Chúa Nhật
IV Mùa Vọng - năm B An Phong op : Sứ điệp Lời Chúa Như Hạ op : Con Đường Ḥa B́nh Fr. Jude Siciliano, op : Mái Lều Hội Ngộ Fr. Jude Siciliano, op. : Quả Ngài là Thiên Chúa yêu thương Fr. Jude Siciliano, op : Học theo gương Mẹ : Xin vâng thánh ư Chúa G. Nguyễn Cao Luật op : Thiên Chúa T́m Cho Ḿnh Một Ngôi Nhà Giacôbê Phạm Văn Phượng op : Mầu nhiệm truyền tin Lời Chúa và Thánh Thể : Niềm hy vọng đang ở giữa chúng ta Antôn Nguyễn Thành Chương op : Như Mẹ Maria, thưa vâng trong cả cuộc đời Fr. Jude Siciliano, op : Với Chúa, không có ǵ là không thể Fr. Jude Siciliano, op: Hăy dành cho Chúa một chỗ trong tâm hồn
Sứ
điệp Lời Chúa
Trước ngưỡng cửa của "mầu nhiệm Thiên Chúa làm người", Đức Maria xuất hiện như một nhân vật quan trọng, cần thiết và chính yếu. Mẹ đă cộng tác vào chương tŕnh cứu độ của Thiên Chúa khi đón nhận Ngôi Lời Nhập thể vào chính cung ḷng ḿnh. "Mẹ đă cưu mang Lời Chúa". Tŕnh thuật thiên thần Gabriel truyền tin cho Mẹ có lẽ là cách tŕnh bày về một kinh nghiệm nội tâm, thiêng liêng hơn là một biến cố lịch sử thuần túy. Cuộc đối thoại giữa Thần sứ Thiên Chúa và Mẹ thực là cuộc đối thoại nội tâm tuyệt vời. Chính trong giây phút đó, giây phút Thiên Chúa đề nghị và chờ đợi - Hẳn là Người không phải chờ đợi lâu ! - và tương lai ơn Cứu độ, mầu nhiệm Thiên Chúa Nhập thể vẫn c̣n lơ lửng, Mẹ đă "Xin Vâng" (Lc 1,38). Nhưng điều quan trọng là chính sứ điệp muôn dân đang chờ đợi bao năm trường được thực hiện : "Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta" (Is 7,14). Thật là kỳ diệu và lạ lùng việc Thiên Chúa thực hiện. Mẹ thực là một "nữ tỳ của Thiên Chúa" (Lc 1,38) trong đức tin, t́nh yêu và sự thuận theo kế hoạch của Thiên Chúa. Mẹ đă hoàn toàn vâng phục thánh ư Thiên Chúa, tuy vẫn chưa rơ Ư Thiên Chúa sẽ dẫn Mẹ đến đâu. Vài phút trước đó, Mẹ đă "hoảng sợ và tự hỏi lời chào (của Thiên sứ Gabriel) như vậy có nghĩa ǵ" (Lc 1,29). Và Thiên Chúa đă thực hiện "những việc lớn lao" qua người nữ tỳ khiêm hạ của Người" (Lc 1,49). Nhưng, Mẹ vẫn là một cô gái đơn sơ nơi một làng quê nghèo hèn". Thi sĩ Max Jacob đă mô tả cô gái đó thật giản dị, gần gũi, tuy không kém phần cao sang v́ là "hôn thê Thiên Chúa".
Muôn ngàn lời ngợi khen cô gái
ấy Cùng với Mẹ Maria, "nữ tỳ khiêm hạ và hôn thê Thiên Chúa", giản dị, gần gũi, chúng ta bước vào Năm Thánh 2000 với ḷng tràn đầy tin yêu và ân sủng Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu!
Cùng với Đức Mẹ Maria,
Xin cho chúng con cũng biết tự
do đáp lại lời Chúa mời gọi,
Như Chúa đă đến trong cung ḷng
Mẹ Maria,
CON ĐƯỜNG
HOÀ B̀NH Con người tưởng không ǵ có thể ngăn cản tiến bộ nhân loại. Nhưng giới hạn vẫn c̣n đó. Bao kế hoạch, chương tŕnh dở dang. Bao uớc mộng ngổn ngang. Có một Đấng không bị lệ thuộc vào bất cứ giới hạn nào. Người có thể làm tất cả để thực hiện chương tŕnh cứu độ. Cộng tác vào chương tŕnh đó, Đức Maria đă trở thành khuôn mặt phản ánh nguồn ân sủng và quyền năng Thiên Chúa. Mẹ đă làm tất cả những ǵ cần thiết để đem Con Chúa vào đời. GIỜ ĐĂ ĐIỂM Thiên Chúa đă có kế hoạch cứu độ con người, nhất là khi hứa với thánh vương Đavít : "Vương quyền ngươi sẽ tồn tại măi măi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền măi măi" (2Sm 7:16). Lời hứa đó làm sao thành hiện thực nếu Con Thiên Chúa không làm người để con người trở thành con Thiên Chúa ? Đă đến lúc thực hiện kế hoạch đó. Bởi vậy sứ thần Gabriel đă được Thiên Chúa sai đến với Trinh Nữ Maria tại Nazareth. Trong khung cảnh nhỏ bé và âm thầm hôm đó, tất cả bí mật trời đất được mạc khải. Trời đất đi vào một tương quan mới, tương quan t́nh yêu. Tất cả đều diễn ra ngoài sức tưởng tượng. Khi được sứ thần đễ nghị: "Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu" (Lc 1:31), Trinh Nữ Maria ngạc nhiên : "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, v́ tôi không biết đến việc vợ chồng !" (c.34). Đó là việc vượt quá sức tưởng tượng và ngoài khả năng của một trinh nữ. Nhưng Trinh Nữ được trấn an ngay : " Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà." (c.35). Tất cả đều dễ như trở bàn tay,"v́ đối với Thiên Chúa, không có ǵ là không thể làm được." (c.37) Tin tưởng tuyệt đối vào t́nh yêu Thiên Chúa, Đức Maria đă dấn thân: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói." (c.38) Thế là kế hoạch cứu độ đă khởi đầu từ thái độ đầy khiêm cung của Đức Trinh Nữ. Chính v́ thế, sứ thần mới ca ngợi : "Bà đẹp ḷng Thiên Chúa." (c.30) Lời "xin vâng" sẽ ảnh hưởng tới toàn thể cuộc đời và sứ mệnh của Đức Giêsu trong suốt hành tŕnh về nhà Cha. Đức Giêsu đă thừa hưởng một nền giáo dục lư tưởng từ một "Đấng đầy ân sủng" (c.28) và chan chứa niềm vui v́ Đức Chúa luôn hiện diện trong tâm hồn và cuộc sống. Suốt đời Mẹ không bao giờ sợ hăi như khi mới gặp sứ thần, v́ Con Mẹ "sẽ được gọi là Con Thiên Chúa" (c.35), nhất là v́ "Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít." (c. 33) Bởi vậy dù bị dồn tới chân tường, như khi vua Hêrôđê lùng bắt Con hay khi Con bị căng thây trên thập giá, Mẹ không hề khiếp sợ và tuyệt vọng. Trái lại Mẹ vẫn tin tưởng vào quyền năng tuyệt đối của Thiên Chúa nơi Người Con độc nhất. Như thế, Con Mẹ chính là Đấng Messia đă đến thỏa măn mọi nguyện vọng của dân tộc Israel. Bao nhiêu năm ṃn mỏi đợi chờ, nay họ mới được chiêm ngắm dung nhan của Đấng nhân danh Chúa mà đến. Nhiều ngôn sứ đă nhân danh Thiên Chúa đến với dân chúng. Nhưng khác với họ, Đức Giêsu đến với tư cách là "Con Thiên Chúa" (c.35). Không có tư cách này, Đức Giêsu cũng tầm thường như các ngôn sứ khác. Nhưng với tư cách "Con Thiên Chúa", Đức Giêsu có thể cứu độ toàn thế giới. Đó là lư do tại sao Thiên Chúa phải can thiệp đặc biệt vào việc truyền tin cho Trinh Nữ Maria, một "nữ tỳ của Chúa" (c.38). Sau lời "xin vâng", Đức Maria đă khiến Con Thiên Chúa nhập thể cứu đời. Mẹ thật là gương mẫu tuyệt vời cho tất cả Kitô hữu. Lời "xin vâng" của Mẹ không nặng tính thụ động. Trái lại, nhờ đó Mẹ đă tích cực cộng tác vào chương tŕnh cứu độ của Thiên Chúa. Mẹ đă làm cho "Ư Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời."(Mt 6:10) Hằng ngày chúng ta cũng đọc một lời kinh như Mẹ. Ư Cha bao giờ cũng nặng t́nh yêu cứu độ. Dưới lăng kính này, Ư Cha thật tuyệt vời. Chấp nhận và thi hành Ư Cha sẽ biến chúng ta thành những người nhà của Thiên Chúa. Chính v́ luôn thực thi Ư Cha, Mẹ Maria đă trở thành "Đấng dầy ân sủng" (c.28) và luôn "đẹp ḷng Thiên Chúa" (c.30). Tuy thế không phải đời Mẹ lúc nào cũng toàn hoa hồng. Trái lại, Mẹ đă phải phấn đấu rất nhiều, nhất là khi thấy Con Mẹ bị thiên hạ chối bỏ và giết chết. Không có lời "xin vâng" của Mẹ, không biết chương tŕnh cứu độ sẽ ra sao ?! Bởi vậy, Mẹ đă góp phần rất lớn vào sự nghiệp Con Chúa trên trần gian. Lời "xin vâng" đă đưa Con Chúa vào đời. Trong khiêm cung, Đức Mẹ đă hủy ḿnh ra không để Thiên Chúa trở thành tất cả trong mọi sự. Ư CHA TRONG THIÊN NIÊN KỶ MỚI Chính v́ thế, Đức Mẹ đă trở thành tụ điểm hiệp nhất Kitô hữu. Giáo sư Stephan Tobler thuộc đại học Tubingen Đức, một nhà thần học Tin Lành Cải cách hàng đầu, đă nói : "Thiết tưởng các giáo hội Tin Lành có thể lại thấy Đức Maria như h́nh ảnh con người hoàn toàn mở ḷng ra với Thiên Chúa khi thưa 'xin vâng', khi nói 'hăy làm tất cả những ǵ Người nói với các anh', khi đứng dưới chân cây thánh giá, khi hiện diện trầm lặng bên các môn đệ." (Zenit 12/12/2002) Thực vậy, "đi qua các cảnh tượng trong kinh Mân Côi với Mẹ Maria như đi vào trường học Mẹ Maria để học về Chúa Kitô, thấm nhuần các mầu nhiệm, thấu hiểu sứ điệp của Người. Chuỗi Mân côi c̣n đẩy mạnh cả tinh thần đại kết." (ĐGH Gioan Phaolô II : Zenit 12/12/2002) Giáo sư Stephan Tobler cùng chia sẻ quan điểm đó với Đức Thánh Cha khi nói : "Trong bức tông thư, ĐGH nói cần phải tái phát động kinh Mân côi trong kinh nguyện Kitô giáo. Người nhấn mạnh rằng c̣n hơn một lời nguyện, kinh Mân côi là một sự chiêm ngắm mầu nhiệm. Ngày nay chắc chắn tính nhậy cảm và sự t́m kiếm trước tiên đ̣i tái khám phá một nơi cho trái tim ngủ yên, linh hồn chiêm nghiệm những mầu nhiệm Thiên Chúa và cả những đường lối có thể thực hiện điều đó. Trong truyền thống riêng, chúng tôi phải tái khám phá những phương thức tương đương, tương tự." (Zenit 12/12/2002) Sau bao năm đối thoại với Giáo hội Công giáo, anh em Tin Lành mới bắt đầu thấy được con đường đến với Chúa Giêsu ngang qua Đức Maria. Thực tế, nhiều người thành tâm cũng đă gặp Chúa Cứu thế, khi thấy bóng dáng Đức Maria nơi các tín hữu. Thực vậy, nếu tất cả Kitô hữu đều sống niềm tin Maria, chắc chắn ơn cứu độ sẽ đến với mọi người. Niềm tin ấy đă khiến Đức Maria hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa và luôn suy niệm để t́m ra thánh ư Thiên Chúa qua các sự kiện trong cuộc đời (x. Lc 2:15-20). C̣n một cuộc đối thoại khác, vô cùng cần thiết cho việc Phúc âm hoá và nền hoà b́nh thế giới. Thật vậy, trong khung cảnh văn hóa Á châu, không có ǵ tế nhị cho bằng việc đối thoại với các tôn giáo để t́m ra thánh ư Chúa. Thánh Linh đă và đang hoạt động trong tất cả các tôn giáo, chứ không riêng Kitô giáo. Không cộng tác với các tôn giáo khác, không thể khám phá ra đường nét tuyệt vời của Thánh Linh trong tâm hồn những nguời dân Á châu. Cụ thể hơn, trên quê hương chúng ta các tôn giáo như Cao đài, Ḥa hảo cũng tôn kính Đức Giêsu như một vị tiên tri (?) Số tín đồ lớn lao trong các tôn giáo hứa hẹn một mùa gặt lớn lao cho Giáo hội. Thánh ư Chúa đang xoay chuyển về Á châu để cứu độ muôn dân. Từ các tôn giáo lâu đời đó, một truyền thống cầu nguyện vô cùng quí báu sẽ giúp chúng ta khám phá một đường lối kết hợp với Thiên Chúa phù hợp với ḷng tin dân tộc đặt nơi Ông Trời. Sau bao thế kỷ chung nhịp với quê hương, Đạo Phật vẫn không xóa nổi h́nh ảnh Ông Trời trong niềm tin dân tộc. Từ ḷng tin đó phát xuất một lối cầu nguyện đầy t́nh cảm. Hơn lúc nào, cầu nguyện là nối kết mọi ḷng tin khác nhau cho nhu cầu hoà b́nh thế giới. Thật vậy, "cầu nguyện cho hoà b́nh là mở rộng trái tim con người cho quyền năng Thiên Chúa xâm nhập vào để canh tân mọi sự." (ĐGH Gioan Phaolô II: Thông Điệp Ngày Hoà B́nh Thế giới 2002) Trong chiêm niệm và cầu nguyện, Đức Maria đă đón rước Thái tử Hoà b́nh vào cuộc sống nhân loại.
