừng ngắn gọn và súc tích nhất trong bốn Tin Mừng. Trong chương 16, để phá tan sự hoài nghi của các môn đệ đồng thời chuẩn bị ḷng trí họ đón nhận và thi hành Sứ Vụ Cao Cả (16,15), tác giả Máccô đă tŕnh bày một cách tuần tự các bước như sau: [1] thiên thần truyền cho những người phụ nữ đi báo tin mừng cho Nhóm Mười Một (c.1-8); [2] Đức Giêsu hiện ra với bà Maria Mác-đa-la và bà đă đi chia sẻ cho người khác tin mừng đó (c.9-11); [3] Hai môn đệ trên đường Ê-mau đă nói chuyện với Đức Giêsu và kể lại cho các môn đệ khác (c.12-13); [4] Đức Giêsu hiện ra với Nhóm Mười Một và khiển trách họ sao quá cứng ḷng (c.14); [5] Đức Giêsu truyền cho Nhóm Mười Một thi hành Sứ Vụ Cao Cả (c.15-18); [6] Đức Giêsu lên trời (c.19); [7] các môn đệ ra đi rao giảng (c.20). Vừa hết ngày Sa-bát[1] khi các cửa hiệu bắt đầu bày bán, bà Maria Mác-đa-la, bà Maria mẹ ông Gia-cô-bê và bà Sa-lô-mê (15,40) đă mua dầu thơm để ướp xác Đức Giêsu vào sáng hôm sau, v́ thuốc thơm tẩm trong những khăn liệm có lẽ đă bay hơi (Ga 19,40). Các bà đă chuẩn bị những thứ này từ ngày thứ Sáu (Lc 23,56), dù rất muốn nhưng các bà không dám vi phạm luật ngày Sa-bát. Tuy nhiên, những người phụ nữ đạo đức này không biết rằng những thứ họ chuẩn bị sẽ không c̣n cần thiết cho buổi sáng ngày Phục sinh. Rơ ràng t́nh cảm của họ lớn hơn niềm tin, v́ việc làm của họ cho thấy họ không mong chờ Đức Giêsu phục sinh, nhưng ḷng yêu mến Đức Giêsu của họ th́ tuyệt vời. Có thể thấy, việc họ đến để tẩm dầu thơm cho một thi thể đă chết hai ngày lại không ướp quả là một hành vi mộ mến cao độ, nhất là với khí hậu ở Giê-ru-sa-lem th́ quá tŕnh phân hủy xác sẽ diễn ra rất nhanh. 16,2 : Các bà đi đến mộ lúc “sáng tinh sương”. Khi trời c̣n tối, họ ra mộ (Ga 20,1). Lúc mặt trời mọc họ đến mộ. Đây là lần đầu tiên Tin Mừng Máccô đề cập đến ư nghĩa của “ngày thứ nhất trong tuần”,[2] cũng là “ngày của Chúa”, ngày Đức Giêsu Phục sinh. Đó cũng là ngày mà Giáo Hội Sơ Khai đặt làm ngày thờ phượng chính (Cv 20,7; 1Cr 16,2; Kh 1,10). 16,3 : Trên đường ra mộ, các bà trao đổi với nhau về những khó khăn mà họ sẽ gặp. Họ đă từng chứng kiến việc an táng Đức Giêsu và việc niêm phong cửa mộ, nên họ lo lắng không biết có ai đó giúp họ lăn tảng đá nặng nề lấp cửa mộ ra không (15,46). Quả thật các bà đă đi ra mộ mà không có người đàn ông nào đi cùng, như vậy việc bàn luận về tảng đá lấp cửa mộ cho thấy các bà không hề có sự liên lạc nào với các tông đồ từ khi Đức Giêsu chết. 16,4 : Ngước mắt lên (ajnablevyasai) ám chỉ khi vội vă đến mồ các bà đă nh́n xuống. Người ta thường hay nh́n xuống lúc sợ hăi hoặc lo lắng (Lc 21,28). Các bà nh́n xuống có thể v́ lo lắng, nhưng cũng có thể v́ thận trọng bởi các bà đă ra mộ lúc sớm tinh sương. Bất