Năm A

 
 


Chúa Nhật VI Phục Sinh - Năm A

Cv 8,5-8.14-17 / 1Pr 3,15-18 / Ga 14,15-21

 

An Phong op : Cùng Chúa Giêsu Xây Dựng Cuộc Ðời Yêu Thương

Như Hạ op : Chứng từ Hy vọng

Fr. Jude Sicilianô, op : Lời Hứa Đấng Phù Trợ

Fr. Jude Sicilianô, op : Dọn lòng đón nhận Thánh Thần

G. Nguyễn Cao Luật op : Tuân giữ các lệnh truyền

Giacôbê Phạm Văn Phượng op : Yêu người là yêu Chúa

Giuse Lê Xuân Hiệp op : Ai yêu mến Thày, sẽ được Cha Thày yêu mến

Đỗ Lực op : Buồn Ơi, Chào Mi !

Fr. Jude Siciliano, op : Hãy sẵn sàng trả lời về niềm hy vọng

Fr. Jude Siciliano, op: Hãy trở thành "Kitô hữu chính danh"

 


An Phong op

Cùng Chúa Giêsu Xây Dựng Cuộc Ðời Yêu Thương
Ga 14,15-21

Một lời tâm sự đôi khi lại là một đòi hỏi phải được thực hiện vì tình yêu. Lời Chúa Giêsu : "Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em hãy giữ các giới răn của Thầy" là một tâm sự như thế. Nó còn có nghĩa là "Nếu anh em gắn bó với Thầy, đồng cảm với Thầy, anh em hãy tin và đón nhận Thầy; đồng thời hãy tin yêu và chấp nhận anh chị em mình, vì đây là giới răn trọng nhất". "Giới răn của Thầy là anh em hãy yêu mến nhau" (Ga 13,34). Kitô giáo có hai giới răn quan trọng nhất là "mến Chúa" và "yêu người", "giới răn Tình Yêu".

Tình yêu ở đây không phải chỉ là một tình cảm thoáng qua, nhưng là động lực chính yếu chi phối đời sống Kitô giáo, một lối sống, một cách suy nghĩ mang tính cách Kitô giáo. Lối cư xử Kitô giáo không gì khác hơn là cư xử với lòng bao dung, với tình yêu thương.

Tình yêu này hoán cải cuộc đời, mang lại sức sống và niềm vui, mong muốn điều tốt đẹp cho người khác.

"Ðem yêu thương vào nơi oán thù

Ðem thứ tha vào nơi lăng nhục

Đem an hòa vào nơi tranh chấp

Ðem chân lý vào chốn lỗi lầm.

Ðem tin kính vào nơi nghi nan

Ðem trông cậy vào nơi thất vọng

Ðem ánh sáng vào nơi tối tăm,

Ðem ủi an đến chốn u sầu".

Giới răn tình yêu chỉ có thể học được bằng cách thực hành chính giới răn đó, và đó là bằng chứng "anh em gắn bó với Thầy", là điều kiện "anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em".

Phải chăng tôi đang gắn bó với Chúa Giêsu bằng tình yêu đối với anh chị em mình ? Phải chăng tôi đang đồng cảm sâu sắc trong suy nghĩ, trong ước muốn với Chúa Giêsu ? Phải chăng tôi đang xây dựng một xã hội mà luật căn bản chính là yêu thương ?

Lạy Chúa Giêsu,
Chúa quá biết rồi, yêu thương không phải là dễ.
Chính Chúa đã yêu thương
và Chúa đã chịu "hậu quả" của tình yêu :
Chết treo trên cây thập giá.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa để lại cho chúng con một giới răn thôi,
giới răn của tình yêu.
Nhưng chỉ một giới răn đó thôi chúng con cũng không làm nổi.

Xin Chúa đổ xuống trên chúng con tình yêu của Chúa
tình yêu lớn lao trong tấm bánh nhỏ bé này.
Ðể chúng con không sợ yêu,
không lùi bước trước những thách đố của tình yêu
để chúng con được "ở trong Chúa"
và "Chúa ở trong chúng con".


Như Hạ op

CHỨNG TỪ HI VỌNG
Ga 14:15-21

Hơn lúc nào thế giới cần đến niềm hi vọng. Nhưng ai có thể đem lại niềm hi vọng cho nhân loại ? Câu trả lời sẽ được tìm thấy trong lời Chúa hôm nay.

TẠI SAO HI VỌNG ?

Giữa những bấp bênh của cuộc sống hôm nay, con người trải qua nhiều nỗi thất vọng khác nhau. Càng thất vọng, con người càng không tìm được lẽ sống và không biết bám víu vào đâu. Hôm nay, Ðức Giêsu mạc khải lẽ sống chính là sự sống Ba Ngôi Thiên Chúa trong tâm hồn tín hữu. Ðó là câu "trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hi vọng của anh em." (1 Pr 3:15) Rất huyền nhiệm và rất xác thực !

Thật vậy, sở dĩ thế gian đầy dẫy những con người thất vọng vì không có con đường giải thoát. Khắp nơi tràn ngập những gian trá, lừa đảo. Thế gian : gian là thế ! Chính vì thế, "Thần Khí sự thật, Ðấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người." (Ga 14:17) Thế gian sống trong ảo vọng. Không thể tìm thấy niềm hi vọng trong những mớ ảo vọng đó.

Trái lại, niềm hi vọng của người Kitô hữu vững chắc như chính Thần Khí sự thật. Niềm hi vọng đó vô cùng lớn lao, "vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em." (Ga 14:17) Người luôn hiện diện giữa cộng đoàn và trong tâm hồn các tín hữu để bảo vệ họ khỏi nanh vuốt Satan là cha mọi sự dối trá. Bè lũ chúng đang âm mưu kéo sập các cộng đoàn Dân Chúa và cô lập hóa các Kitô hữu.