Mái Lều Hội Ngộ Thưa quí vị. Khi đi thuyết giảng trong các giáo xứ, tôi thường được dịp ngắm nh́n các ngôi thánh đường cực kỳ đẹp đẽ. Một số được xây cất mới, mới đến độ tôi c̣n ngửi thấy mùi vôi, mùi sơn, mùi rèm cửa hoặc các hàng ghế bóng lộn vừa được chở về từ các xưởng mộc. Các giáo dân địa phương hănh diện giải thích cho tôi các công tŕnh họ vừa thực hiện và công dụng của chúng. Họ có cơ sở để tự hào. Họ c̣n kể cho tôi nghe về quá khứ của giáo xứ, về ngôi nhà thờ cũ mái dột, tường xiêu. Nhưng các cụ già hoài cổ th́ lại nuối tiếc những buổi lễ Chúa Nhật được cử hành tại tư gia, sân vận động hay đi nhờ một nhà nguyện tin lành nào đó. Họ nói rằng quả th́ có chật chội, bất tiện thật nhưng sốt sắng, nghiêm trang, và đầy cảm động. Dĩ nhiên, họ vui mừng v́ nhà thờ mới nhưng hoài nghi về sự tiếp tục tồn tại tinh thần nhiệt thành mà các vị sáng lập giáo xứ đă có. Một vài vị c̣n thẳng thắn bộc lộ rằng họ đă làm mất tính thân mật cộng đồng mà giáo xứ cũ có lúc ban đầu. Xin lưu ư đến những hoài niệm về thời dĩ văng đó. Quá khứ bao giờ cũng vàng son. Hay ít ra chúng cho là như vậy. Sách Samuel II hôm nay có cùng quan điểm. Sách chỉ ra những nguy hiểm khi tôn giáo trở nên một định chế cố định cứng nhắc, những nhà thờ đồ sộ bằng gạch hay bằng bê tông cốt thép với những cửa sổ kính màu, giàn âm thanh điện tử, hoa lá, trang trí đắt tiền v.v.. Khi nhân dân Israel làm cuộc hành tŕnh qua sa mạc, Thiên Chúa cùng đi với họ, ngự trong "lều hội họp" ở giữa họ. Ngài chẳng hề bị giới hạn vào một nơi chốn nào, lại càng chẳng thích bị nhốt trong các dinh thự do tay người phàm làm ra. Ngài luôn luôn linh động trong đức tin và trái tim con người. Dân Do thái đă hiểu điều đó, và trong thời gian dài họ đă có tương giao với Thượng đế ở t́nh trạng như vậy. Nhưng lúc này hoàn cảnh đă khác. Họ đang được hưởng thái b́nh, thịnh vượng. Kẻ thù hoàn toàn bị đập tan. Vua David ngự trong một cung điện nguy nga, sang trọng. Ông đă lănh đạo dân tộc Do thái từ t́nh thế tan tác, các bộ lạc liên kết lỏng lẻo, thành một quốc gia thống nhất, chính trị vững bền. Nhà vua muốn đem ḥm bia "Giao ước" ra khỏi nơi ngự trị tạm thời tức lều hội ngộ đến một ngôi đền xứng đáng. Có lẽ ông c̣n muốn minh chứng cho thế giới chung quanh biết rằng quốc gia Do thái đă vững mạnh, dân tộc Israel thực sự đáng kính ne, bằng cách xây cho Thiên Chúa một ngôi đền vĩ đại và tân thời. Chương tŕnh đó nghe hợp lư qúa đi chứ ! Chẳng ai dám phản đối. Nghĩ ngược lại, hoá ra ḿnh điên khùng, không thức thời. Nhưng Thiên Chúa đă nhắc nhớ nhà vua: Chính Ngài chịu trách nhiệm trên dân tộc Do thái và đất nước của họ chứ không phải David. Ngài đă kéo ông ra khỏi số phận thấp hèn: Một trẻ chăn chiên và tác tạo ông thành hoàng đế Israel. Thiên Chúa chứ không phải David là nguyên nhân làm nên sự thành công của đất nước Do thái. Chính Ngài đă ban cho nhân dân b́nh an, thịnh vượng và các sự bảo vệ khỏi quân thù. Và bởi lẽ trong quá khứ Ngài đă là nguyên nhân thành công của quốc gia dân tộc, th́ chính Ngài chứ không phải vua David sẽ bảo đảm tương lai cho họ. Nếu như mạc khải này là vĩnh viễn và phổ thông chứ không cá biệt cho David và dân tộc Do thái, th́ chúng ta phải nhận ra mối tương quan của ḿnh với Thượng đế cũng sống động, phát triển và linh hoạt. Nó thách thức chúng ta nh́n thấy Thiên Chúa hoạt động trong cuộc sống mỗi người và ban cho chúng ta cơ hội để lớn lên trong đức tin. Đa phần tín hữu dù đă trưởng thành, vẫn thờ phượng Chúa trong năo trạng con nít. Chúng ta nhận thức Thượng đế bằng những kiến thức học được thời thơ ấu: Một Thiên Chúa khổng lồ, đóng băng, dễ sợ, luôn luôn làm ngáo ộp hoặc những h́nh ảnh lăng mạn, lả lướt, ướt át : cầu nguyện nhỏ nhẹ, ca hát êm dịu, hy sinh chút ít, chứ không phản ánh đúng thực tế đời thường. David muốn xây dựng cho Thiên Chúa một nơi ở vững chắc, cố định. Ngài tuyên bố không được. Ngôi nhà của Ngài do chính Ngài thiết lập: "Hăy đi nói với David tôi tớ Ta là: ngươi mà xây nhà cho Ta ở ư ? Chính ta đă cất nhắc ngươi, từ một trẻ lùa chiên ngoài đồng cỏ, lên làm người lănh đạo dân Ta là Israel." Do đó, nhà của Đức Chúa Trời là tâm hồn mỗi người. Ngài hoạt động trong chúng ta, di chuyển với chúng ta trong suốt cuộc đời, tới con cháu, chút chít tức các miêu duệ của loài người trong tương lai, giúp đỡ chúng ta chống đỡ các khó khăn, bảo vệ khỏi mọi gian nan, nguy hiểm. Tư tưởng của Thiên Chúa vượt xa trí tưởng của David, và của mọi người chúng ta. Salomon con của David đă tốn nhiều công sức xây cho Thiên Chúa một ngôi đền thờ lộng lẫy nguy nga theo ư muốn vua cha. Nhưng ngôi đền đó chẳng đứng vững được lâu. Nó đă bị phá huỷ và dân chúng bị phát văng đi đày. Khi sang Babilon, xa quê hương, không c̣n đền thờ, họ không thể thờ phượng Ngài ở một nơi cố định nữa. Họ lại lang thang và Thượng đế lại đồng hành với họ. Đó là điều họ cần, và Ngài lại có mặt với họ trong các công việc khổ sai, mất tự do, nô lệ trong đất lạ. Một lần nữa, Thượng đế giải phóng và họ t́m lại được tự do. Tự do như thế để thờ phượng Thiên Chúa chứ không phải để làm theo dục vọng của ḿnh. Làm theo thánh ư và chương tŕnh của Ngài chứ không phải chúng ta. Người Do thái xưa đă lầm và chúng ta c̣n lầm tệ hại hơn trong cuộc đời ḿnh. Cứ như bản năng suy nghĩ th́ ước muốn xây dựng đền đài kính Thiên Chúa là chuyện tự nhiên. Một cộng đồng nhất thiết phải có nơi thờ phượng. Chúng ta không phải là người Do thái cổ, lang thang qua sa mạc khô cằn với chiếc lều tạm sách tay, có thể tháo rời, di chuyển chỗ này, chỗ khác theo như cầu của cộng đồng. Nhưng bài đọc 1 hôm nay đặt trước những người đam mê xây dựng đền thờ một lời nhắc nhớ: Khi chúng ta xây dựng nơi thờ phượng tự dưng chúng ta xác định các chiều kích, các hạn chế cho nó. Chúng ta đặt h́nh tượng Thiên Chúa vào đấy. Có thể rằng h́nh tượng đó lại là hoạ ảnh của ḿnh. Đen th́ Chúa cũng đen, phái nam th́ Chúa cũng phái nam. Da trắng th́ Chúa cũng phải trắng da. Vô h́nh chung cộng đồng đă bóp méo sự thật, không c̣n khách quan, vô tư nữa. Và như thế, chúng ta đă tạo ra nhiều nguy hiểm cho đức tin của ḿnh, đúng như những phe phái trong các giáo đoàn tiên khởi đă gặp phải. Một cộng đoàn giàu có cũng muốn sở hữu h́nh ảnh Thiên Chúa sang trọng trong nhà thờ của ḿnh. Do đó chúng ta xây tường bao quanh, ngăn cản, loại trừ kẻ khác, chúng ta đặt những luật lệ, lối vào để chỉ thâu nhận những ai giàu có như ḿnh, người khác có lọt vào th́ cũng cảm thấy bất rất, lạc lơng. Đó là thực trạng của Giáo hội "xây dựng" ngày nay. Thiên Chúa đă nhắc nhớ David rằng chính Ngài đă triệt hạ các thù địch của ông. C̣n vài ngày nữa là tới lễ Giáng Sinh những thù địch của chúng ta trong mùa này là ai? Thưa nhiều lắm: Satan, thế gian, xác thịt… chúng ta cũng xin Thiên Chúa triệt hạ những thứ đó để có thể đón Chúa Hài đồng sinh ra trong linh hồn ḿnh. Điều làm cho chúng ta lưu ư trong bài đọc Tin mừng hôm nay là lời Thiên Chúa tuyên bố về hậu duệ của vua David, Đức Giêsu Kito, là triều đại Ngài sẽ "vô cùng vô tận". Phúc âm đă chứng thực đúng như vậy. Thượng đế luôn thực hiện những ǵ Ngài muốn làm: xây dựng một ngôi đền vĩnh viễn bằng xương thịt giữa nhân loại. Theo kiểu nói của thánh Gioan th́ : "Ngôi Lời đă hoá thành nhục thể và đă cắm lều giữa chúng ta." (Ga 1, 14). Ngôi đền thờ đích thực và vinh hiển này sẽ tồn tại măi măi, linh động và là địa chỉ chắc chắn để nhân loại gặp gỡ Thiên Chúa. Khi Ngài đă quyết định ngự giữa chúng ta, như hậu duệ của vua David th́ Ngài đă sai thiên thần Gabriel đến hội ư với một thiếu nữ thành Nazareth tên là Maria, để nhờ cô giúp đỡ thực hiện chương tŕnh ấy, tức tiết lập triều đại David đến muôn đời muôn thuở. Maria hỏi lại: "Việc đó xảy ra thế nào được, v́ tôi không biết đến người nam." Thiên thần trả lời: "Chúa Thánh linh sẽ ngự xuống trên cô, và quyền năng Đấng Tối cao sẽ toả bóng trên cô." Ở đây, chúng ta lại gặp ngôn ngữ của Xuất hành. Ngôn ngữ giải phóng. Đám mây của Đức Chúa Trời che phủ và hướng dẫn dân tộc Israel trong hoang địa và đậu lại trên mái lều "hội ngộ" (Xh 40, 35). H́nh bóng ngày xưa nay đă được thực hiện. Cũng chính Thiên Chúa này mà hôm nay chúng ta thờ phượng trong thánh lễ. Ngài đồng hành với chúng ta và ngự trên cộng đoàn khi chúng ta cầu nguyện, rồi dẫn đưa chúng ta trong suốt cả tuần lễ vượt qua sa mạc của cuộc đời khó khăn. Đă rất gần ngày lễ Giáng Sinh. Lịch thời gian không mang nhiều ư nghĩa. Chúng ta đă được nghe đọc về biến cố trọng đại trong các bài đọc hôm nay: Lời Thiên Chúa hứa ngàn năm thuở xưa, đă trở thành hiện thực. Nhưng làm thế nào và ở đâu chúng ta có thể t́m thấy Thiên Chúa ? Ở những nơi thi hành quyền lực, ảnh hưởng tới vận mệnh thế giới, vận mệnh quốc gia chăng ? Thưa không ! Ở những nơi giàu sang phú quư chăng ? Thưa không ! Ở những đền đài tôn giáo sang trọng ? Thưa không. Câu trả lời là ở ḍng giống David, những linh hồn đă từng biết đến quyền năng Thượng đế trên cuộc đời ḿnh. Đúng như Thiên Chúa đă chỉ thị cho vua David nh́n lại quá khứ để nhận ra bàn tay Ngài dẫn dắt ông, chúng ta cũng phải nh́n lại bàn tay đă kiên cường những yếu đuối của ḿnh, đă dẫn đưa chúng ta qua khó khăn của cuộc đời, đă ủi an khi chúng ta khóc, đă nâng dậy khi chúng ta ngă, đă vỗ về khi chúng ta nhát đảm mà nhận ra sự hiện diện của Ngài. Như thế, nhân danh ai mà chúng ta họp nhau nơi đây để thờ phượng Thiên Chúa trong thánh lễ này ? Chỉ có thể là ḍng giống David trong Đức Kitô. Đấy là Thiên Chúa đă phán với David : "Ngươi đi đâu ta cũng ở với ngươi". Chúng ta là đền thờ mà David đă muốn xây cất. Cuộc sống của mỗi người là tác phẩm nghệ thuật duy nhất làm đẹp đẽ tường thành Thiên Chúa, trang hoàng ngôi nhà vĩnh cửu của Ngài. Cùng nhau chúng ta lập thành nơi Thiên Chúa cư ngụ, tức túp lều "hội ngộ" mà bất cứ tâm hồn nào cũng có cơ hội t́m thấy sự hiện diện của Đấng Tối Cao. Amen.