ngờ các bà thấy tảng đá đă lăn ra. “Tảng đá ấy rất lớn” nhấn mạnh rằng từ xa các bà đă trông thấy nó bị dời đi. Tuy nhiên, mệnh đề “tảng đá ấy rất lớn” không nhằm vào việc tảng đá lăn ra cách nào, nhưng muốn tŕnh bày sự lo lắng lúc ban đầu khi các bà chưa đến mộ, c̣n giờ đây là sự kinh ngạc của các bà. Cấu trúc văn phạm này trong văn chương Hy-lap được gọi là hysteron proteron, hay c̣n gọi là phương pháp nghịch đảo. Kiểu văn phạm này thường được sử dụng trong văn chương Hy-lạp. 16,5 : Việc các bà đi vào bên trong mộ cho thấy ngôi mộ này[3] khá lớn. Vào bên trong, các bà thấy “một thanh niên” ngồi bên phải, mặc áo chùng trắng. Tin Mừng Mát-thêu th́ xác định đó là một thiên sứ với “diện mạo như ánh chớp”, đồng thời Mát-thêu c̣n ghi nhận: “Bỗng đất rung chuyển dữ dội: thiên sứ của Chúa từ trời xuống đến lăn tảng đá ra”, c̣n các lính canh th́ “sợ hăi, run rẩy chết ngất đi” (Mt 28,2-4). Thiên thần không đến lăn tảng đá để Đức Giêsu có thể ra khỏi mộ, v́ thân xác vinh quang của Người không c̣n bị vật chất cản trở nữa. Điều này giải thích cho việc các khăn liệm vẫn c̣n nguyên vị sau khi Đức Giêsu sống lại (Ga 20,6-7). Sau đó, Đức Giêsu cũng bất ngờ hiện ra với Nhóm Mười Một (v́ ông Tô-ma không ở đó) khi các cửa bị đóng kín, nhưng thân xác Người là “bằng xương bằng thịt”, chứ không phải chỉ là thần khí (Lc 24,39-43; 1Cr 15,44-50). Tảng đá được lăn ra khỏi mộ để các bà và sau đó là ông Phêrô và Gio-an có thể vào bên trong. Các bà đă hoảng sợ, v́ quả thật, không dễ ǵ để họ có thể ngay lập tức đón nhận được sự kiện lớn lao này. 16,6 : Theo Tin Mừng Lu-ca th́ có đến hai thiên thần xuất hiện, nhưng chỉ có một vị lên tiếng (Lc 24,4). Thiên thần bảo các bà đừng hoảng sợ. Quả thật, ngôi mộ trống làm các bà lo lắng, v́ họ không biết điều ǵ đă xảy ra với thi hài Đức Giêsu. Thiên thần trấn an họ rằng “Đức Giêsu Na-da-rét”, Đấng mà họ yêu mến, quả thật Người đă phục sinh. Các bà đă xem những khăn liệm và khăn che đầu Đức Giêsu vẫn c̣n nguyên vị như thể thân xác Người đă đi xuyên qua chúng (Ga 20,6-7). 16,7 : Trước tiên, các bà đón nhận tin mừng Đức Giêsu phục sinh chỉ như đó là một hiện tượng lạ. Nhưng Thiên Chúa chọn các bà trở thành những người nhắc nhớ Nhóm Mười Một về những ǵ Đức Giêsu đă nói với các ông trước khi Người chịu chết (Mc 14,28; Ga 21). Ông Phêrô được chọn cách đặc biệt, v́ ông đă chối Đức Giêsu những ba lần (Mc 14,66-72), cho dù sau đó ông đă hối hận và khóc lóc (Lc 22,62), ông vẫn cần được bảo chứng rằng không phải ông không xứng đáng là tông đồ Đức Giêsu. Đức Giêsu biết rơ ông Phêrô và xác định t́nh yêu của Người dành cho ông khi Người dùng các thiên thần chuyển lời tới các môn đệ và ông Phêrô. 