Nhưng Ðức Giêsu đã hứa : "Thầy sẽ không để anh em mồ côi." (Ga 14:18) Cho dù kéo bè kéo cánh, kẻ thù vẫn không thể áp đảo các Kitô hữu. Dù bị hất hủi hay phản đối, họ vẫn không cô đơn, vì niềm tin đã khơi lên niềm hi vọng lớn lao trong tâm hồn và cuộc đời họ. Chính những lúc đau khổ và trống vắng nhất là những lúc họ đầy ắp ân sủng. Với nguồn ân sủng lớn lao, "Thầy sẽ đến cùng anh em" (Ga 14:18) để đối phó kịp thời với những âm mưu đen tối. Chính tình yêu đã thúc đẩy bước chân Người đến với chúng ta.

Chính con mắt đức tin làm cho "anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em sẽ sống" (Ga 14:19) với tất cả niềm vui và tràn đầy hi vọng. Người môn đệ không thể thể sống mà không có Thầy. Sự sống Thầy bảo đảm cho tín hữu không phải rơi vào hố diệt vong. Ai có thể cất mạng sống Thầy ? Ai có thể thể tách lìa họ khỏi Thầy ? Còn sống là còn hi vọng. Ðó là lý do tại sao họ vẫn giữ được niềm hi vọng dù phải sống giữa những hoàn cảnh tuyệt vọng. Các thánh tử đạo là một bằng chứng hùng hồn. Không một lý do tự nhiên nào có thể giải thích nổi những hành vi gan dạ đó. Không phải nhờ ý chí vững mạnh hơn người. Cũng không phải vì cuồng tín. Trái lại, từ cảm nghiệm sâu xa của niềm tin, "anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em." (Ga 14:20) Thế chân vạc đó đủ bảo đảm cho tín hữu sống vững mạnh giữa những chao đảo trong cuộc sống.

Lọt vào tương quan ba chiều đó, người tín hữu sẽ vô cùng bình an và hạnh phúc. Từ nguồn mạch tình yêu đó, Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Ðấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi." (Ga 14:16) Như thế, dưới sự phù trợ của Thánh Linh, người tín hữu sẽ lao mình vào cuộc chiến để dành phần thắng cho Nước Chúa. Ðó là lý do tại sao các môn đệ có thể mạnh mẽ "rao giảng Ðức Kitô" (Cv 8:5) khắp thế giới, bất chấp mọi hiểm nguy.

Nhưng làm sao có thể rao giảng "Ðức Kitô Giêsu, niềm hi vọng của chúng ta" (1 Tm 1:1), nếu người môn đệ không được mạc khải về Người ? Làm sao được mạc khải nếu không đi vào tương quan sâu xa với Ba Ngôi ? Thật vậy, "ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha Thầy yêu mến, Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy." (Ga 14:21) Có cảm nghiệm sâu xa về tình yêu Thiên Chúa như thế, mới có thể rao giảng Tin Mừng của niềm hi vọng cho muôn dân. Khả năng rao giảng bắt nguồn từ chính nỗ lực liên kết với Thầy trong tình yêu. Thật vậy, "ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy." (Ga 14:21) Ðiều răn là mối giây ràng buộc môn đệ với Thầy chí thánh và là chiếc cầu đến với nhân loại. Chính "Thầy đã giữ điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người." (Ga 15:10) Chính vì thế, "thân xác Người đã bị giết chết, nhưng nhờ Thần Khi, Người đã được phục sinh" (1 Pr 3:18) để đem niềm hi vọng cho toàn thể nhân loại và "để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn." (Ga 15:11) Niềm vui chính là dấu chỉ niềm hi vọng tràn ngập tâm hồn. Ðó là lý do tại sao người môn đệ có thể đặt hết niềm tin tưởng và tình yêu nơi Ðức Giêsu Kitô. Quả thực, "lòng tin và lòng mến đó phát xuất từ niềm trông cậy dành cho anh em trên trời, niềm trông cậy anh em đã được nghe loan báo khi lời chân lý là Tin Mừng đến với anh em" (Cl 1:5-6a) như một sức mạnh giải thoát.

NIỀM HI VỌNG HÔM NAY.

Nhân loại đang cần sức mạnh giải thoát đó, vì cơn thất vọng đã tràn ngập khắp nơi. Giáo Hội cũng có trách nhiệm một phần về cơn thất vọng đó, vì đã tạo ra những gương mù cho nhân loại, nhất là cho giới trẻ. Việc Giáo Hội xin lỗi nhân loại đã chứng minh trách nhiệm đó. Vấn đề hôm nay không chỉ dừng lại ở đó. Nhưng Giáo Hội phải đi xa hơn để đem lại niềm hi vọng lớn lao cho nhân loại bù đắp lại những lỗi lầm và mở ra một vận hội mới cho hạnh phúc nhân loại.

Vận hội mới chỉ đến khi "Giáo Hội hết sức góp phần vào việc làm cho gia đình và lịch sử nhân loại ngày càng nhân bản hơn." (ÐGH Gioan Phaolô II : Zenit 30/04/02) Muốn thế, Giáo Hội không thể rời xa niềm tin vào Ðức Giêsu như niềm hi vọng duy nhất của nhân loại và địa vị con người. Quả thực, "rõ ràng vì con người được ban cho một địa vị khác thường, nên không thể giản lược cuộc sống vào những điều kiện xã hội, kinh tế, văn hóa hay chính trị thiếu nhân bản." (ÐGH Gioan Phaolô II : Zenit 30/04/02) Nhân loại càng lâm vào cơn thất vọng bao nhiêu, Giáo Hội càng cần xác tín sứ mệnh "không những truyền thông sự sống Thiên Chúa cho dân chúng, nhưng một cách nào đó còn chiếu giãi ánh sáng phản chiếu đời sống đó trên toàn thể trái đất." (ÐGH Gioan Phaolô II : Zenit 30/04/02) Ðem lại sự sống đó là trả lại niềm hi vọng lớn lao cho nhân loại.