Quả Ngài là Thiên Chúa
yêu thương Thưa quí vị, Lễ Giáng Sinh đă quá gần kề và Phúc âm cho chúng ta những dấu chỉ đại lễ đă cận kề ra sao? Từ đầu mùa vọng đến nay Phụng vụ hướng dẫn chúng ta suy niệm về tận thế và phán xét gọi là “tứ chung”. Đó là: Chết, Phán xét, Thiên đàng, Hoả ngục. Tuần vừa qua thánh Gioan tiền hô loan báo Chúa sắp đến. Chúa đến thế nào, những ai có khả năng nhận ra Ngài? Trong bài suy niệm trước chúng ta đă có cơ hội nêu rơ. Tuần này, sứ thần Gabriel truyền tin cho Đức Maria ở làng Nazaréth, câu truyện quá quen thuộc với mọi tín hữu. Và chúng ta cảm thấy lễ Giáng Sinh đă gần kề. Ư nghĩa của nó quá vĩ đại đối với nhân loại, nhưng đă được khai thác kỹ lưỡng qua nhiều thế kỷ bởi những học giả, những thánh nhân. Tôi chẳng c̣n ǵ để tham gia nữa. Vậy xin kể một câu truyện tưởng tượng kiểu giáo lư viên kể cho các trẻ em, học viên của ḿnh nghe. Tuy câu chuyện là tưởng tượng nhưng cũng có chút chất lượng thực tế. Cho nên, người lớn cũng không thể để ngoài tai được. Chuyện thuật lại rằng ở trên thiên cung, trước ngai toà Thiên Chúa có hàng triệu, hàng muôn triệu triệu vị thiên thần, hàng ngày phục vụ Đấng Tạo Hoá. Một số vị chuyên việc hương khói, thờ phượng. Số khác đàn ca chúc tụng Thiên Chúa vĩ đại. Số khác nữa múa nhảy tưng bừng tỏ vẻ hân hoan v́ Chúa nhân lành. Họ ngắm nh́n Thiên Chúa và nói với nhau như chúng ta ngắm nh́n đại dương, khâm phục cảnh bao la bát ngát của thiên nhiên mà buông lời khen ngợi: “Chà, hùng vĩ quá!”” Hoặc trông xem các con ong khôn khéo hút mật, rồi chỉ cho bạn hữu: “Xem ḱa, tinh khôn biết mấy !” Lại c̣n các vị thiên thần khác đồng hành với loài người, nâng đỡ loài người vượt qua những khó khăn. Người ta gọi là thiên thần bản mệnh. Thậm chí c̣n có những vị là thiên sứ chuyên mang thông điệp của Thượng Đế xuống cho loài người. Thường thường các thiên sứ rất bận rộn, bởi lẽ Thượng Đế liên tục có các sứ điệp cho nhân loại, dậy dỗ họ, soi sáng họ ăn ngay ở lành. Nhưng đa phần chẳng thèm nghe, kể cả các tu sĩ, linh mục, giáo dân. Những lúc này các thiên sứ buồn lăm, có vị phải bay về trời bưng mặt khóc v́ người ta ưa nghe lời dụ dỗ của satan hơn. Cũng có khá đông các linh hồn thường xuyên nói chuyện với Thượng Đế, cho nên các thiên thần phải mang những ước muốn của nhân loại về Thiên cung để tâu lên Chúa Trời. Nói cho công bằng, các thiên sứ là những vị vất vả nhất. Trong số đó phải kể đến sứ thần Gabriel. Ngài ưa thích ở trên triều đ́nh Thiên quốc. V́ ở đó mọi sự đều trong trật tự hoàn hảo: Thánh thiện hoàn hảo, hạnh phúc hoàn hảo, bác ái hoàn hảo, công b́nh hoàn hảo, có điều chi phải thay đổi th́ đó là để nên tốt lành hơn. Họ sẽ chiếu sáng rực rỡ hơn mặt trời, gây nên không biết bao nhiêu ấn tượng cho người trần thế. Chỉ khi nào ở dưới đất phát sinh những sự dữ như chiến tranh, hận thù, ghen ghét, đói kém, lừa đảo, áp bức, bất công th́ lúc ấy trên Thiên cung mới xảy ra lộn xộn. Khi những bạo lực, tàn ác bay lượn trên mặt địa cầu th́ sự giá lạnh sẽ xâm nhập toàn thể Thượng giới. Các thiên thần đều cảm thấy giá rét và các cánh của họ cũng không hoạt động b́nh thường nữa, chúng sẽ đập chậm răi hơn. Một vài thiên thần cất tiếng phàn nàn: “Những sinh vật mà Thiên Chúa tạo thành, lại một lần nữa phá rối b́nh an và yên tĩnh của chúng ta”. Mỗi khi xẩy ra như vậy, tức ở dưới thế người chống lại người, bóc lột, ức hiếp lẫn nhau, th́ trên Thiên cung các thiên thần lại nh́n lên ngai toà sáng láng của Thiên Chúa. Một nơi uy nghiêm, thánh thiện không lưỡi nào tả xiết, để t́m kiếm phản ứng của Đấng Tối Cao. Họ nhận ra ánh sáng lu mờ đi chút ít. Nhưng cũng là nghiệm trọng lắm rồi. Sấm sét đến nới. V́ Thượng Đế chí tôn sắp nổi giận, ra tay hành động trừng phạt, đúng như đă từng xẩy ra trong thời Cựu ước. Các thiên thần sẽ bàn tán với nhau xem truyện ǵ sẽ xẩy ra. Kẻ đoán già, người đoán non. Kẻ bảo lụt hồng thuỷ, người từ chối cho là sẽ tận thế. Nhưng tất cả đều đồng ư đấng Trọn Hảo đă sai lầm khi dựng nên nhân loại. Liệu có phải Ngài đang hối hận? Làm sao mà Ngài kiên nhẫn với họ lâu đến thế? Nếu họ được tạo dựng giống h́nh ảnh Ngài, yêu thương, tha thứ, rộng lượng, nhân hậu, tử tế với nhau th́ làm thế nào họ lại thù oán cắn xé nhau? Nguồn gốc sự dữ trong con người họ từ đâu mà đến? H́nh ảnh, hoạ ảnh của Thiên Chúa trong con người họ đâu cả rồi? Các thiên thần hỏi nhau, và chẳng vị nào trả lời được. Hoạ chăng chỉ có chính con người mới trả lời cho ḿnh mà thôi : Dục vọng, kiêu căng, tham lam, đố kỵ. Và bởi v́ chẳng vị nào đưa ra được câu trả lời thoả đáng, cho nên cả triều đ́nh Thiên quốc phục bái trước ngai toà Ba Ngôi, thờ lạy ḷng kiên nhẫn của Thượng Đế. Các Ngài ngạc nhiên về những thông điệp Thiên Chúa gửi xuống cho loài người xuyên suốt bao thế kỷ. Các ngài khám phá ra rằng v́ thế mà thiên thần đưa tin là loài bận bịu nhất trong các thiên thần. Và cũng là các vị được trọng vọng nhất. Loài người gọi họ là Tổng lănh thiên sứ. Nhiệm vụ của các vị là kêu gọi loài người trở về h́nh ảnh nguyên thuỷ của Đấng Tạo Hoá. Họ bận bịu nhất v́ loài người ương ngạnh, luôn luôn nổi loạn chống Thiên Chúa và xua đuổi các thiên thần. Nhưng có thể măi như vậy không? Thiên thần cũng là thụ tạo, cũng có giới hạn. Vậy th́ ḷng kiên nhẫn của họ chẳng lẽ vô cùng? Không đúng. Nó cũng có giới hạn! Cho nên các thiên thần ngạc nhiên Thiên Chúa sẽ làm chi kế tiếp cho con người dưới thế? Kẻo quá muộn, các thiên sứ sẽ có ngày đ́nh công v́ hết sức lực. Liệu Thiên Chúa thực hiện phép lạ để uốn nắn các tạo vật cứng đầu, cứng cổ gọi là loài người mà Ngài đă dựng nên? Họ xôn xao với nhau nhiều lắm và một ngày có tiếng đồn Thượng Đế sắp thực hiện một chương tŕnh vĩ đại cho loài người. Thiên thần Micae nói: “Thật chứ, cuối cùng th́ thời giờ đă đến. Mọi sự sửa soạn đă viên măn rồi”. Thiên thần Gabriel thêm vào: “Tôi chỉ c̣n đủ sức đi một lần nữa thôi.” Họ cứ nghĩ lần này là tận thế, Thiên Chúa sẽ phá huỷ toàn bộ loài người sa đoạ. Ai có thể trách cứ Ngài sau bao nhiêu năm tháng chờ đợi cải thiện ? Nhưng cũng có một số thiên thần hối tiếc cho số phận nhân loại. Dầu sao họ cũng có nhiều đức tính tốt lành. Thí dụ t́nh liên đới trong đau khổ, cứu giúp những kẻ gặp hoạn nạn, thiên tai, các tổ chức bác ái vô vị lợi, ḷng thương yêu kẻ khốn cùng, tôn giáo tự nhiên và nhiều điểm tốt khác nữa. Bỗng nhiên có tiếng gọi oai nghiêm từ Thiên cung vọng ra: “Gabriel !” Thiên Chúa triệu tập thiên thần Gabriel sáng láng tới trước ngai. Thiên thần truyền tin vội vàng bay đến phủ phục trứơc tôn nhan Thiên Chúa uy nghi cao cả. Ngài chỉ định Thiên sứ phải bay xuống dương gian lần nữa, cũng là lần cuối cùng sau chuyến đi Giêrusalem báo tin cho Giacaria. Thiên thần không quên mang theo chiếc gươm hai lưỡi sáng loáng. Chiếc gươm đă từng xé núi, bạt non, tàn phá hàng trăm thành phố với chỉ một nhát phát ngang. Cả triều đ́nh Thiên quốc run sợ, phen này th́ nhân loại tuyệt chủng, trả lại trái đất cho thiên nhiên trong sạch và tinh tuyền. Gabriel sẵn sàng phụng lệnh Đấng chí tôn chí thánh. Trong bụng buồn bă, nhưng công việc là cần thiết để cho vũ trụ được an vui. Thiên thần Gabriel đứng nghiêm trang chờ lệnh. Nhưng những điều thiên sứ nghe được làm thiên sứ nghi ngờ tai của ḿnh, Thiên Chúa lại nhân từ đến như vậy nữa sao? Hay ḿnh nghe nhầm? Nhưng xưa nay loài thiên sứ có nghe nhầm bao giờ, rơ ràng tiếng Đức Chúa: “Thôi, thiên sứ Gabriel xỏ gươm vào vỏ, ta sai ngươi đi thi hành việc khác chứ không phải tàn phá trái đất. Ta sẽ cứu chuộc nó. Ta sẽ sai phái con ta xuống đó, sống giữa loài người để giúp nó trở về với Ta. Ngài sẽ là một người trong họ, đi đứng, ngủ nghỉ, ăn uống, đói khát, đau khổ, rao giảng, thậm chí bị bắt và bị giết v́ họ nữa”. Nghe xong thiên sứ đứng sững sờ như bị sét đánh, ngạc nhiên về nội dưng sứ điệp. Ngài thuộc nằm ḷng những từ như: bị khinh bỉ, bị hiểu lầm, bị bắt và bị giết. Những từ lạ lẫm với bản chất thần linh. Nhưng ngài phải sửa soạn đi ngay. Ngài phải đến với một trinh nữ c̣n trẻ tên là Maria đang cư ngụ ở một làng nhỏ bé trong miền Galilea. Sứ thần hỏi thăm xem trong các vị thiên thần có ai biết địa điểm và đă từng tới đó bao giờ chưa? Các thiên thần đều trả lời không biết và chưa từng có vị nào đến công tác ở đó. Gabriel phải đến tận nhà trinh nữ và yêu cầu cô cộng tác với Thiên Chúa trong chương tŕnh của Ngài, tức cứu chuộc thế giới và nhân loại. Để cho công việc được kết quả mĩ măn. Thiên thần phải dẹp bỏ chiếc kiếm hai lưỡi khủng khiếp, cất nó vào kho chứa đựng dụng cụ không dùng đến. Rồi đi t́m người bạn đă từng ở dương gian, giúp đỡ cha con ông Tôbia. Chắc là thiên thần này đă thành thạo địa h́nh địa thế ở xứ Palestine: không thể lầm lẫn lạc đường được. “Này ông bạn Raphael, đă từng ở dương gian, xin chỉ lối cho tôi đến làng Nazareth xứ Galilea, có câu chuỵên trọng đại và khẩn cấp lắm. Tôi sợ bị trễ v́ lạc lối. Vậy xin ông bạn giúp đỡ tôi.” Thiên thần Gabriel nói. Thiên sứ Raphael kéo bạn ḿnh vào văn pḥng. Hai vị ngồi bên một cái bàn rộng. Đoạn thiên thần Raphael lấy phấn, và những viên đá sỏi, vẽ bản đồ xứ Paletine lên mặt bàn, lấy các viên sỏi đặt làm mốc: Chỗ này là thành thánh, chỗ kia là bản doanh Hêrôđê, chỗ khác trại quân La mă, chỗ góc thành là dinh Philatô, căn dặn từng chi tiết. Nhà Cai pha, nhà Anna vv. Như vậy với bản đồ trong trí óc, thiên thần Gabriel bay vù xuống trái đất để thi hành sứ mệnh Thượng Đế trao phó. Trên đường đi, thiên sứ Gabriel suy nghĩ về tin vui ngài sắp trao cho con cháu loài người. Ngài đă qua nỗi bất ngờ ban đầu và vui mừng v́ sáng kiến độc đáo của Đức Chúa Trời: Lạ lùng biết bao, Con Thượng Đế nhập thể làm người, sống với nhân loại như triệu triệu người khác. Cũng ăn, cũng uống, cũng chịu chê bai, khổ nhục. Thiên thần phá lên cười to khi nghĩ rằng tên con trẻ thần linh là Giêsu. Có đúng như Giôsuê con ông Nun? Thế th́ Ngài sẽ là một ông tướng mạnh mẽ lắm, có trong tay từng đoàn quân Do thái, chinh đông, phạt tây, bắt các dân, các nước, các vua chúa phải qui hàng. Lịch sử Do thái đă từng có như vậy. Bây giờ lại sắp xẩy ra lần nữa. Thiên Chúa khôn khéo biết mấy. Ḍng dơi Abraham, Isaac, Jacop lại được vẻ vang. Điều chi loài người không làm được th́ Thiên Chúa thực hiện dễ như trở bàn tay. Đế quốc La mă sẽ bị phá huỷ tan tành. Gabriel lại thầm cười và khâm phục Thiên Chúa, mừng cho nhân loại. Thiên sứ quá mải mê với ư nghĩ, nên nửa đường quên tiệt bản đồ. Theo bản năng khi lúng túng ngài bay thẳng đến Rôma. Nói cho ngay, Rôma là thành phố lớn nhất thời ấy và cũng hùng mạnh nhất thế giới. C̣n thành phố nào quan trọng hơn để Thiên Chúa thực hiện chương tŕnh vĩ đại của ḿnh ? Cho nên an toàn hơn cả là đến đó để báo tin. Tuy nhiên khi thiên thần bay gần tới cổng thành th́ tiếng Thiên Chúa nói bên tai: “Sứ thần nhầm rồi, không phải thành phố này, mà ở làng Nazareth, xứ Galilea. Coi lại bản đồ xem sao!” Và Thượng Đế quyết định mắc một đường dây liên lạc để hướng dẫn sứ thần đi đến nơi về đến chốn. Như vậy sứ thần đến Nazareth đúng hướng, sau khi đă lượn khắp lượt Palestine cổ kính. Nazareth là một làng quê nhỏ nhất, nghèo xơ xác với vài chục nóc nhà, vài trăm nhân khẩu làm nghề lặt vặt. Thiên Chúa chỉ cho Gabriel nhận diện một thiếu nữ c̣n rất trẻ, đoan trang, thuỳ mị, phỏng 15, 16 tuổi đang qú cầu nguyện. “Cô ta đấy, Thiên Chúa th́ thầm vào tai Gabriel, chào thăm cô ấy đi, và nhớ nói nhỏ nhẹ, khiêm nhường. Đừng đáp xuống mạnh kẻo cô ta giật ḿnh sợ hăi. Giấu bớt vẻ sáng láng của ngươi đi. Tin mừng ngươi đem đến đă đủ huy hoàng rồi. Đơn giản là hăy trấn an cô rằng Thiên Chúa luôn ở với cô, cô không chi phải khiếp sợ. Không có ǵ mà Ngài không làm được.” Phần c̣n lại của câu truyện mọi người đều biết cả. Thiên sứ đă loan tin Ngôi Hai xuống thế làm người, mặc lấy xác phàm nơi cung ḷng cô gái quê mùa. Mặc dầu không hiểu hết mọi chi tiết của chương tŕnh, nhưng Maria đă cúi đầu xin vâng một cách can đảm. Thiên thần hoàn thành sứ mạng trở về trời vẻ vang. Tất cả triều đ́nh Thiên quốc vây quanh vị thiên sứ sáng láng. Vui mừng chúc tụng. Nhưng có điều họ nhận ra là thanh gươm không c̣n nữa. Họ lại kháo láo với nhau : “Thế nào, Thiên sứ đă phá huỷ trái đất chưa ? Ghê gớm lắm nhỉ? Sôdoma và Gomora làm sao sánh bằng?” Nhưng nét mặt ai cũng vương chút nuối tiếc, buồn thương. V́ dầu sao vẫn c̣n vài điều đáng yêu, bất chấp tội lỗi và thiếu xót. Nhiều vị thiên thần đă làm bạn với loài người, yêu mến loài người. “Không”, Gabriel nói: “Tôi không phá huỷ loài người, mà thông báo cho chúng biết: Thiên Chúa vô cùng lân tuất, sai Con Một của Ngài xuống thế để cứu độ họ qua một trinh nữ tên là Maria.” Cả triều đ́nh Thiên quốc sững sờ kinh ngạc. Một cảm giác kính sợ chạy qua các thiên thần. Họ nhận ra rằng khả năng yêu thương của Thượng Đế quả vô hạn. Họ ngước nh́n lên ngai toà sáng láng của Ngài mà đồng thanh tung hô: “Quả thật, Ngài là Thiên Chúa yêu thương.” Câu chuyện xem ra hoang đường nhưng rất thật đối với mỗi linh hồn chúng ta trong mùa Giáng Sinh này. Amen.