16,8 : Con người thường sợ hăi khi Thiên Chúa biểu lộ vinh quang (94,41; 5,15.33.36; 6,50; 9,6.32). Khi được các thiên thần báo tin, các bà đă run rẩy và chạy trốn. Thuật từ hết hồn hết vía (e[kstasi~) diễn tả rất rơ điều đó. Các bà chạy trốn và chẳng nói ǵ với ai. Các bà không nói nên lời v́ bị choáng ngợp bởi mạc khải lớn lao và đáng sợ mà họ vừa thấy và nghe. Rồi khi b́nh tâm lại và nhận ra Đức Giêsu đă thực sự Phục sinh, th́ nỗi sợ hăi lập tức biến thành niềm vui (Mt 28,8). 16,9 : Một số học giả Kinh Thánh hoài nghi tính xác thật của Mc 16,9-20 và cho rằng Máccô không viết phần này, v́ những câu này không có trong hai thủ bản cổ Vatican Codex và Sinaitic Codex, cho dù chúng được chép trong hầu hết các thủ bản khác. Để bảo vệ quan điểm của ḿnh, các học giả này đă loại bỏ các câu 16, 9-20 bằng một tiến tŕnh gọi là hapax legomena, dựa vào vấn đề một số thuật từ chỉ được dùng ở đây và không có ở chỗ nào khác trong Tin Mừng. Họ cũng giống những học giả đă cho rằng thư Ê-phê-sô không phải của tác giả Phao-lô v́ họ t́m được 36 thuật từ chỉ có trong thư này mà không có trong các tác phẩm khác của Phao-lô. Đó là những phương pháp thiếu khôn ngoan và kém khoa học để phê b́nh tác giả. Có thể nói đó là một việc làm vô ích. Thật vậy, hầu hết các học giả uyên bác đều xem những câu này chính là một phần của Tin Mừng. Các câu 16, 9-20 là xác thực v́: (1) những câu này được chép trong hầu hết các thủ bản Hy-lạp và được Giáo Hội nhận từ thế kỷ thứ hai; (2) những câu này không đi ngược lại những ǵ đă chép trong Kinh Thánh. Bắt đầu từ đây, Máccô sẽ ghi nhận những lần hiện ra của Đức Giêsu cho tới khi Người lên trời. Người ta mong đợi Đức Giêsu sẽ hiện ra trước tiên với các môn đệ hoặc với thân mẫu Người, tuy nhiên vinh dự này lại được trao cho bà Maria Mác-đa-la.
CHÚ GIẢI TIN MỪNG CNPS – năm B 20,1: Vào chiều ngày Thứ Sáu, [4] trước lúc mặt trời lặn, Đức Giêsu được mai táng trong mộ, v́ không ai được phép đi lại hay làm việc trong ngày Sa-bát. Sáng ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu chỗi dậy. Theo cách tính của người Do-thái, đó là ngày thứ ba kể từ khi Đức Giêsu được mai táng.[5] Cả bốn sách Tin Mừng đều đề cập đến chi tiết tảng đá bị lấy ra khỏi mộ. Theo Tin Mừng Máccô, tảng đá đó rất to. Tin Mừng Mát-thêu th́ cho biết có một thiên sứ của Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, và tảng đá đó đă được niêm phong để bảo đảm không ai có thể vào trong mộ (Mt 27,66). Nhưng chính những lính canh mộ và dấu niêm phong cửa mộ đă trở thành nguồn nhân chứng, vật chứng rơ ràng cho biến cố phục sinh của Đức Giêsu. 