Giáo Hội phải là niềm hi vọng giữa những người mất niêm hi vọng. Giáo Hội "trở nên tiếng nói của những người không tiếng nói, đồng thời phải cho mọi người thấy rằng nhân phẩm luôn phải ở trung tâm mọi chương trình địa phương, quốc gia và quốc tế." (ÐGH Gioan Phaolô II : Zenit 30/04/02) Tiếng nói của Giáo Hội phải là tiếng nói của niềm hi vọng, phát xuất từ tâm hồn đầy ắp tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi và từ "những cộng đoàn Kitô hữu đang sống tình liên đới nhân loại cách sâu xa và chân thành, giàu tính hiệp thông và tình bằng hữu." (ÐGH Gioan Phaolô II : Zenit 30/04/02) Nhưng "thật đáng tiếc, thay vì nhìn Giáo Hội như một nơi tự nhiên có thể gặp gỡ Ðức Kitô, nhiều bạn trẻ thấy Giáo Hội như một thực thể xa lạ, không đáng tin lắm và không có khả năng nói truyện với người thời đại." (Hội Nghị các giám mục Âu Châu : Zenit 30/04/02) Muốn cải tiến, Giáo Hội phải gấp rút coi các bạn trẻ Kitô hữu không phải chỉ như một lãnh vực hay đối tượng đặc biệt của mục vụ, nhưng phải được nhìn nhận và đón nhận như một hồng ân Ðức Kitô ban cho Giáo Hội trong tất cả các sứ mệnh đang thực hiện." (Hội Nghị các giám mục Âu Châu : Zenit 30/04/02)


Fr. Jude Sicilianô, op 

Lời Hứa Đấng Phù Trợ
Ga 14,15-21

Thưa quý vị.

Ở gần nhà tôi là một đôi vợ chồng trí thức. Cả hai đều có nghề nghiệp ổn định. Chồng là luật sư, vợ y tá. Họ sống với nhau đã hơn 40 năm. Vào những dịp kỷ niệm ngày thành hôn, họ thường mua tặng nhau những món quà đắt giá : Vàng, ngọc trai, kim cương ... Ấy là nói lúc sau này khi họ đã giàu có, tài sản rất lớn. Còn khi trước, nghèo khó, họ mua những thứ rẻ tiền hơn, nồi niêu, xoong chảo, vải vóc, đồng hồ đeo tay, lắc bạc… Rồi ông luật sư chết. Người vợ mặc dầu sức khỏe còn rất tốt cũng đột ngột qua đời. Họ là những trí thức, hơn nữa, luật sư, cho nên tờ di chúc được viết rất cẩn thận, chi tiết rõ ràng. Tuy nhiên cả hai lại chẳng nói gì về số vật kỷ niệm ngày cưới của họ, vàng, kim cương, ngọc trai. Một thiếu sót thật đáng tiếc hay họ có chủ ý để như thế ? Hậu quả là các con tranh cãi nhau, đưa nhau ra tòa, mất đoàn kết, mất tình nghĩa anh em.

Chúa Giêsu của bài Tin Mừng hôm nay cũng sắp lìa bỏ thế gian mà về cùng Ðức Chúa Cha. Ngài cũng hết sức lo lắng cho các kẻ Ngài yêu. Nhưng di chúc của Ngài lại khác hẳn những điều thế gian thường làm. Ngài dự kiến trước tương lai cho họ khi Ngài vắng mặt, họ cần được yên ủi, nâng đỡ. Bởi thế gian sẽ ghen ghét họ. Họ cần được khích lệ, khuyên nhủ, bảo đảm, thúc bách. Bởi khó khăn trước mắt sẽ rất lớn, đòi hỏi phải hy sinh thật nhiều, gồm cả tính mạng, tài sản, tương lai, gia đình, họ hàng, cha mẹ… Họ phải gánh chịu những tai họa ghê gớm, không phải vài ba ngày, một tháng, một năm mà hàng nhiều thế kỷ. Cho nên di chúc của Ngài phải làm sao bao trùm được tất cả. Chúng ta, loài người, chẳng thể nghĩ ra được một di chúc thần kỳ như vậy. Tuy thế, Ngài đã thực hiện một cách dễ dàng như xé một tấm vải.

Bài di chúc của Chúa Giêsu hôm nay là một phần của diễn từ cuối cùng. Tuần trước chúng ta đã đọc đoạn đầu. Hôm nay Ngài tỏ lộ ý thức của Ngài về những khó khăn họ sắp phải gánh chịu. Ngài tiếp tục chăm sóc họ, ngay cả khi vắng mặt. Ðây là lời hứa cuối cùng Ngài nói với họ trước khi ra đi. Ngài muốn để lại một kỷ niệm có giá trị thật to lớn. Với kỷ vật này họ không còn phải sợ hãi chi. Tương lai hoàn toàn được bảo đảm. Kỷ vật đó không phải là vàng bạc hoặc tài sản hay hư nát, hoặc điều chi có thể gây nên cãi cọ, tranh giành, mà là một bảo đảm vững chắc cho tương lai. Nó là một kho báu lưu truyền cho mãi tới ngày hôm nay. Không có nó chẳng ai có thể sống tốt lành, thánh thiện, chẳng ai có thể đẹp lòng Thiên Chúa. Kho báu đó giống như một hòn ngọc vô giá. Ai có nó sẽ lung linh sáng ngời, đẹp hơn cả Thiên cung. Ngài giống như một người cha đầy yêu thương lo lắng cho tương lai của những đứa con. Ngài ban cho chúng một kỷ vật luôn nhắc nhớ chúng về sự hiện diện của Ngài, giúp chúng lớn lên và phát triển mặc cho những khó khăn của không gian và thời gian, mặc cho "cửa hỏa ngục" cũng không thắng nổi. Nói đúng hơn, bằng kỷ vật này, Ngài hiện diện với họ một cách khác, cũng chân thực và quyền phép như thời gian hiện tại. Nếu như Ngài là Ðấng bảo trợ, luật sư thứ nhất thì Ngài hứa sẽ ban cho họ luật sư thứ hai, ngang bằng với Ngài. Sau này, họ sẽ gọi là Chúa Thánh Linh.