Học theo gương Mẹ : Xin
vâng thánh ư Chúa Anh chị em thân mến, Bài đọc thứ hai hôm nay là phần kết của thư thánh Phaolô gởi tín hữu Rôma. Đó là lời kinh cuối thường được dùng trong Phụng vụ. Sách thánh của dân Do Thái và của người Kitô hữu thường có những lời kinh để kết thúc như vậy. Đó là kinh tụng ca vinh danh. Kinh Thánh ca tụng vinh quang Thiên Chúa, uy quyền cùng sự thánh thiện của Ngài vang dội qua các thời đại và các dân tộc. Lời kinh cuối thường là những lời kinh đáp lại những việc Thiên Chúa đă làm trong đời sống chúng ta. Mỗi khi chúng ta chấp nhận danh thánh Chúa, th́ chúng ta ca tụng vinh danh Ngài. Đôi khi vinh quang Thiên Chúa đến trong đám mây, hoặc chiếu rọi trong đền thánh (Xh 29:43; Ds 16-19;Is.6 và nhiều thánh vịnh). Mỗi khi chúng ta ca tụng vinh danh Thiên Chúa, chúng ta hay dâng lời kinh: "Vinh Danh Thiên Chúa ", " Hăy ca tụng Danh Chúa" v.v... Chúng ta thường ca ngợi "danh thánh" hay những lời ca tụng khác như trong Phụng vụ thánh lễ hôm nay. Trong thư Rôma, thánh Phaolô viết danh thánh Chúa đă được ca tụng qua cuộc đời của Chúa Kitô, qua sự chết và sự Sống lại của Người. Khi chúng ta đến với đức tin và nhận lấy danh thánh Chúa th́ chúng ta đă ca ngợi vinh danh Ngài. Trong sự kết hợp mầu nhiệm của Thiên Chúa trong Đức Kitô, Chúa Thánh Linh làm chúng ta dâng lời ca tụng sự huyền nhiệm này. Trong Phúc âm hôm nay, mọi người hăy cất lời ca tụng thánh danh Thiên Chúa qua lời nói và việc làm của Đức Kitô. Trong Phụng vụ thánh lễ nửa đêm lễ Giáng Sinh, chúng ta sẽ nghe thánh Luca tả lại sự xuất hiện của các thiên sứ trước các mục đồng, trong ánh sáng và tiếng ca tụng "Vinh danh Thiên Chúa trên trời" (Lc 2:14), về việc Thiên Chúa đă cho Đấng Cứu Thế Giáng sinh. Trong thư thánh Phaolô, thường có những bài tụng ca ở cuối thư (X. Ep.3:20-21; Pl 2:5-11) giúp chúng ta nh́n vào uy quyền Thiên Chua, với t́nh thương của Ngài qua Đức Kitô. Thánh nhân khuyên chúng ta nên suy niệm và lănh nhận t́nh thương yêu của Thiên Chúa trong đời sống, rồi dâng lên lời ca tụng vinh danh Ngài. Chúng ta có bổn phận luôn sống ca ngợi vinh danh Thiên Chúa, v́ đă được Chúa Kitô soi sáng cho chúng ta. Nói cách khác là, chính đời sống chúng ta phải là một bản ca tụng: "vinh danh Thiên Chúa trong thân xác chúng ta"; "Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao?" (1Cr.6:19) Phần kết thúc thư Rôma cũng như phần mở đầu, (Rm 1:2-5) thánh Phaolô ca ngợi Tin mừng: "đă dùng các ngôn sứ của Ngài mà hứa trước trong Kinh Thánh. Đó là Tin Mừng về Con của Ngài là Đức Giêsu Ki-tô. Nhờ Người, Thánh Phaolô đă nhận được đặc ân và chức vụ Tông Đồ, làm cho hết thảy các dân ngoại vâng phục Tin Mừng, hầu danh Ngài được rạng rỡ". Chúng ta hăy ca ngợi Thiên Chúa vi Ngài đă đưa tay cứu độ mọi người qua Đức Kitô. Trong Phúc âm, quang cảnh báo tin mừng ngày sinh Đấng Cứu Thế đă được tŕnh bày qua các bức tranh họa. Bức tranh của Fra Angelico về thiên sứ truyền tin cho Đức Maria treo trong viện bảo tàng thánh Máccô ở Florence. Viện bảo tàng này là tu viện ḍng Đaminh, và nghệ sĩ tu sĩ thời Phục Hưng Fra Angelico này đă vẽ nhiều tác phẩm trên các bức tường của tu viện, nhằm giúp các tu sĩ dễ chiêm niệm những mầu nhiệm đức tin. Có một bức tranh tŕnh bày Đức Mẹ ngồi trên ghế gỗ trước cửa nhà. Đức Mẹ trông có vẻ b́nh an và ăn mặc chỉnh tề. Có chút ánh sáng mặt trời và thiên thần chói sáng. Cảnh trí đó giúp các tu sĩ sống đời cầu nguyện trong thinh lặng. Nhưng chúng ta đâu có sống trong tu viện đó, dù vậy chúng ta có thể nhờ bức tranh của Fra Angelico để giúp chúng ta có chút thời gian suy niệm mầu nhiệm của Chúa trong cuộc sống bận rộn hàng ngày của chúng ta. Tuy nhiên, một ư nữa được nảy sinh trong bài Phúc âm hôm nay, làm cho chúng ta không mấy thư thái. Hăy đọc câu mở đầu: "Thiên Chúa sai sứ thần đến một thị trấn ở Ga-li-lê gọi là Na-xa-rét". Mới đọc thôi sẽ không thấy có ǵ lạ cả, nhưng Galilê là nơi rất phức tạp. Ở đó đa số là nông dân nghèo khổ. Ở Galilê, chủ nghĩa dân tộc rất mạnh nên thường có những cuộc nổi dậy đ̣i độc lập. Dân Galilê thường được xem là dân hay nổi loạn đ̣i tự do. Thiên Chúa đă muốn chọn Galilê là nơi Con Chúa làm người. Chúa Giêsu là người Galilê. Đức Maria sống trong một vùng phức tạp. Người đă làm ǵ trước khi sứ thần Gabriel đến gặp ở Nadarét? Trong bức tranh của Fra Angelico, Đức Maria ngồi thinh lặng như đang suy ngẫm. Một số nghệ sĩ khác vẽ Đức Maria quỳ gối như đang cầu nguyện. Nhưng có lẽ nên vẽ Đức Maria đang làm bánh, hay đang may vá, hoặc đang nhóm bếp nấu ăn. Đức Mẹ cũng có thể đang đứng ở cửa để nghe tiếng ḥ reo của một nhóm biểu t́nh chống đối. Chúng ta không muốn diễn tả đời sống của Đức Maria một cách không thực tế. Chúng ta không muốn Đức Maria sống khác với cuộc sống thường ngày của xă hội Nadaret. Nhin lại lần nữa bức tranh, chúng ta thấy Đức Maria gặp sứ thần Gabriel: "Nghe lời sứ thần, Bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào có nghĩa ǵ". Nhưng sứ thần trấn an sự bối rối của Đức Maria liền: "xin Bà đừng sợ". Chắc Đức Maria có vẻ lo sợ lắm. Nơi Người sống, Galilê là vùng đất có nhiều cuộc nổi dậy, và câu hỏi của Đức Maria chứng tỏ Người đang lo sợ. Nhưng Sứ thần không nói nhiều về hiện tại và tương lai của Đức Maria. Trái lại, điều thần sứ muốn tŕnh bày là Đức Maria phải để Thiên Chúa đi vào đời sống của ḿnh và chỉ duy nhất một điều là tin vào Ngài. Đó là thái độ chúng ta cần phải có mỗi khi chúng ta thưa "vâng" với Chúa. LỜI NGUYỆN MÙA VỌNG Lạy Chúa xin Chúa hăy ở với chúng con trong Mùa Vọng này, xin Chúa giúp chúng con mỗi ngày thêm thánh thiện để đón Đấng sẽ đến với chúng con. Xin Chúa hăy ban ân sủng như lời Chúa hứa vào ḷng chúng con. Xin Chúa hăy mau giúp chúng con t́m hiểu những ǵ chúng con sẽ gặp trong cảnh sa mạc vắng của Mùa Vọng: Xin Chúa hăy kiên nhẫn nâng đỡ chúng con hiểu ơn cứu chuộc của Chúa. Xin Chúa cho chúng con hiểu uy quyền của Chúa qua Chúa Giêsu, là Chúa muốn thay đổi mọi sự trong chúng con. Chúng con cầu xin ....
Thiên Chúa
T́m Cho Ḿnh Một Ngôi Nhà