20,2: Khi đọc chương 20, chúng ta như bước vào một thế giới hoàn toàn mới với một khung cảnh hết sức thanh b́nh, những tiếng la ó “đóng đinh, đóng đinh nó đi” (19,6) không c̣n nữa. Tiếng kêu la quằn quại đau đớn và tiếng khóc than của bạn bè, thân hữu Đức Giêsu cũng không c̣n. Băo tố đă qua và giờ đây tràn ngập một bầu khí an b́nh kỳ lạ. Vinh quang của Đấng Chiến Thắng sự dữ sắp được tỏ bày. Giống như các Tin Mừng Nhất Lăm, Tin Mừng Gio-an không thuật lại việc Đức Kitô chỗi dậy như thế nào, v́ không ai biết chính xác thời khắc Đức Giêsu ra khỏi mộ. Tin Mừng Mát-thêu chỉ nói: “Bỗng đất rung chuyển dữ dội: thiên sứ của Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên” (Mt 28,2). Song, thiên thần không đến lăn tảng đá để Đức Giêsu có thể ra khỏi mộ v́ Người đă sống lại và không c̣n ở đó, mà thiên thần chỉ cho biết Đức Giêsu đă ra khỏi mộ, và giờ đây, những người phụ nữ có thể vào trong mộ. Khác với các Tin Mừng Nhất Lăm, Tin Mừng Gio-an không thuật lại việc thiên thần hiện ra với bà Maria. Theo Tin Mừng Máccô (16,7), thiên thần đă bảo bà Maria về báo tin cho ông Phêrô, và bà đă đi gặp ông Phêrô rồi ông Gio-an để thuật lại kinh nghiệm lạ lùng của bà. Trong Tin Mừng Gio-an, tác giả thường tránh nêu tên ḿnh, mà hay dùng kiểu nói “một môn đệ khác, môn đệ Đức Giêsu yêu mến”, cho dù thuật từ yêu mến (ejfivlei[ephilei]) trong câu này khác với thuật từ yêu mến (hjgavpa [egapa]) trong 19,26. Thuật từ yêu mến (ejfivlei[ephilei]) nhấn mạnh đến t́nh bằng hữu, c̣n yêu mến (hjgavpa [egapa]) ám chỉ ḷng thương cảm. Bà Maria xác định rơ họ ở đây là những ai. Thật vậy, bà đă giải thích việc Đức Giêsu biến mất khỏi mộ là v́ họ[6] đă lấy mất xác Đức Giêsu. Danh xưng “chúng tôi” trong lời của bà Maria cho thấy bà không ở đó một ḿnh, mà c̣n có những phụ nữ khác (x. Lc 24,10) 20,3 : Không tài liệu nào cho biết lúc đó ông Phêrô và ông Gio-an đang ở đâu. Điều quan trọng là hai ông đă nhanh chóng chạy đến mộ. Thuật từ ngôi mộ (Mnhmeion[Mnèmeion]) được Gio-an sử dụng 16 lần. Tin Mừng Lu-ca cho biết chỉ có ông Phêrô vào trong mộ (24,12), nhưng ở đây, Gio-an cho biết ông cũng vào đó sau khi nghe bà Maria báo tin. 20,4 : Tin Mừng cho biết họ đă vô cùng hối hả v́ “cả hai cùng chạy”. Theo Gio-an “môn đệ kia (tức là chính ông) đă chạy nhanh hơn ông Phêrô và đă đến mộ trước”. Có lẽ v́ ông Gio-an c̣n trẻ và nhanh nhẹn hơn ông Phêrô. Hai ông Phêrô và Gio-an là cặp bài trùng và đă cùng nhau trải qua nhiều kinh nghiệm tuyệt vời. Tương quan của họ với Đức Giêsu chính là điểm nối kết họ với nhau. Phêrô với tính t́nh hấp tấp, bốc đồng và năng lỗi, trong khi Gio-an lại chậm răi, âm thầm và cẩn trọng, nhưng chính những khác biệt là điểm kết nối họ lại với nhau trong ân sủng của Đức Giêsu Kitô. 20,5 : Ông Gio-an đến mộ trước ông Phêrô, nhưng ông không vào trong. Có thể là do tính cách của ông luôn cẩn trọng suy xét những ǵ đă xảy ra. Cũng có thể ông do dự không vào trong mộ là do lối vào mộ đă ra ô uế trong 7 ngày[7]. Các thuật ngữ “cúi xuống” và “nh́n vào trong mộ” cho thấy đó là một lối đi thấp. Khi thấy những khăn liệm ở đó, có lẽ ông Gio-an nghĩ rằng: “Nếu ai đó đă lấy cắp xác Đức Giêsu, tại sao họ c̣n để lại các khăn liệm ở đó?”