Nhưng có một điều kiện tối quan trọng để được Ðức Thánh Linh ấy. Ðó là "giữ các giới răn" của Ngài. Ðức Thánh Linh không thể được ban nếu người ta không tuân giữ các giới răn. Theo thói thường, muốn tưởng nhớ đến ai, cái gì, biến cố nào, người ta dựng đài kỷ niệm. Ðài đó bằng đá hoa cương, gạch ngói, sắt thép hay đơn giản như viên đá đầu mộ. Chúa truyền cho các môn đệ nhớ đến Ngài không phải bằng các thứ vật liệu ấy hay ngay cả bằng các thánh đường nguy nga, mà là tuân giữ các giới răn của Ngài. Một đài kỷ niệm sống động và hùng hồn để kính nhớ Ngài, để bày tỏ tình yêu của chúng ta đối với Ngài. Từ đó, Thánh Linh sẽ ngự đến trong linh hồn giúp đỡ chúng ta chu toàn nhiệm vụ làm con cái Thiên Chúa. Vì vậy Ngài gọi Ðức Thánh Linh là Ðấng bảo trợ : "Thày sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Ðấng bảo trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Ðó là thần khí sự thật, Ðấng mà thế gian không thể đón nhận vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Ngài. Còn anh em biết Ngài, vì Ngài luôn ở giữa anh em và ở trong anh em (Ga 14, 16). Bởi lý do đó mà Ngài còn gọi Ðức Thánh Linh là "trạng sư" (advocate).

Trạng sư là người bênh vực, nói thay, biện hộ cho phạm nhân. Ông ta có nhiệm vụ che chở phạm nhân trước tòa án. Nếu phạm nhân thực sự có tội, thì ông xin tòa giảm án với những lý do ông thấy là hợp lý. Tiếng La-tinh gọi là "advocatus", người được triệu đến để làm chứng cớ, đưa ra những bằng chứng rõ ràng hay đứng bên tội nhân để biện hộ. Tác giả Raymond Brown còn nói đến một nhiệm vụ khác của trạng sư là an ủi, nâng đỡ tội nhân. Bởi lẽ lúc ấy tội nhân thường bị lẻ loi, cô đơn, chịu đựng đau khổ một mình. Phúc âm thánh Gioan nhấn mạnh khía cạnh này của Ðấng làm trạng sư. Ngài giống như Chúa Giêsu, an ủi, khích lệ các Tông đồ. Tiếng Hy lạp gọi là paraclete. Khi Chúa Giêsu vắng mặt thì Ngài thay thế. Tác giả Brown nói Ngài chỉ hiện diện nơi các Môn đệ khi Chúa Giêsu đã ra đi.

Ða phần tín hữu bình dân giữ một cái nhìn thô thiển về Thiên Chúa. Họ coi Ngài như một ông thần xa vời, đầy quyền uy và sợ hãi, điều khiển muôn loài muôn vật từ nơi cao sang. Thiên Chúa này là nhà lập luật nghiêm khắc đồng thời là Ðấng cầm cân nảy mực, canh chừng mọi người phải sống đúng những tiêu chuẩn Ngài đã chỉ định. Nếu không, những hình phạt ghê gớm đang đón đợi ở phía bên kia thế giới, hoặc ngay cả ở đời tạm này ! Vô tình họ cũng gán cho Chúa Giêsu một vai trò không mấy đầy đủ : Trạng sư biện hộ cho những lỗi lầm của chúng ta trước một Thiên Chúa sẵn sàng giận dữ. Như thế Thiên Chúa Ngôi Cha và Thiên Chúa Ngôi Con giống như một cặp cảnh sát tốt bụng và xấu bụng. Chúa Giêsu chịu chết và sống lại để cứu chuộc tội nhân là cảnh sát tốt bụng. Ngài dùng lời ngọt ngào khuyên nhủ chúng ta thay đổi cuộc sống xấu xa. Nếu không, chúng ta sẽ bị ông cảnh sát xấu bụng là rầy, hò hét, đập bàn, quăng ghế để ép buộc chúng ta phải sống tốt lành hơn. Với não trạng như vậy Chúa Giêsu là trạng sư nhân ái trước Ngai tòa Thiên Chúa. Khi vị trạng sư này vắng mặt, Chúa Thánh Linh là Ðấng bảo trợ thay thế và Ngài cũng giữ vai trò cảnh sát tốt bụng. Hậu quả là chúng ta sẽ cầu xin Thiên Chúa, theo kiểu cách chúng ta suy nghĩ về Ngài. Ngay trong cộng đoàn này, nhiều tín hữu vẫn mường tượng và nguyện cầu theo lối đó.