Tin Mừng cho người biết khiêm tốn Ai ai cũng mong đón nhận một tin mừng : một thanh niên thành đạt trong cuộc thi hay đám cưới của một người bạn thân ... Một đứa trẻ sắp ra đời cũng là một tin mừng -có lẽ là tin mừng lớn lao nhất, đúng nghĩa nhất- bởi v́ trước hết, đó là một sự sống mới phát sinh từ t́nh yêu. Tuy vậy, một tin mừng không có nghĩa là không có lo âu, không có nghĩa là không có những thắc mắc về tương lai. Biến cố truyền tin cho Đức Maria đúng là một tin mừng, một Tin Mừng đích thực. Với biến cố này, Đức Maria sẽ sinh hạ một người con, nhưng cũng là sinh hạ Con Người, Con Thiên Chúa, đổng thời cũng là sinh hạ một thế giới mới. Nơi người con này, sự chết sẽ vĩnh viễn bị tiêu diệt. Trước lời loan báo như thế, thái độ đáp trả của Đức Maria diễn ra theo ba giai đoạn : trước tiên, khi nghe lời chào của sứ thần, Mẹ hoảng sợ ; sau đó, rất cụ thể và với tất cả ư ngay lành, Mẹ lo lắng v́ "làm sao có chuyện ấy được" ; cuối cùng, sau khi nghe lời giải thích của sứ thần, Mẹ thanh thản nhường chỗ cho Lời của Thiên Chúa, sẵn sàng chấp nhận làm Nữ Tỳ khiêm tốn của Thiên Chúa. Trong khi chấp nhận làm Nữ Tỳ khiêm tốn của Thiên Chúa, Đức Maria cũng tràn đầy vui mừng bởi v́ Mẹ nhận biết rằng Thiên Chúa yêu mến Mẹ. Mẹ rất hănh diện khi biết rằng ḿnh là con cái Thiên Chúa, được Người tuyển chọn để thi hành một việc rất cao cả. Quả thế, Đức Maria được mời gọi cộng tác vào việc hạ sinh Đức Giêsu. Đó là việc phục vụ tuyệt vời nhất, nhưng đồng thời cũng là công việc đau thương nhất của tất cả mọi người phụ nữ. C̣n ǵ cao quư và hạnh phúc cho người mẹ hơn là việc hạ sinh một người con, một sinh vật h́nh thành từ chính máu thịt của ḿnh. Nhưng cũng có ǵ đau thương hơn đối với người mẹ trong việc sinh con, không phải chỉ là những đau đớn thể lư, nhưng là thái độ không chiếm hữu người con, để cho người con ấy hành động như một con người, và tự ḿnh sống đời của ḿnh. Không ít người phụ nữ cảm thấy khó có thể chấp nhận được t́nh trạng đau thương này. Riêng với Đức Maria, khi chấp nhận cưu mang Đức Giêsu, Mẹ cũng đă chấp nhận việc Đức Giêsu thoát khỏi đôi tay của ḿnh. Toàn bộ cuộc đời của Mẹ, từ sau biến cố này, luôn là một sự dấn thân, một cuộc phiêu lưu thực thụ trong việc từ bỏ ḿnh, để cho chính người con ḿnh đă sinh ra luôn hướng về việc thi hành thánh ư của Thiên Chúa (x. Lc 2,48-49). Bởi v́ Mẹ biết rằng, người con Mẹ đă cưu mang trong cung ḷng trinh khiết của ḿnh là do Thiên Chúa và thuộc về Thiên Chúa. Có thể nói được rằng, trong cuộc đời của Đức Maria, vai tṛ làm mẹ, dù là Mẹ Thiên Chúa, vẫn có tầm quan trọng thứ yếu. Điều quan trọng hơn hết, chính là lắng nghe và thi hành thánh ư của Thiên Chúa. Ngôi nhà chính là một thái độ Điều đáng lưu ư trong tŕnh thuật truyền tin, đó là Đức Maria đă không bao giờ dám mơ tưởng ḿnh sẽ nhận được một hồng ân lớn lao ; nhưng khi được đề nghị, Mẹ đă ưng thuận. Nơi Đức Maria, niềm hy vọng của quân vương Đa-vít được thành tựu. Ông từng ước mong xây dựng cho Thiên Chúa một ngôi nhà, nhưng ông đă không được diễm phúc ấy. Đức Maria quả là ngôi nhà mà vua Đa-vít hằng mơ ước, bởi v́ Thiên Chúa đă đích thân đến xây dựng nơi ở của Người giữa nhân loại. Chính Thiên Chúa xây dựng cho ḿnh chứ không phải ai khác. Ngôi nhà ấy là một con người sống động, thật khiêm tốn chứ không phải là căn nhà uy nghiêm được xây bằng gỗ đá. Đức Giêsu chính là Đền Thờ của Thiên Chúa. Người đă đến trong cung ḷng Đức Maria. Về phần ḿnh, Đức Maria chưa bao giờ nghĩ đến một điều như thế, và cũng chẳng bao giờ t́m cách xây dựng bằng nỗ lực của ḿnh. Như thế, một bên, chương tŕnh của vua Đa-vít vẫn c̣n nằm trong ư tưởng, trong ước mơ, (mơ hồ về cả mục đích : mong muốn tôn vinh Thiên Chúa, điều ấy có ; nhưng đồng thời cũng là khát vọng muốn tôn phong vương quyền của ḿnh, muốn chiếm hữu Thiên Chúa. Một bên, Đức Maria chỉ có một ước mơ duy nhất là dâng hiến cuộc sống của ḿnh cho Thiên Chúa (lời khấn trinh khiết là một dấu chỉ), và không t́m cách chiếm hữu Thiên Chúa, th́ Thiên Chúa đă thực hiện những điều kỳ diệu : Người đă đến xây dựng ngôi nhà cho ḿnh. Quả thế, tính cách cao cả nhất trong con người Đức Maria, tính cách làm cho Mẹ trở thành phần tử ưu việt của Ít-ra-en, tính cách làm cho Mẹ trở nên thánh thiện tuyệt vời, đó là Mẹ hoàn toàn thanh thản và sẵn sàng. Thái độ này đă được khởi đầu với lời khấn trinh khiết và ư muốn duy tŕ nếp sống này măi măi, cả khi nghe lời loan báo của sứ thần. Thế nhưng, cũng chính thái độ này làm bật lên tiếng kêu : "Này tôi là Nữ Tỳ của Thiên Chúa". Đức Maria đă từ bỏ một điều tốt đẹp để nhận lấy điều tốt đẹp hơn ; đă từ bỏ ư định cao cả của ḿnh để đón nhận điều cao cả nhất là chính Thiên Chúa, là hoàn toàn phục vụ Lời. Tuy nhiên, Đức Maria chỉ là điểm để Thiên Chúa đi qua. Mẹ hạ sinh Đấng Cứu Thế ; nhưng bởi v́ là Mẹ Đức Giêsu, nên Mẹ phải để Người ra đi. Người Con của Mẹ không phải là của riêng Mẹ. Người là Thiên Chúa và sống cho Thiên Chúa. Toàn bộ phần kế tiếp của Tin Mừng Lu-ca sẽ nhấn mạnh chi tiết này. Đặc ân của Mẹ, chính là thái độ từ bỏ, để cho Người Con thực hiện chương tŕnh của Thiên Chúa, và Mẹ đă đi theo Người Con ấy đến tận cái chết trên thập giá. Thiên Chúa vẫn đang t́m một ngôi nhà Đọc đi đọc lại bản văn này, hẳn chúng ta sẽ cảm thấy bị thối thúc đặt ḿnh vào vai tṛ của Đức Maria và suy tưởng những điều chúng ta phải làm. Một em bé gái đă đặt câu hỏi với người nói cho em về Đức Maria : Tại sao lại là Mẹ mà không phải là tôi ? Người kể chuyện đă đặt câu hỏi khác với em : Tại sao lại là tôi chứ không phải ai khác ? Mỗi chúng ta có thể nói như thế được không ? Có thể được, bởi v́ chúng ta biết rằng, mỗi lần Đức Ki-tô thâm nhập vào cuộc đời chúng ta, th́ đó là một cuộc truyền tin mới, một lễ No-en mới. Và chúng ta hiểu rằng, đó là một hồng ân, một hồng ân đặc biệt Thiên Chúa trao tặng cho chúng ta. Bởi v́, như Con Thiên Chúa đă làm người trong cung ḷng Đức Maria, Người cũng muốn đến cư ngụ trong mỗi chúng ta, Người vẫn mong muốn bắt đầu lại nơi mỗi người cuộc phiêu lưu trong cái chết và phục sinh. Theo nhăn giới này, câu trả lời của Đức Maria quả là một gương mẫu cho sự đáp ứng của con người trước Thiên Chúa, và qua đó, cũng cho thấy khoảng cách giữa chúng ta với gương mẫu này. Trước lời chào của sứ thần, Đức Maria đă bối rối. C̣n chúng ta, chúng ta lại thường điếc, không nghe thấy. Khi nghe loan báo Tin Mừng, Đức Maria nói "Làm sao ...". C̣n chúng ta, chúng ta đặt câu hỏi "tại sao ?" Và khi Đức Maria thưa "Xin vâng", th́ chúng ta lại tranh luận về những từ ngữ trong bản giao ước với Thiên Chúa. Lời thưa "Xin vâng" của Đức Maria hoàn toàn ch́m sâu trong t́nh yêu và tin tưởng. Tương lai sẽ ra sao, không cần biết ! Thiên Chúa là Đấng tín trung, thế là đủ ! C̣n chúng ta, chúng ta lại chẳng mau mắn nắm lấy trong tay này điều chúng ta vừa cố gắng bỏ ở tay kia đó sao ? Cuối cùng, truyền tin cho Đức Maria th́ cũng là truyền tin cho cả nhân loại, cho con người trọn vẹn. Đức Maria đă đón nhận Tin Mừng, và Tin Mừng đă không tránh cho Mẹ những đớn đau, những vất vả. C̣n chúng ta, chúng ta đón nhận như thế nào ? Có phải Đức Giêsu luôn là Tin Mừng cho chúng ta không ? Người vẫn đang đến và đang cần một ngôi nhà.