. Thuật từ cúi xuống (parakuvptw) là thuật từ cần được chú ư. Thuật từ này được dùng 5 lần trong Tân Ước (Lc 24,12; Ga 20,5.11; Gc 1,25; 1Pr 1,12): 3 lần đề cập đến việc cúi nh́n những khăn liệm (Lc 24,12; Ga 20,5.11); 2 lần kêu gọi phải tha thiết kiếm t́m đức tin (Gc 1,25; 1Pr 1,12). T́m hiểu kỹ biến cố Phục sinh, chúng ta có thể t́m được nền tảng đức tin. 20,6 : Không đắn đo, không sợ hăi, ông Phêrô đă đi ngay vào trong mộ. Thuật từ khăn liệm (ojqovnia) ám chỉ việc quan sát kỹ càng các khăn liệm. Ông Phêrô không ra vào mộ một cách khinh suất, nhưng có thể nói, ông đă xem xét kỹ lưỡng hơn ông Gio-an, người chỉ đứng quan sát (blepei[blepei]) (20,5) từ xa, phía ngoài mộ. 20,7 : Việc các khăn liệm được xếp gọn gàng cho thấy không có hấp tấp, vội vàng trong việc dời xác. Nếu ngôi mộ lộn xộn th́ đó là những dấu hiệu cho thấy có thể do những tên trộm hoặc chính những lính canh Rô-ma, tuy nhiên bên trong mộ Đức Giêsu lại không có bằng chứng về điều đó. Cho dù Đức Giêsu đă không ít lần loan báo về việc Người sẽ phục sinh, nhưng lúc đầu cả hai ông Phêrô và Gio-an vẫn chưa hiểu. 20,8 : Sau đó, ông Gio-an vào trong mộ. Ông tin vào những ǵ đă thấy, nhưng lại không giải thích rơ là ông đă thấy những ǵ. Ông đă thấy những khăn liệm c̣n nguyên, nhưng phải chăng chúng c̣n nguyên như thể thân xác đă đi xuyên qua chúng như ánh sáng xuyên qua cửa kính? Có thể là thế, v́ thân xác vinh quang của Đấng Cứu Độ không c̣n lệ thuộc những giới hạn vật chất. Quả thật, sau này Đức Giêsu đă hiện ra với các ông khi cửa bị đóng kín. (20,19). Câu này tŕnh bày đức tin của ông Gio-an như là vị tông đồ đầu tiên nhận thức được những ǵ đă xảy ra với Đức Giêsu, v́ tuy chưa thấy Người, nhưng ông đă tin. 20,9 : Câu này cho thấy khía cạnh giới hạn của đức tin như được diễn tả trong câu 8, cho dù đó là một đức tin tuyệt vời, nhưng đức tin phải được t́m kiếm dựa trên nền tảng vững chắc của Kinh Thánh. Ông Gio-an tin rằng những khăn liệm là bằng chứng rơ ràng sự phục sinh của Đức Kitô, dù trong Cựu ước, các ngôn sứ cũng đă từng loan báo cuộc Phục sinh của Đức Kitô, nhưng điều đó xem ra không thực sự thuyết phục ông. Thuật từ v́ (oujdepw) tŕnh bày nguyên nhân, thuật từ phải (dei[dei]) cho thấy vai tṛ thiết yếu của Kinh Thánh. Một số đoạn văn Cựu ước ám chỉ cuộc phục sinh của Đức Kitô: Tv 16,9.10; Is 26,19; 53,10-12. Các môn đệ chỉ có thể hiểu trọn