Cần phải thay đổi cách nhìn. Theo Phúc âm thánh Gioan, nhất là bài diễn từ cuối cùng, Chúa Giêsu hứa ban Thánh Thần để đưa chúng ta vào hợp nhất với Thiên Chúa, không phải bằng sợ hãi, nhưng bằng tình yêu, không phải bằng lề luật, hình phạt, nhưng bằng ơn thánh, phúc trường sinh. Chúa Giêsu gởi trạng sư của Ngài đến không phải để giãi bày tình huống của chúng ta trước tôn nhan Thiên Chúa cho bằng mặc khải chương trình yêu thương của Ngài cho nhân loại, giúp chúng ta thương yêu người khác, như Ngài đã thương yêu họ. Ðấng bảo trợ sẽ khuyên nhủ, ban khả năng cho chúng ta để có thể thi hành điều Chúa Giêsu đã nói với các Môn đệ : "Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hãy tuân giữ những điều Thày truyền dạy." Ðiều Ngài truyền dạy là chúng ta phải yêu thương nhau. Ngài làm gương trước bằng hành động rửa chân cho các Tông đồ và ban chính sự sống của Ngài là giá chuộc tội nhân loại. Tình yêu này đòi hỏi một tấm lòng bao la, một tâm trí mở rộng vô biên và một sự dấn thân bền bỉ không mệt mỏi. Nhưng các Tông đồ không luôn có Chúa Giêsu để chỉ dạy phải sống thế nào bằng tình yêu của Ngài trong những hoàn cảnh phức tạp, thì Ngài sai Thánh Thần để nhắc nhở đến cách đối xử của Ngài và những lời Ngài đã dạy bảo. Như vậy họ luôn trung thành với đường lối thánh thiện của Ngài. Họ không cần phải dựa vào trí nhớ hạn hẹp của mình, Thánh Thần sẽ đứng bên cạnh họ, chỉ bảo họ trong những tình huống mới mẻ mà họ phải đối mặt. Nếu họ luôn tuân giữ các giới răn của Chúa Giêsu, chắc chắn Ðấng bảo trợ chẳng bao giờ rời bỏ, trái lại bảo đảm với họ là Thiên Chúa luôn lắng nghe, ngay cả khi họ kêu xin nửa lời vì mệt mỏi, vì tội lỗi.

Ngày nay, nhiều Giáo hội địa phương đang phải quằn quại vì gương xấu của hàng giáo sĩ thì nhu cầu Ðức Thánh Linh lại càng rõ nét. Chúng ta cần Ngài để lấy lại lòng tin, lòng cậy của mình. Chúa Giêsu đã gọi Ðức Thánh Linh là "Thần khí sự thật". Trong Thần khí này, chúng ta đang vật lộn để tìm ra lối đi, hướng phải bước tới trong khi thời sự các cộng đoàn là cả một đêm tối mịt mù, mối bòng bong rắm rối. Nhiều tín hữu đã tuyên bố bỏ đạo, mất tin tưởng vào Hội Thánh, thì vai trò của Thánh Linh càng cần thiết hơn để cứu vớt những Giáo hội này, linh hồn này. Chúng ta hãy tha thiết kêu cầu sự hiện diện của Ngôi Ba Thiên Chúa trên bàn thờ này, trên những lễ vật hôm nay, để Ngài biến đổi chúng thành bánh rượu hằng sống nuôi dưỡng cộng đoàn ốm yếu của chúng ta. Chúng ta cũng kêu xin "Thần khí sự thật" xuống trên hội thánh các địa phương để biến đổi chúng thành thân thể nhiệm mầu và thánh thiện Chúa Kitô. Mặc dù, chưa hoàn toàn trung thành với các giới răn Chúa và còn đang đấu tranh để hàn gắn những lỗi lầm quá khứ và hiện tại, chúng ta can đảm đối mặt với sự thật và quyết định những thay đổi cần thiết trong các Giáo hội đang cần sự đổi thay.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, hầu như mọi lời của Chúa Giêsu là không bỏ chúng ta một mình : "Ðấng Phù trợ khác luôn ở với chúng con luôn mãi, … chúng con ở trong Thày, và Thày ở trong chúng con, … Ta sẽ tỏ mình ra cho người ấy…" v.v. Ðó là những lời khích lệ, là căn bản của kẻ sắp ra đi, chúng biểu lộ ý muốn tha thiết của Chúa Giêsu, không lẽ chúng ta lại chịu mất tin tưởng ? Riêng phần tôi, tôi hằng tâm niệm rằng dù có thế nào đi nữa, dù vết thương của Giáo hội có tệ hại mấy đi nữa, thì Chúa Giêsu không bao giờ để chúng ta mồ côi. Amen. Alleluia.


Fr. Jude Sicilianô, op

Dọn lòng đón nhận Thánh Thần
Ga 14,15-21

Thưa quý vị,

Sách Tông đồ Công vụ là cuốn Kinh thánh kể lại hoạt động của các Tông đồ sau khi Chúa Giêsu lên trời. Bài đọc I hôm nay cho thấy các hoạt động của Phi-líp-phê, Phêrô và Gioan tại niềm đất Samaria, ngoài ranh giới Giêrusalem và Giuđêa. Như vậy, rõ ràng cuốn sách mang đúng tên người ta đặt cho. Việc rao giảng Chúa sống lại ở Samaria có phần khác với trong đất thuần Do thái, bởi Samaria vẫn bị người Do thái chính thống coi là không bao giờ được dự phần vào ơn cứu rỗi. Nhưng ba nhà truyền giáo Philípphê, Phêrô và Gioan đã chia sẻ với họ ơn Chúa sống lại. Bằng lời nói và hành động, các ông đã làm chứng Chúa Giêsu vẫn còn đang sống và hoạt động cùng với các ông. Thực tế, họ đang làm công việc mà Chúa đã thực hiện trước khi Người chịu đóng đinh. Đó là chữa lành các bệnh tật, cho kẻ chết sống lại, kẻ què đi được, người mù thấy được, xua trừ thần ô uế, cho những kẻ phong cùi được sạch. Tóm lại, các ông thi ân giáng phúc cho những ai bất hạnh trong xã hội như Chúa Giêsu đã từng làm khi Người còn đi lại trên đất Palestin. Bài đọc cố tình bỏ qua chi tiết ông Simon phù thuỷ vì lý do phụng vụ. Chi tiết này quan trọng bởi nó cho thấy tính ngay thẳng, bất vụ lợi trong việc phục vụ Thiên Chúa : “Tiền bạc của anh tiêu tan luôn với anh cho rồi, vì anh tưởng có thể lấy tiền bạc mà mua ân huệ của Thiên Chúa chăng ?” (8, 29) Liệu ngày nay chúng ta có được tinh thần thẳng thắn như Phêrô không ? Hay cũng huờ theo thói tục thế gian, bắt chước Simon phù thuỷ mà cầu cạnh ân huệ Thiên Chúa bằng bổng lộc tiền tài ? Nếu vậy, xin cũng noi gương Simon mà ăn năn sám hối : “Xin hai ông cầu cùng Chúa cho tôi, để không điều nào trong những điều các ông đã nói giáng xuống trên tôi.”