Mầu nhiệm truyền tin Đức Maria là người diễm phúc, bởi v́ đă được Thiên Chúa chọn làm mẹ cho con của Ngài nhập thể giáng trần. Điều đó đă được ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay, gọi là tŕnh thuật truyền tin. Đây là một đoạn văn cho chúng ta biết Thiên Chúa đă đưa Đức trinh nữ Maria, một phụ nữ khiêm tốn trở thành một người diễm phúc như thế nào. Nhân vật được Thiên Chúa sai đi là sứ thần Gáp-ri-en, đem mệnh lệnh Thiên Chúa đến cho một thiếu nữ tên là Maria, con ông Gioakim và bà Anna, thuộc ḍng họ vua Đavít. Sứ thần báo cho Maria một tin rất trọng đại : Thiên Chúa muốn trinh nữ làm mẹ Đấng Cứu Thế. Nhưng v́ đă khấn hứa sống trinh khiết trọn đời, nên Maria không hiểu điều đó có ư nghĩa thế nào : làm sao vừa có thể sống trinh khiết lại vừa có thể sinh con và làm mẹ được ? v́ thế, Maria hỏi sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào?”. Sứ thần cho biết đây không phải là trường hợp b́nh thường bởi loài người nhưng bởi Chúa Thánh Thần làm phép lạ vĩ đại cho cô chịu thai mà vẫn c̣n đồng trinh và cô sẽ sinh một Thánh Tử là Con Thiên Chúa. Có thể nói giây phút ấy, tất cả tương lai nhân loại nằm trên đôi môi Đức Mẹ, giây phút ấy mầu nhiệm nhập thể vẫn c̣n lơ lửng, và Thiên Chúa hồi hộp chờ đợi câu trả lời của Đức Mẹ. Cuối cùng, Đức Mẹ đă hoàn toàn ưng thuận. Thế là mầu nhiệm truyền tin đă hoàn tất. Qua mầu nhiệm này chúng ta thấy Đức Mẹ sau khi biết việc thụ thai con trẻ Giêsu là bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, Đức Mẹ đă can đảm thưa “xin vâng”. Để hiểu được sự can đảm phi thường của Đức Mẹ, chúng ta thử đặt ḿnh vào vai tṛ của Đức Mẹ cách đây 20 thế kỷ, sống dưới một luật lệ khắt khe của Do Thái giáo. Thời đó phụ nữ rất bị khinh miệt hơn cả ở Việt Nam chúng ta, nếu đối với chúng ta: “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” th́ phụ nữ ở Do Thái c̣n “nhẹ giá” hơn nữa. Thực vậy, lúc ấy Đức Mẹ là một trinh nữ mới lớn, khoảng 15, 16 tuổi, lại mới chỉ đính hôn với Giuse, luật lệ lúc ấy rất khắt khe với những người đính hôn, nếu có thai không do người bạn đính hôn của ḿnh là bị kết tội giao du bất chính, ngoại t́nh và bị ném đá cho chết. Đàng khác, Đức Mẹ sống trong làng Na-da-rét, một làng nhỏ bé, nên việc mang thai không thể giấu diếm được. Có lẽ nhiều câu hỏi đă nảy sinh trong đầu Đức Mẹ : làm thế nào để giải thích cho họ hàng đôi bên và nhất là với người chồng sắp cưới ? Làm thế nào để giải thích cho những vị lănh đạo tôn giáo khắt khe trong làng ? Nhưng t́nh yêu Thiên Chúa của Đức Mẹ đă thắng, Đức Mẹ đă chấp nhận mọi nguy hiểm. Thực vậy, v́ yêu Chúa, Đức Mẹ bằng ḷng chấp nhận mọi sự hiểu lầm của mọi giới người, chấp nhận những lời xuyên tạc, đàm tiếu có thể xảy ra, và chấp nhận ngay cả cái chết nữa. Cũng thế, v́ yêu Chúa, Đức Mẹ dám hy sinh hạnh phúc gia đ́nh, bởi v́ lúc sứ thần đến truyền tin th́ Đức Mẹ đang trong thời gian đính hôn với Giuse, bây giờ câu chuyện xảy ra thế này th́ việc cưới xin làm sao thành được nữa, nhưng Đức Mẹ đă bằng ḷng chấp nhận tất cả, chấp nhận không điều kiện, phó thác mọi sự cho Chúa. Chính v́ thế Thiên Chúa đă lo liệu trọn vẹn cho Đức Mẹ, đây cũng là bài học cho chúng ta. Chúng ta thấy đó, đối với Đức Mẹ lúc ấy, một tương lai mịt mờ đang chờ đón, nhưng Đức Mẹ vẫn dám nói “xin vâng” trong tin và yêu. Đời chúng ta không thể kém Đức Mẹ đâu, sống ở trần gian này, cuộc đời chúng ta cũng gặp nhiều khúc quanh, gánh nặng, nhiều lúc mịt mù lắm mây giăng. Nói rơ hơn, tất cả chúng ta đă, đang hoặc sẽ gặp đau khổ, có người đă trải qua đau khổ, có người đang quằn quại trong đau khổ, có người đang bị đau khổ ŕnh rập, không ai dám quả quyết ḿnh không có đau khổ, giàu hay nghèo, đi tu hay sống đời gia đ́nh, đều có những đau khổ riêng của ḿnh. V́ thế, đau khổ nhiều hay ít chưa phải là quan trọng, điều quan trọng là thái độ và tinh thần của chúng ta thế nào trước đau khổ. Dù trong hoàn cảnh nào chúng ta hăy nhớ lại trường hợp của Đức Mẹ mà an tâm phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa, hăy hết ḷng tin tưởng và cầu xin Chúa, v́ đối với Thiên Chúa, không có ǵ mà Chúa không làm được. Tóm lại, mỗi khi gặp chuyện ǵ đau khổ, chúng ta hăy ca lên bài ca “xin vâng” để giữ vững tinh thần và thêm niềm tin vào Chúa và xin Đức Mẹ trợ giúp : “Mẹ ơi, đường đi trăm ngàn nguy khó, hiểm nguy dâng tràn đây đó. Mẹ ơi, đường đi phủ đầy bóng tối, bẫy chông giăng tràn muôn lối. Xin Mẹ dạy con hai tiếng xin vâng : hôm nay, tương lai và suốt đời. Xin Chúa cho chúng ta, dù làm ǵ, chúng ta luôn biết làm theo thánh ư Chúa, tức là luôn sống đúng và làm đúng với Tin Mừng của Chúa.