vẹn thực tại cuộc Phục sinh khi Thánh Thần hiện xuống vào ngày lễ Ngũ Tuần (Cv 2). [1] Tức là ngày thứ Bảy trong lịch của chúng ta. [2] Tức là ngày Chúa Nhật trong lịch của chúng ta. [3] Ngôi mộ mà ông Giu-se đă dùng mai táng Đức Giê-su (Mc 15,43-46). [4] Đó là ngày áp lễ Vượt Qua [5] Với người Do-thái, ngày mới được bắt đầu từ khi mặt trời lặn. V́ thế, bất cứ thời khắc nào trong ngày hôm đó cũng được kể như một ngày. [6] Có thể là những người bạn: ông Giu-se, ông Ni-cô-đê-mô hoặc những lính canh mộ người Rô-ma hoặc người Do-thái. [7] Theo văn hóa Do-thái ngôi mộ sẽ ra ô uế trong 7 ngày kể từ khi mai táng xác ở trong mộ.
ÔNG THẤY VÀ ĐĂ TIN Quư vị thường làm ǵ khi người thân yêu qua đời ? Sau cú sốc và nỗi buồn ngay khi hay tin, sau khi canh thức và an táng; sau khi đặt những cánh hoa lên quan tài và rồi quan tài được hạ xuống huyệt; sau bữa ăn của các thành viên trong gia đ́nh và bạn bè thân thuộc; sau khi… Cuối cùng, chúng ta bỏ những quần áo của người quá cố. Chúng ta quyết định xem những ǵ thuộc sở hữu của người quá cố nên được giữ lại, và những ǵ cần chia sẻ cho những người trong gia đ́nh hoặ bạn bè thân thuộc của người quá cố. Thời gian trôi qua, hiếm khi chúng ta lướt qua những tấm ảnh của họ trong quyển album cũ kỹ, hay bắt gặp nụ cười của họ trong khung h́nh trên tủ thờ. Chúng ta nỗ lực để tiếp tục sống với những người đang c̣n sống và chăm sóc sự sống. Chúng ta không mong lại thấy cái chết – không phải bên phía này của ngôi mộ. Bài Tin mừng hôm nay chẳng ghi lại ǵ về thực tế của cái chết. Maria Mađalêna là một bằng chứng về thái độ đối với cái chết và nỗi đau theo sau đó. Cô vẫn c̣n rất gần với cái chết thảm thương của Đức Giêsu. Cô đi đến mồ “khi trời c̣n tối”. Quả là c̣n quá sớm để có thể nắm được vấn đề và tiếp tục sống. Maria chỉ muốn ở gần Đức Giêsu mà cô yêu mến bao nhiêu có thể. Ngôi mồ là nơi cuối cùng cô nh́n thấy Người và v́ thế cũng là nơi mà cô muốn tới. Rồi cô sẽ quen với những ǵ c̣n lại của đời ḿnh – ở phía sau Đức Giêsu. Dĩ nhiên, điều này th́ hoàn toàn khác biệt, v́ Đức Giêsu đă biến đổi và trở thành trung tâm của đời cô. Nhưng sau cái chết chúng ta chúng ta có thể làm tốt nhất những ǵ ḿnh có thể. Khi Maria đến bên ngôi mộ, và thấy ngôi mộ trống không, cô kết luận chắc chắn rằng “người ta đă đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu”. Bài Tin mừng hôm nay chỉ là một nửa của câu chuyện. Sau này Maria sẽ trở lại, gặp Đức Giêsu, nghĩ Người là bác làm vườn và rồi sau đó nhận ra Người là Chúa Phục Sinh khi Người gọi đích danh cô. Chẳng lẽ quư vị không muốn họ sẽ gộp luôn phần c̣n lại của câu chuyện vào trong bài đọc phụng vụ hôm nay sao ? Nếu chúng ta muốn một kết cục rơ ràng cho những câu chuyện