Tuy nhiên, cuốn sách không nguyên tập trung vào các Tông đồ. Chủ tâm chính yếu của thánh Luca là bày tỏ sự hiện diện năng động của Chúa Thánh Thần qua sinh hoạt của các môn đệ Chúa Giêsu. Chúa Thánh Linh làm tăng trưởng Giáo hội một cách ngoạn mục qua các Tông đồ. Vì vậy, thánh nhân luôn lưu tâm ghi nhớ số lượng tín hữu mà Hội thánh gặt hái trong quá trình rao giảng khắp nơi. Sự trở lại của cư dân Samaria chứng tỏ tính phổ quát của Giáo hội Chúa và sứ vụ mà Ngài trao cho Tông đồ đang được thực hiện tốt đẹp. Sứ vụ này kéo dài mãi đến hôm nay và tiếp tục tới tận cùng thời gian. Nó không thuộc về tính quốc gia, dân tộc, màu da, ngôn ngữ hay cấp bậc xã hội. ngược lại, bài đọc cho thấy, bất cứ người nào lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa đều là thành phần của Giáo hội, họ sẽ được Thần khí Chúa Giêsu chấp nhận qua bí tích Rửa tội và Thêm sức. Họ là thành viên đầy đủ của cộng đoàn mới, dân tư tế của Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý. Vậy thì, chúng ta hãnh diện và được an ủi khi tham dự các buổi phụng vụ. Vì chúng ta ôm ấp những thứ mà trên thế giới là nhân tố chia rẽ : Cấp bậc xã hội, kỳ thị màu da tiếng nói, giàu nghèo sang hèn, giới tính, tuổi tác, bệnh tật, tài năng, tiếng tăm, . . .

Cho nên, chúng ta tự hỏi tình hình thực tế địa phương chúng ta nói lên điều chi ? Có đúng Thần khí Chúa đang tụ họp tín hữu như thời các Tông đồ không ? Câu trả lời là tính cực, khi nhìn vào tính đại đồng của cộng đoàn và những bí tích chúng ta nhận lãnh hằng ngày : Rửa tội, Thêm sức, Chữa lành bệnh nhân, rao giảng, Thánh thể, . . . Như vậy, sách Tông đồ công vụ là phúc âm của Chúa Thánh Thần và mỗi tín hữu chân chính là một sách Tin mừng mở ra, nhờ vào các hoạt động Ngài thực hiện nơi chúng ta. Dân ngoại sẽ nhận biết công việc của Ngài do đời sống Chúa Giêsu được trình bày nơi các tín hữu nhiệt thành. Họ sẽ được chào đón, nhập vào cộng đoàn những “kẻ được rửa tội nhân danh Đức Giêsu Kitô.” Nếu không hoặc cảm thấy như thành viên hạng hai thì lúc ấy, chúng ta đã rõ ràng thất bại, không hoạt động với Chúa Thánh Thần giống như Ngài đã thúc đẩy các Tông đồ rao giảng trên đất Samaria. Chúng ta xấu hổ, có lỗi với Hội thánh toàn cầu, phải thật lòng thống hối vì không làm tròn phận sự.

Thơ Phêrô được viết để an ủi giáo dân đang chịu bách hại khủng khiếp thời hoàng đế Domitian. (Thực ra, thánh Phêrô đã lãnh phúc tử đạo ở Rôma năm 64, thơ này viết khoảng năm 80-90 chỉ lấy danh hiệu và uy tín của ngài mà thôi). Nội dung thơ cho hay, đây không phải là cuộc bách hại tổng quát, nhưng chỉ có tính địa phương, do lòng thù ghét riêng tư ; nói cách khác, do nếp sống thánh thiện của những kẻ tin vào Chúa Kitô, mà thiên hạ ghanh ghét họ, đưa ra đàm tiếu và loại trừ. Xin nhớ lời hộ giáo của các thánh giáo phụ : “Nếu mang danh Kitô hữu là một tội, thì họ lấy chứng cớ nào mà bắt bớ các tín hữu ?” Hay nói như tác giả thư thánh Phêrô : “Hãy giữ lương tâm ngay thẳng, khiến những kẻ phỉ báng anh em vì anh em ngay thẳng trong Chúa Kitô thì chính họ phải xấu hổ vì những điều họ vu khống ?”

Mới đây, tôi có mặt trong một nhóm học hỏi Kinh thánh. Chúng tôi suy tư về đoạn Kinh thánh hôm nay, một thành viên buột miệng phát biểu về chữ “chịu khổ”. Anh nói thao thao bất tận về những thánh giá Chúa gửi cho chúng ta. Trong khi nghe, tôi trộm nghĩ : “Thiên Chúa ghê gớm thật, giáng hoạ trên con người, bắt con người phải chịu khổ.” Có phải đó là những thánh giá mà Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta gánh vác không ? Thơ thánh Phêrô trả lời : “Chúng ta chịu khổ vì việc lành.” Đấy là thứ thánh giá các tín hữu vác hằng ngày để theo Chúa Giêsu. Mến Chúa yêu người, chúng ta phải trả giá. Những ai từ chối thánh giá, tìm kiếm sung sướng xác thịt không chứng minh được mình yêu mến Thiên Chúa. Họ giữ đạo bằng miệng lưỡi và là kẻ giả hình. Chúa chịu thương khó, bởi vì mang trong thận phận mình “gánh tội trần gian”. Nói cách khác, là thành phần nhân loại nên theo pháp lý, Ngài là tội nhân trước mặt Chúa Cha, do đó phải chịu hình phạt của pháp luật. Trái lại, chúng ta tìm cách trốn tránh gian khổ thì làm thế nào xứng đáng làm môn đệ Chúa Giêsu ?