Niềm hy vọng đang ở
giữa chúng ta Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể ! Chúng con đang sống trong những ngày cuối cùng của Mùa Vọng. Chúng con đang nô nức chờ ngày lễ Chúa Giáng Sinh. Hang đá đă đă làm xong, thiệp cũng đă gởi, và c̣n nào là hoa, nào là quà nữa… Giờ đây chúng con đến với Chúa với tất cả niềm hân hoan. Đồng thời cũng là những giây phút chúng con lắng đọng bên Thánh Thể Chúa, bên cạnh những lo lắng trang hoàng hang đá, cây Noel, để chúng con nhận ra điều đích thực chúng con chờ đón là chính Chúa chứ không phải những trang trí, bày biện. Chúa chính là t́nh yêu hiện hữu của Chúa Cha. Chúng con không thể đến với Chúa nhưng Chúa đă đến với chúng con qua nhân tính của Chúa Giêsu. V́ vậy, lạy Chúa, chúng con tin nhận Thánh Thể chính là phương thế hữu hiệu mà Chúa đă mặc lấy để ở với chúng con như lời sứ thần loan báo : “Này đây trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23). Lạy Chúa, Mùa Vọng là mùa chúng con bừng tỉnh sau cơn mê để trỗi dậy tiến thẳng đến bên Chúa. Ánh sáng Giáng Sinh, nguồn ơn giải thoát cuối con đường Mùa Vọng cho chúng con một hướng đi vững chăi. Xin Chúa giúp chúng con nhận ra khi chúng con thất vọng, có Chúa là nguồn hy vọng ; khi đời chúng con tăm tối, có Chúa là ánh sáng, là niềm vui như sứ thần đă nói với Đức Maria : “Mừng vui lên !” Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật cho chúng con ngày Chúa được thành h́nh trong ḷng mẹ. Chúa đă cần đến một bà mẹ trần gian để chúng con được trở nên anh em với Chúa, anh chị em với nhau. Đứng trước mầu nhiệm cao cả của Chúa, Đức Maria đă thưa hai tiếng “Xin Vâng” khiêm hạ và tin tưởng. Lời xin vâng phó thác vào quyền năng Thiên Chúa, ư thức sâu xa sự bất toàn của thân phận loài người chúng con. Chắc hẳn Mẹ Maria đă dành nhiều thời gian chuẩn bị và khao khát mong chờ Chúa đến nên khi được Thiên sứ báo tin, Mẹ đă sẵn sàng đáp trả. C̣n chúng con, Mùa Vọng đă gần hết nhưng chúng con chưa thật sẵn sàng. Chúng con mới chỉ lo những việc bên ngoài, những kế hoạch vui chơi,... Chúng con quên rằng, Chúa sinh hạ rất nghèo để dạy chúng con biết chia sẻ vật chất, chia sẻ t́nh thương cho những người xung quanh. Chúa sinh làm người dạy chúng con biết sự sống là thánh thiêng để chúng con trân trọng cuộc đời của ḿnh và tôn trọng người khác. Thiên Chúa làm người để nhắc nhở chúng con thân phận làm con Thiên Chúa, biết chọn lựa Chúa hơn là chọn những niềm vui chóng qua. Lạy Chúa Giêsu, Thánh Thể Chúa cho chúng con đón nhận nguồn sống mới, và hành động mới để sống đúng tinh thần Mùa Vọng. Chúa muốn sinh hạ vào ḷng mỗi người chúng con như xưa đă nương náu trong ḷng Mẹ Maria. Xin cho những giây phút chúng con ở trước Thánh Nhan Chúa giúp chúng con nh́n rơ chúng con hơn, hầu sửa chữa lỗi lầm, xứng đáng đón nhận biến cố trọng đại sắp được cử hành trong đêm Giáng Sinh. Xin cho niềm vui Giáng Sinh kéo dài măi trong cuộc đời mỗi khi chúng con đón rước Thánh Thể. Xin Chúa Thánh Thần đến đổi mới chúng con để sau những ngày Mùa Vọng Thánh, chúng con trở nên người mới. Xin Thánh Thần Chúa thêm sức mạnh giúp chúng con có đủ nghị lực dứt bỏ những ràng buộc trần gian để kiên quyết bước theo Chúa cũng sẵn sàng như Mẹ Maria. Amen
Như Mẹ Maria, Thưa Vâng
Trong Cả Cuộc Đời Kính thưa cộng đoàn ! Trong ba Chúa nhật mùa vọng vừa qua chúng ta đă nghe Thánh Maccô và Gioan kêu gọi hăy tỉnh thức, sám hối, dọn tâm hồn và hăy vui lên để đón Chúa vào trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Hôm nay, Chúa Nhật cuối cùng trong bốn Chúa Nhật Giáo hội dành cho chúng ta để chuẩn bị đón mừng đại lễ kỷ niệm biến cố Chúa Giáng Sinh. Bài Tin Mừng theo Thánh Luca hôm nay, tả lại bối cảnh sứ thần Thiên Chúa truyền tin cho Đức Bà Maria. Đây là biến cố đặc biệt mà Đức Maria đă được đặt vào vị trí trung tâm, vị thế quyết định vận mệnh cho cả thế nhân: hoặc được giải thoát khỏi tội lỗi – hoặc vẫn sống đắm ch́m trong đêm tối mà vẫn khắc khoải chờ mong một đấng cứu thế. V́ thế, biến cố truyền tin phải được xếp vào trong những biến cố quan trọng hàng đầu trong chương tŕnh cứu chuộc nhân loại của Thiên Chúa. Bởi v́, nếu không có lời “Xin vâng” của Đức Maria th́ Đấng Cứu Thế vẫn chưa đến, thế giới này đă không được trở nên trời mới đất mới và có thể loài người chúng ta chưa được hưởng ơn cứu độ. Lời xin vâng ấy đă làm xoay chuyển cả cuộc đời c̣n lại của Đức Maria v́ trước đó Mẹ đă nhận lời đính ước cùng Thánh Giuse, ḍng dơi con vua Đa-vit. V́ thế, khi sứ thần Thiên Chúa Gabrien xuất hiện, chào kính cùng báo tin đă làm thiếu nữ Maria vô cùng sửng sốt và bối rối… nhưng Đức Maria đă không phụ ḷng hết thảy nhân gian đang ngày ngày trông đợi, mong có một đấng đến giải thoát họ khỏi khổ cực lầm than. Đức Maria đă đáp : “Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền”. (Lc 1,38). Khi lời xin vâng trịnh trọng của Đức Maria cất lên không những làm cho cuộc đời Mẹ thay đổi mà cả thế giới cũng được chuyển ḿnh. V́ thế, Đức Maria xứng đáng được làm Mẹ Con Thiên Chúa và trở nên một Eva mới của trời mới, đất mới. Khi chấp nhận để Chúa Con ngự vào ḷng ḿnh th́ Mẹ đă sẵn sàng để Thiên Chúa Cha hướng dẫn cuộc đời Mẹ, dù không biết được con đường của Chúa sẽ dẫn tới đâu. Quả là một lời hứa bất chấp sự rủi ro, Mẹ đă từ bỏ quyền kiểm soát tương lai và để mặc cho Thiên Chúa quyết định cuộc đời của ḿnh, hành động đó của Mẹ cũng chỉ v́ T́nh Yêu cho nhân thế mà bất chấp mạng sống. Mẹ đă nói: Tôi không hiểu được tất cả ư nghĩa của việc này, nhưng tôi tin tưởng rằng nhưng điều tốt đẹp sẽ xảy ra. Do đó chúng ta có thể nói Đức Maria đă không chỉ thưa tiếng xin vâng một lần đơn giản trong ngày Sứ Thần Thiên Chúa truyền tin. Trái lại, Đức Maria đă tiếp tục thưa tiếng xin vâng mọi ngày trong suốt cuộc hành tŕnh với Chúa Giêsu và suốt cả cuộc đời Mẹ sau này. Lời thưa : “Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền” đă chứng tỏ Đức Maria đă thực sự là một người khiêm hạ, nhận ḿnh nghèo hèn và đặt ḿnh tùy thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa, Đấng sẽ nâng đỡ và giúp Mẹ sống trung tín suốt cả cuộc đời Mẹ. Mẹ xin vâng để Chúa Con được làm người và thực thi sứ mệnh mà Chúa Cha giao phó. Mẹ xin vâng trong suốt chặng đường của cuộc sống gia đ́nh đầy khó khăn. Cuối cùng Mẹ xin vâng khi chấp nhận để con ḿnh ra đi thi hành sứ mệnh, kể cả khi thấy con đau đớn, kiệt sức và chết trên thập giá. Thưa cộng đoàn, Lời Chúa trong ngày Chúa Nhật hôm nay mời gọi mỗi người trong chúng ta hăy sống theo gương Đức Maria với ḷng khiêm tốn và xin vâng qua những công việc tầm thường xảy ra hằng ngày trong đời sống của mỗi người chúng ta. Mẹ Maria đă vui mừng nói lời xin vâng khi Thiên Chúa ngỏ lời hỏi ư, vậy c̣n chúng ta những Kitô hữu đă và đang lữ hành trên đường t́m kiếm hạnh phúc đích thật, chúng ta có giám mạnh dạn nói “Này con xin vâng” khi Thiên Chúa cần để thực thi Thánh ư của Ngài ? Trong tâm t́nh những ngày cuối của mùa vọng chúng ta thử một lần nh́n thẳng vào chính con người thật của ḿnh và cùng xin Mẹ Maria phù trợ để biết nói lên lời xin vâng như Mẹ trong mọi hoàn cảnh. Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin cho chúng con biết lắng nghe tiếng Chúa trong từng biến cố của cuộc sống, và biết xin vâng như Mẹ Maria đă xin vâng trong suốt cả cuộc đời. Amen.
VỚI THIÊN CHÚA, KHÔNG CÓ G̀ LÀ
KHÔNG THỂ
Chào mừng Gabriel trở lại. Quư vị nhớ rằng thiên thần Gabriel trước đây đă đến với Dacaria để loan báo cho ông biết ông và vợ sẽ sinh Gioan Tẩy Giả, người sẽ đi trước Đức Kitô. Giờ đây ngài lại được sai đến với đức Maria để loan tin về sự sinh hạ của Đức Giêsu. Những câu chuyện này nằm trong một phần của Tin mừng Luca, được gọi là “Tin mừng thời thơ ấu” (1,5-2,52). Những câu chuyện trong phần này chuẩn bị cho chúng ta đến với cuộc đời của Đức Giêsu. Sự ra đời của Gioan và Đức Giêsu đan lẫn vào nhau. Luca tường thuật chúng bằng một cách thức cho thấy Thiên Chúa đang hành động trong một khoảnh khắc mới trong lịch sử nhân loại. Hăy quay trở lại một chút, v́ bài đọc thứ nhất giúp chúng ta hiểu được những ǵ sẽ diễn ra trong các tŕnh thuật Tin mừng. Khi đọc những bản văn Kinh thánh tôi luôn chú ư xem khi nào những từ “Nhưng” hoặc “Tuy nhiên” xuất hiện trong bản văn. Những từ này thường theo sau việc mô tả sự thiếu thốn và thất bại của con người và là dấu chỉ mà giờ đây Thiên Chúa bước vào thực hiện những ǵ mà tự sức ḿnh con người tự không làm nổi. Quư vị có thể soạn toàn bộ bài giảng ở trong một bản văn nơi từ “Nhưng” xuất hiện – nó báo cho biết, “Hăy sẵn sàng, Thiên Chúa sắp hành động!” Bài đọc thứ nhất của ngày hôm nay là một đoạn văn với một chữ “Nhưng” và những ǵ diễn ra sau đó cho thấy Thiên Chúa can thiệp. Vua Đavit đă xây dựng một cung điện xinh đẹp cho ḿnh và giờ đây lương tâm ông áy náy. Ông nói với ngôn sứ Nathan, “Ông xem, tôi được ở nhà bằng gỗ bá hương, c̣n Ḥm Bia Thiên Chúa th́ ở trong lều vải”. Khi dân Israel hành tŕnh qua sa mạc gian khổ, th́ ḥm bia luôn đồng hành với họ và được lưu giữ trong lều. Lều là dấu Thiên Chúa hiện diện với họ; họ đi đến đâu th́ Thiên Chúa cũng đi đến đó. Lều là nơi Thiên Chúa gặp gỡ dân và là sự đảm bảo về sự hiện diện và bảo vệ của Thiên Chúa. Thiên Chúa cư ngụ trong một túp lều khiêm tốn giữa một dân du cự đang thiếu thốn. Đó chẳng phải là h́nh ảnh diệu kỳ cho Đức Giêsu hay sao? Túp lều của sự hiện diện của Thiên Chúa khiêm tốn đồng hành với chúng ta. Đavít có dự định xây một đền thờ cho Thiên Chúa. Nhưng Đavít là con người của chiến tranh. Con trai của ông, Salomon là người của ḥa b́nh và chính Salomon mới là người xây đền thờ. Chẳng phải hai chữ “Salomon” và “Shalom” (tiếng Hippri có nghĩa là ‘b́nh an’) khá giống nhau đó sao? Trong khi Đavít có những dự định, th́ những kế hoạch của Thiên Chúa c̣n vượt xa những dự định của Đavít. Đây là một bài đọc khác, với một loạt những cụm từ “Ta phán”. Có tới 10 mệnh đề như thế và chúng cho thấy chính Thiên Chúa đang thực hiện, nói đi nói lại, “Ta sẽ….Ta đă…” Thiên Chúa muốn một đên thờ, nhưng không phải được xây bằng đá và hứa ban một triều đại trường tồn cho Salomon và con cháu ông. “Ta sẽ cho ḍng dơi ngươi đứng lên kế vị ngươi… Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền.” Giờ đây chúng ta chuyển qua bài Tin mừng để xem Thiên Chúa làm thế nào để hoàn tất kế hoạch của Chúa: xây một đền thờ hầu cư ngụ trong đó và khiêm tốn đồng hành với dân. Vâng, hôm nay Gabriel đă trở lại. Nhưng chính sự hiện diện và ḷng tin của Đức Maria mới là tiêu điểm chúng