mầu nhiệm th́ chúng ta không chịu nổi và không thỏa măn chỉ với câu chuyện bỏ lửng như ta có hôm nay. Hăy đón nhận nó, những ǵ cuộc sống hiện nay mang lại cho chúng ta thường th́ chưa hoàn tất và chỉ phảng phất một nửa câu chuyện thôi – ngôi mộ trống và sự bối rối. Nhưng rồi “người được Đức Giêsu yêu” đến và nh́n vào trong mộ, thấy những vật để lại nơi đă từng có một người chết, nhưng “ông thấy và đă tin” – dù chưa hiểu trọn vẹn những lời ám chỉ của Sách Thánh về việc “Người phải trỗi dậy từ cơi chết”. Dĩ nhiên Người phải trỗi dậy từ cơi chết, nếu không th́ hôm nay chúng ta chỉ có thể tưởng nhớ về cái chết của người thầy Giêsu vĩ đại. Người phải trỗi dậy từ cơi chết nên chúng ta không chỉ tôn vinh thầy Giêsu nhưng c̣n thờ lạy Đức Giêsu là Chúa của chúng ta. Việc Người trỗi dậy từ cơi chết khiến cho tất cả mọi sự trở nên khác đối với chúng ta là những người tin. “Hăy chứng minh xem!” những kẻ chống đối thách thức chúng ta. Chúng ta không thể chứng minh, chúng ta có ngôi mộ trống. Nhưng chúng ta cũng là những người “được Đức Giêsu yêu” và chúng ta đă được cho nh́n thấy. Trong Tin mừng Gioan, nhận được một dấu là nh́n bằng con mắt đức tin. Chúng ta có một ngôi mộ trống và chúng ta vẫn tin Người đă sống lại – cùng với người môn đệ được yêu chúng ta “thấy và tin”. Điều ǵ khiến cho người môn đệ ấy tin ? Có thể làm ǵ với những khăn liệm được gấp ngay ngắn ấy ? Và nữa, ai lại có thể đánh cắp xác mà lại c̣n xếp những tấm vải liệm ấy ? Vâng, đó chỉ là chi tiết phụ, nhưng không phải là cái khiến người ta tin vào một điều không thể xảy ra. Nếu như những tấm vải đó đủ để chứng minh th́ tại sao Phêrô và Maria đă không “thấy và tin” ? Tin mừng Gioan rất giàu tính h́nh ảnh. Nếu vải liệm để lại, th́, theo lối tŕnh bày của Gioan, nghĩa là sự chết đă bị để lại phía sau – Đức Giêsu đă phục sinh vào trong sự sống mới. Người môn đệ được yêu đă hiểu được thông điệp ấy, ngài đă thấy và tin. Gioan nói đến một điều là họ chưa thực sự hiểu được lời sách thánh rằng “Người phải trỗi dậy”. Sau này khi Đức Giêsu gặp các môn đệ trong căn pḥng đóng kín trên lầu v́ sợ, Người đă thổi hơi ban Thần Khí của Người cho các ông. Thánh Gioan có lẽ đang hướng cộng đoàn của ḿnh quay lại với sách thánh, nơi đó các tín hữu sẽ được Thánh Thần hướng dẫn để rồi sẽ thấy và tin chắc chắn hơn vào Đức Kitô phục sinh. Ngài đă thổi Thần Khí của ngài trên chúng ta, khởi đầu lúc ta nhận phép rửa và sau đó hướng chúng ta về với sách thánh để giúp chúng ta tin tưởng vào Chúa Phục Sinh. Nhưng, vẫn có môn đệ khác, “người được Đức Giêsu yêu”. Trong bữa tiệc ly ông tựa đầu vào ngực Đức Giêsu và ông đi vào trong sân của vị thượng tế sau khi Đức Giêsu bị bắt, c̣n dẫn Phêrô vào bên trong. Người