Cho nên, chúng ta chịu khổ vì việc lành, cũng như Chúa Giêsu chịu nạn vì tội lỗi nhân loại. Chúng ta phải sẵn sàng trả lẽ cho hy vọng của mình. Thay vì đối đầu với những sự dữ kẻ thù gây nên, chúng ta dồn tâm lực vào Chúa Giêsu, (Hãy tôn Người làm Chúa ngự trị trong linh hồn anh em) và giãi bày đức tin của mình hiền hoà cung kính, ngõ hầu thiên hạ nhận ra đức tin đó không phải của loài người mà là một ân huệ từ trời cao. Thời buổi ngày nay, các tranh cãi về tôn giáo dễ đưa đến những đổ vỡ, bên trong cũng như bên ngoài, nhiều khi là bạo lực, chiến tranh. Xem bản đồ thế giới, người ta phải rùng mình vì chia rẽ tôn giáo. Có lúc, những người cùng ngồi ghế nhà thờ lại là các đối thủ không đội trời chung vì ý kiến luân lý, đạo đức. Tuy nhiên, thư thánh Phêrô nhắc nhở : “Đấng công chính đã chết cho kẻ bất lương, hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa.” Kẻ bất lương đó chính là nhân loại. Cho nên, chúng ta được hưởng ân huệ hoà giải với Thiên Chúa là do Đức Giêsu Kitô.

Hôm nay, chúng ta mừng sự kiện hoà giải trong bí tích Thánh thể. Bí tích đem lại ơn lành đích thực qua hoạt động phá vỡ mọi bức tướng ngăn cách của Chúa Thánh Thần. Vừa qua, tôi hân hạnh được một cha xứ lân cận mời giảng tĩnh tâm cho các giáo dân, nhân dịp mùa chay. Khi chờ đợi, tôi đứng nói chuyện với một người đàn ông ở phòng mặc áo. Chúng tôi đứng gần một giỏ đựng rác. Trong giỏ, đầy những tờ rơi dư thừa. Chúng bàn về mọi đề tài tôn giáo và nhiều ít liên quan đến đức tin. Thí dụ, ngừa thai, phá thai, nghiên cứu tế bào gốc, bệnh Alzheimer, đồng tính luyến ái, chết êm dịu, án tử hình, v. v. Chúng tôi bàn bạc sơ qua một vài đề tài. Người đàn ông bốc ra một nắm giấy, đưa tôi xem và nói : “Thưa cha, thời con còn học ở trung học cơ sở làm chi có những chuyện như thế này.” Đúng vậy, nhưng bây giờ, chúng ta phải đối mặt với chúng trong cuộc sống hằng ngày. Người tín hữu không thể tránh né. Ngược lại, nên chấp nhận và bàn bạc với những người khác, bất cứ ai, để làm cho vấn đề được sáng tỏ, nhân loại có một tương lai nhân bản hơn, tươi sáng hơn. Dĩ nhiên, đôi khi có những bế tắc vì bất đồng ý kiến, thí dụ : tránh thai, ngừa thai nhân tạo. Lúc ấy, chúng ta cảm thấy cô đơn vì niềm tin của mình.

Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống đã gần kề. Quý vị có thể đoan chắc như vậy, bởi vì các bài đọc Kinh thánh năng nhắc đến Thần khí Đức Kitô và các công việc của Ngài giữa lòng Giáo hội. Tức những việc lạ lùng vượt quá khả năng con người có thể thực hiện. Bài đọc Phúc âm cho chúng ta hay nỗi lo lắng của Chúa Giêsu về số phận của các môn đệ. Liệu sau khi Ngài ra đi, họ còn thương yêu đoàn kết với nhau hay không ? Họ còn can đảm sống những điều Chúa truyền dạy hay không ? Giống như các bậc cha mẹ tốt lành, Ngài thu xếp để họ ý thức sự hiện diện thể lý của Ngài không phải là tối quan trọng. Trái lại, sự có mặt tinh thần, bên trong mỗi tâm hồn, còn quý giá hơn nhiều. Sống thời Tin mừng là điều may mắn, biết Chúa Giêsu theo phần xác thịt là điều hạnh phúc. Nhưng sống thân mật với Chúa Giêsu trong tinh thần còn hệ trọng hơn. Thánh Phaolô cũng phát biểu tương tự : “Vì thế, từ đây chúng tôi không còn biết một ai theo quan điểm loài người. Và cho dù, chúng tôi được biết Đức Kitô theo quan điểm loài người, thì giờ đây, chúng tôi không còn biết Người như vậy nữa.” (2 Cr 5, 16) Cho nên, Chúa Giêsu hứa ban Thánh thần xuống trên họ : “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng bảo trợ khác đến ở với anh em luôn mãi.” Nhưng điều kiện để họ nhận được Thánh thần là tuân giữ lời Ngài : “Nếu anh em yêu mến Thầy thì anh em tuân giữ các điều răn của Thầy.”

Không hiểu ngày nay còn người tín hữu nào, kể cả tu sĩ, giáo sĩ lưu tâm đến điều kiện của Chúa Giêsu để nhận được Thánh linh ? Người ta năng nói đến Thánh linh, những hành động của Ngài một cách độc lập với lệnh truyền của Chúa Giêsu. Đúng là một sai lầm. Thánh linh chỉ được ban, nếu chúng ta tuân giữ lời Chúa Giêsu. Ngoài ra là một thứ Thánh linh tưởng tượng. Cộng đoàn chúng ta muốn nhận được nhiều Thánh linh, thì điều kiện tiên quyết là tuân giữ giới răn Chúa cho cặn kẽ. Buông lỏng kỷ luật, buông lỏng lệnh Chúa truyền mà mong ước được nhiều Thánh linh là điều vô lý. Điểm thứ hai cần lưu tâm là Chúa Giêsu huấn thị cho các môn đệ tuân giữ “các giới răn của Thầy” chứ không phải của người khác hay giới răn chung chung. Bởi lẽ, trong Do thái giáo, đã có mười điều răn hướng dẫn con cái Israel ăn ở phụng thờ Thiên Chúa. Nhưng lúc này, họ đã trở thành môn đệ Chúa Giêsu, tâm trí họ phải hoàn toàn thuộc về Ngài. Ngài làm chủ tâm trí họ, tức toàn thể con người, cho nên, Ngài đặt một điều kiện : Nếu anh em yêu mến Thầy.