ta cần chú ư. Gabriel cất lời chào Maria và báo tin những ǵ Thiên Chúa sẽ làm trong cuộc đời của cô – cô đẹp ḷng Thiên Chúa (“đầy ân sủng”). Như thường xảy ra trong sách thánh, câu chuyện bắt đầu với t́nh yêu bao dung do Thiên Chúa khởi phát. Và rồi cuộc đối thoại bắt đầu. Thiên Chúa chiếu cố đến Maria và cô đáp lại trong tín thác. Cô không cần phải sợ hăi; Thiên Chúa cần ḷng tin của cô. Lời “Xin vâng” của cô làm cho công tŕnh của Thiên Chúa nơi cô được thực hiện. Rồi trọng tâm của sự việc được mở rộng ra như là công tŕnh của Thánh Thần được loan báo. Qua Thánh Thần, Thiên Chúa sẽ xây một ngôi đền mới và vĩnh cửu cho dân. Đoạn mà tôi thích trong câu chuyện này là: “V́ đối với Thiên Chúa, không có ǵ là không thể làm được.” Tin mừng cho thấy rơ điều đó có ư nghĩa như thế nào đối với các môn đệ của Đức Kitô. Điều này bao gồm cả việc nhận lấy thập giá của Người và đi theo Đức Giêsu bằng cách yêu thương và phục vụ tha nhân, đặc biệt là những người khó ưa. Điều này quả là không thể đối với chúng ta, những con người thuần túy. Hôm nay, chúng ta được đức Maria, đấng đă đáp lại những ǵ ḿnh nghe, hướng dẫn “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” Chúng ta cũng thưa “Vâng” với Thiên Chúa và đặt niềm tin tưởng vào những ǵ sứ thần Gabriel nói với chúng ta hôm nay, “V́ đối với Thiên Chúa, không có ǵ là không thể làm được.” Trong câu chuyện này, Maria không hề im lặng. Ḷng tin của cô mạnh mẽ nhưng cô vẫn muốn biết làm thế nào mà những lời của Gabriel có thể thực hiện được. Thần Khí của Thiên Chúa không làm cho chúng ta thành những người đón nhận thụ động trước những ơn lành của Thiên Chúa. Thiên Chúa cũng không khiến chúng ta câm nín trong sứ vụ thầm lặng. Mầu nhiệm thường để lại trong chúng ta nhiều thắc mắc. Câu trả lời của Gabriel dành cho thắc mắc của Maria, “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà” không phải là một lời giải thích cho Maria biết sự việc sẽ xảy ra thế nào, và làm sao có thể thụ thai. Gabriel đưa ra cho Maria một sự cam đoan và lời mời gọi tin tưởng. “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà”. “Ngự xuống” (“phủ bóng”) là dấu hiện diện bảo vệ của Thiên Chúa. Maria chẳng hiểu những lời Gabriel sẽ diễn ra làm sao, nhưng sự ưng thuận trong tin tưởng của cô là những ǵ cần làm. Giờ đây, Thiên Chúa có chốn để thực hiện công tŕnh của Người. Xuyên suốt Tin mừng Luca có nhiều chủ đề “ứng nghiệm” nói đến Đức Kitô như sự ứng nghiệm lời hứa được thực hiện với dân Dothái. V́ thế, Luca mô tả biến cố Truyền tin này như thể khoảnh khắc thành toàn của những lời ngôn sứ xưa; đặc biệt là lời hứa rằng Thiên Chúa sẽ “chọn một nơi” cho dân của Chúa và sẽ thiết lập một “nhà” cho họ và một vương quốc vĩnh cửu. C̣n một tuần nữa chúng ta sẽ đón Giáng sinh. Sự nô nức của mùa này đă bắt đầu từ mấy tuần trước. Nhưng tường thuật của Luca công bố việc sinh hạ của Đức Giêsu với đầy sự kính trọng và b́nh an – dù vẫn c̣n đó những thắc mắc. Hầu hết chúng ta đến tham dự Thánh lễ này trong tâm trạng của những vội vă chuẩn bị cho những ngày này. Luca đúng là một thiên tài thuật truyện và nghe nội dung và cung điệu của biến cố Truyền tin có thể có một ảnh hưởng lặng lẽ trên những bối rối của chúng ta. Hăy đón nhận điều đó và để cho sức mạnh của Lời thực hiện. Hăy lắng nghe sự cam đoan trong đoạn văn và hăy để Thánh Thần “ngự xuống” trên chúng ta để mang lại đời sống mới, trong những nơi mà ở đó chúng ta loạng choạng hay cảm thấy trống vắng. Đàng sau mỗi câu chuyện Kinh thánh, thường là sau những từ “Nhưng” hay “Tuy nhiên”, chúng ta khám phá ra một Thiên Chúa của ân sủng. Ân sủng đến như một món quà v́ công trạng của con người không thể đạt được hay đáng được như thế. Niềm tin mà câu chuyện Truyền tin mời gọi chúng ta thực hiện th́ có trong chính đoạn văn, “V́ đối với Thiên Chúa, không có ǵ là không thể làm được.” Vậy đâu là điều mà chúng ta gắn nhăn “không thể” trong cuộc sống của chúng ta? Chúng ta có dành chỗ cho Thiên Chúa nói chữ “Nhưng” của ân sủng cho chúng ta và dành chỗ cho Thiên Chúa đến với sức mạnh để giúp chúng ta hay không? Luca, qua Tin mừng của ḿnh, tiếp tục kể hết chuyện này đến chuyện khác về ân sủng của Thiên Chúa được bày tỏ qua lời nói và hành động của Đức Kitô. Và rồi khi câu chuyện ra như kết thúc tại ngôi mộ và thất bại, th́ Thiên Chúa lại nói một chữ “Nhưng” và nâng Đức Giêsu lên khỏi cơi chết. Câu chuyện bắt đầu với chúng ta trong những ghi nhận Tin mừng thuở ban đầu sẽ được chuyển sang cho các môn đệ trong căn pḥng trên lầu khi cũng một Thánh Thần ban sự sống ấy “rợp bóng” trên các ông. Qua Phép Rửa và Thêm Sức của ḿnh, chúng ta cũng được Thánh Thần phủ bóng và giờ đây chúng ta t́m cách để cho Thánh Thần hoạt động trong đời sống của chúng ta khi chúng ta phục sự Chúa. Khi chúng ta gặp những trở ngại và chán nản trong sứ vụ chúng ta sẽ lại nghe lời vọng của Tin mừng hôm nay: “V́ đối với Thiên Chúa, không có ǵ là không thể làm được.” Lm. Jude Siciliano, OP.
Hăy dành cho Chúa một chỗ trong tâm hồn 2 Sm 1,1-5.8b-12.14a.16; Rm 16,25-27; Lc 1,26-38
Kính thưa quư vị, Ḍng Đa Minh chúng tôi có một bề dày truyền thống về những hoạ sĩ và nhạc sĩ. Những nhà giảng thuyết chúng tôi tiếp cận nghệ thuật như là một cách thức để rao giảng Lời Chúa. Một trong những danh hoạ nổi tiếng và là niềm kiêu hănh của Ḍng là Fra Angelico, một hoạ sĩ của thời kỳ đầu Phục Hưng. Nếu có dịp đến Florence, quư vị nên đến thăm viện bảo tàng San Marco. Nó từng là tu viện của Ḍng Đa Minh trước khi trở thành bảo tàng viện. Fra Angelico sống trong tu viện và sáng tác những bức bích hoạ trong các pḥng của anh em. Chúng phác hoạ những khung cảnh về cuộc đời của Chúa Kitô thật thanh b́nh và sâu lắng. Tin Mừng hôm nay nhắc đến một trong những bức danh hoạ của Fra Angelico, bức Truyền Tin. Bức tranh diễn tả một ngôi nhà rực rỡ ánh sáng. Đức Maria với trang phục giản dị và nét mặt an b́nh. Quang cảnh trong tranh có những tia sáng mặt trời chiếu qua và một thiên thần oai nghi chỉ có thể được mô tả bằng một kỹ thuật phối màu thật tài t́nh. Angelico thực hiện bức bích hoạ tại pḥng của các anh em sinh viên trẻ và tập sinh. Chúng được dùng để khuyến khích cho một đời sống chiêm niệm thinh lặng và học hành. Chỉ cần ngắm nh́n chúng cũng đủ khiến cho các tu sĩ thanh thản hơn và ḷng tràn ngập cảm nghiệm về sự vĩ đại của Thiên Chúa và các thánh của Người. Tuy vậy, bài Tin Mừng này c̣n gợi lên những khía cạnh nhân bản hơn và ta có thể nói là rất “hiện thực” của mầu nhiệm này. Đa phần cuộc đời không có nhiều thời gian để lắng đọng, ngay cả một khoảnh khắc suy tư về những chi tiết trong câu chuyện hôm nay cho thấy điều này cũng đúng với Đức Maria. Có vài chỗ trong tŕnh thuật này có thể dễ dàng bị lướt qua nhưng chúng ta nên dừng lại và suy gẫm. Chẳng hạn, lời giới thiệu nghe có vẻ b́nh thường và c̣n khá kỳ hoặc. Một thiên sứ được phái tới “một thành miền Galilê tên là Nazareth”. Chắc hẳn là ta đă quen thấy câu chuyện này được tái hiện trong hội hoạ và trên những tấm bưu thiếp đến nỗi cảm tưởng đây là một ngôi làng thôn dă được bao bọc trong một vùng đồng cỏ nên thơ. Nhưng Galilê là một vùng đất không hề b́nh yên, đó là một chốn đầy dẫy bất ổn. 90% dân số là những nông dân bị áp bức. Có những cuộc nổi dậy, chủ nghĩa dân tộc trong vùng và nhiều phong trào cách mạng đă nổ ra ở đây. Đối với chính quyền Rôma và các lănh đạo tôn giáo ở Giêrusalem, người dân Galilê rất đáng khả nghi. Họ đấu tranh đ̣i tự do và bị đàn áp dă man. Đó là nơi mà Thiên Chúa đă chọn và sai thiên sứ đến, để loan báo một thiếu nữ Do Thái sẽ sinh ra Đấng Cứu Thế. Đức Giêsu là một người Galilê. Cách thức phác hoạ hay thuật lại về Đức Maria có thể làm tách biệt ngài ra khỏi cuộc sống thường ngày của chúng ta. Dường như ngài đến từ một thế giới khác và không bị chi phối bởi cùng những trải nghiệm sống, những giằng co và những vấn nạn như hết thảy chúng ta. Tôi c̣n nhớ một kiểu cầu nguyện học đường như sau, “Lạy Đức Mẹ kiều diễm trong trang phục xanh, xin hăy dạy chúng con cầu nguyện.” Chuyện đó chỉ hợp với trẻ con thôi. Cầu nguyện theo kiểu ấy, Đức Maria được diễn tả trong những bức tranh và trong các h́nh thức sùng kính như thế có thể làm cho những thiếu phụ và các bà mẹ (cả những đàn ông chúng ta nữa!) cảm thấy ḿnh rất khác biệt, thậm chí xa cách ngài và cuộc đời của ngài. Chúng ta hăy đọc kỹ đoạn Tin Mừng hơn. Thánh Luca chép rằng, “nhưng bà rất bối rối và không biết lời chào như vậy có nghĩa ǵ.” Thiên sứ lại trấn an ngài, “Maria, xin đừng sợ.” – bà ắt hẳn là rất lo sợ. Trong thế giới phức tạp ở xứ Galile, một nơi đầy xung đột và đấu tranh, lời đáp trả của cá nhân Đức Maria bày tỏ sự bối rối và nghi nan. Khi ấy, Đức Maria vẫn không hề có có một định hướng nào cho tương lai, cũng như tất cả những nghi vấn của ngài đă không được giải đáp, và chúng ta cũng thế thôi. Đức Maria đă dành chỗ cho Chúa trong đời của ḿnh. Ngài và các thánh giống chúng ta nhiều hơn là những ǵ mà mỹ thuật và văn chương miêu tả. Họ là những con người rất b́nh thường và chính ở giữa những con người ấy, với tất cả những giới hạn của họ mà Thiên Chúa muốn cư ngụ - nghĩa là Người muốn ở giữa những con người dẫu c̣n đó những khó khăn và nghi nan, vẫn có thể thưa với Chúa lời “Xin vâng”. Thánh Kinh cho thấy Thiên Chúa muốn hiện diện nhiều hơn trong cuộc đời c̣n lắm bề bộn và ngổn ngang của ta. Ngài sẽ ngụ nơi đâu? Nếu như Galilê là nơi Chúa muốn nhập thể giữa những con người đang phải vật lộn với cuộc sống, những người đang bị gặp lo âu, những kẻ suy tư về những ǵ đang xảy đến, những người gặp nghi vấn và không có câu trả lời ngay. Nói cách khác, Thiên Chúa muốn nhập thể trong “những chốn Galilê” của chúng ta, nơi ta có thể nói lời “Xin vâng” và đón rước Người vào – dẫu chúng ta c̣n đó nhiều vấn nạn. Thiên Chúa muốn nhập thể ở những nơi không thuộc về chúng ta, nơi chúng ta đối mặt với những cám dỗ riêng tư và những rắc rối, nơi có những sợ hăi và bất ổn, và giới hạn mà con người mong muốn vượt qua. Đặc biệt, Thiên Chúa muốn làm người tại những “vùng Galilê khác”, nơi chúng ta phục vụ tha nhân trong đau khổ, những người bị hốt hoảng, tranh giành, buồn rầu, đói khát và nghèo đói. Ngày nay, trong những “nơi Galilê” đó, chúng ta cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến đầy ḷng chúng con.” Đức Maria là một phụ nữ Galilê và là khuôn mẫu cho chúng ta ngày nay. Cùng với Mẹ, chúng ta hăy thưa lời “Xin vâng” với Thiên Chúa, để Người lại có thể nhập thể trong ḷng chúng ta.
| |