môn đệ khác ấy cùng với Thân Mẫu của Đức Giêsu đứng dưới chân thập giá và Đức Giêsu đă trao phó Thân Mẫu của Người cho ông. Quả là những cử ch́ đáng yêu và tin tưởng giữa hai phía! Từ t́nh yêu của người môn đệ dành cho Đức Giêsu, đức tin của người môn đệ ấy đơm hoa kết trái và kết quả là chúng ta, những người dù chưa thấy, được vững mạnh trong đức tin. Người môn đệ được yêu giúp chúng ta tin rằng chúng ta cũng được Đức Giêsu yêu mến. Hồi nhỏ, khi chơi bóng trên đường phố, chúng ta hay đổi bên để bắt đầu trận đấu mới. Đôi khi tỷ số quá nghiêng về một bên nên có người đề nghị “Hay ḿnh chơi lại từ đầu!” Chúng ta lại đổi bên và bắt đầu chơi ván mới. Sẽ có người nói lớn tiếng, “Bàn mới nha!” Những người bên đội thua sẽ gạt ư nghĩ về bàn thua vừa rồi qua một bên và có một cơ hội mới để lật lại thế cờ. Cứ cho đó là một ví dụ đơn giản – một bàn chơi và sự phục sinh – nhưng việc Đức Giêsu trỗi dậy từ cơi chết không chỉ như phép lạ của việc hồi sinh. Lazarô đă được làm cho sống lại, nhưng ông rồi cũng lại chết. Đức Giêsu đă trỗi dậy từ cơi chết và không bao giờ chết nữa. Sự phục sinh của Người mang lại một thời đại mới. Giờ đây mọi sự đều có thể. Chúng ta thua một ván chơi nhưng, “đây hoàn toàn là một ván mới!” (Nếu chúng ta thảy viên súc sắc, chúng ta có thể nói phần thắng thế nghiêng về chúng ta). Quá khứ bị bỏ lại phía sau. Chúng ta đă thua một trận đấu nhưng Thiên Chúa đă kéo thế trận và chúng ta đang nghiêng về phe thắng. Giờ đây tất cả đều có thể đối với chúng ta, v́ chúng ta được hứa là sẽ được chia sẻ sự phục sinh của Người. Trong ánh sáng của sự phục sinh được hứa ban cho chúng ta, chúng ta có thể gạt qua một bên những thất bại của quá khứ và thay đổi lối nghĩ cũng như cách hành xử về phía chúng ta và tha nhân. Trận đấu vẫn chưa kết thúc, nhưng chúng ta, những môn đệ được yêu đă thấy và đă tin, “Đó là một ván mới!” và chúng ta đă thắng. Có bao nhiêu người bên phía thắng ? Cuộc đàm thoại giữa Phêrô và Cornêliô trong bài đọc thứ nhất cho ta thấy điều đó. Trong con mắt của người Dothái, dân ngoại là kẻ vô đạo và thua thiệt trước mặt Đức Chúa. Nhưng việc Phêrô nói với Cornêliô người Rôma chẳng có sự trùng hợp ngẫu nhiên nào. Phêrô thấy được điều Thiên Chúa đă muốn là ơn cứu độ bao gồm cả cho dân ngoại. Cornêliô cũng có ước mơ và lời này đă hướng dẫn ông t́m kiếm sứ điệp cứu độ (10,1-8). Thiên Chúa đă hành động mạnh mẽ v́ gia đ́nh nhân loại và đă quy tụ tất cả trong hành vi cứu độ của Đức Giêsu. Như Phêrô nói với Cornêliô: “phàm ai tin vào Người th́ sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội”. Hay, trích lại lời có tính ngôn sứ gần đây, như anh Tony, bạn thân hồi nhỏ của tôi nói rằng “đây là một bàn hoàn toàn mới!”
| |