Các môn đệ sẽ minh chứng tình yêu đối với Chúa Giêsu bằng một đời sống tuân theo những gì Ngài truyền dạy. Tức sống như Ngài đã sống : yêu thương kẻ thù, làm ơn cho những người ghen ghét, chữa lành bệnh nhân, nâng đờ người nghèo khổ, đón nhận anh em ngoại giáo như bài đọc 1 nói về Philípphê, Phêrô và Gioan đón nhận dân cư Samaria, rửa chân và tha thứ cho nhau. Trước tình hình thế giới ngày nay, vấn đề trở nên nhiêu khê, bởi nhân loại không còn đơn sơ, mông muội như trước nữa. Chúng ta không chỉ làm điều thiện nhân danh Chúa Giêsu, mà còn phải với ý chí sắt đá, tinh thần luôn canh tân thì mới có khả năng bền vững trong các giới răn của ngài. Sự sa sút luân lý trên thế giới đòi hỏi nỗ lực vượt bậc để có thể kiên trì trong đường lối của Thiên Chúa. Nếp sống tục hoá trong các giáo xứ, tu hội, tu viện cần một lực đối kháng mạnh mẽ để có thể trở về nguồn, về tinh thần khắc khổ của Chúa Giêsu, vác thánh giá hằng ngày mà theo Chúa.

Cho nên, chúng ta cần Thánh linh giúp đỡ để sống trung thành với Chúa Giêsu. Không ai tự nhận sống sai trệnh đường lối Chúa, nhưng thực tế đa phần tín hữu sống xa hoa, lãng phí, chạy theo những tiện nghi vật chất của thế gian. Rất ít người giữ được tinh thần từ bỏ. Chúa Giêsu gọi Thánh linh là Đấng bảo trợ khác. Cũng như Chúa Giêsu là Đấng bảo trợ thứ nhất, Chúa Thánh Thần sẽ là trạng sư nâng đỡ, ủi an, ban phát công nghiệp của Đấng cứu thế cho toàn thể nhân loại, đặc biệt cho Hội thánh và các môn đệ. Mười năm trước đây, nhiều thanh niên trên đất Hoa kỳ yêu thích đeo băng tay có chữ WWJD = What would Jesus do ? = Ở hoàn cảnh này, Chúa Giêsu sẽ làm gì ? Chúng ta chẳng thể sống lại thời các Tông đồ, cũng không cần nuối tiếc những kỷ niệm họ được cùng Chúa đi lại và hoạt động trên đất Palestine. Chúng ta sẽ được toại nguyện nếu thực thi nội dung băng chữ WWJD gợi ý. Chúng ta sẽ là môn đệ đích thực của Chúa. Ngài chẳng để chúng ta mồ côi : Ngài sẽ sai Thánh thần đến với chúng ta, dạy dỗ, an ủi chúng ta. Vì vậy, xin hãy dọn lòng sốt sắng đón nhận điều chân thật Chúa hứa trong ngày Lễ ngũ tuần. Lúc ấy, chúng ta sẽ thấy rõ : “Thầy ở trong Cha, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em. Thầy sẽ tỏ mình ra cho anh em.” Như vậy, niềm vui Phục sinh của chúng ta thật trọn vẹn. Amen. Alleluia.


G. Nguyễn Cao Luật op

Tuân giữ các lệnh truyền
Ga 14,15-21

Tương giao mới trong Thần Khí

Những ngày trước lễ Thăng Thiên, phụng vụ sử dụng một bản văn thuật lại những lời nói của Ðức Giêsu khi Người loan báo cuộc Khổ Nạn, tức là cuộc Ra đi của Người. Ðiểm kết thúc của cuộc Ra đi này chính là việc Lên Trời. Nghe những lời loan báo của Ðức Giêsu, các tông đồ lo sợ vì mất đi người hướng dẫn. Các ông sợ sẽ bị bỏ lại bơ vơ, không có ai chỉ bảo. Ðức Giêsu biết điều đó và Người đã trấn an các ông. Người giải thích cho các ông biết rằng mối tương giao giữa các ông với Người, thay vì bị phá vỡ, sẽ trở thành một thực tại thiêng liêng. Thực tại này đưa các tông đồ đến sự hiệp thông với Chúa Cha, với Thần Khí, đồng thời đặt các ông vào trong tương giao mới với thế gian.

Ðể xác định các mối tương giao này, Ðức Giêsu mô tả một cách thức mới để nhận định về các sự vật. Thế gian, hiểu theo nghĩa tiêu cực là kẻ thù của Thiên Chúa, chẳng những không đón nhận Thần Khí sự thật, lại còn từ chối. Còn các tông đồ là con cái ánh sáng vì bước đi trong sự thật, nên nhận biết Thần Khí. Như vậy, điều cốt yếu là đạt tới một cái nhìn khác về sự vật, về biến cố, khác hẳn với cái nhìn vốn có cách tự phát. Bởi vì thực tại sâu xa và đích thực không phải là điều mà con người hiểu được theo giác quan, nhưng là một sự hiện diện thiêng liêng, sự hiện diện đem lại sự sống.

Như thế, cần phải đạt tới thực tại này. Ðiều này giả thiết rằng chính Thiên Chúa sẽ đến trợ giúp con người thực hiện sự trao đổi. Ðó là bí mật sau cùng trong thực tại của chính Ðức Giêsu, tức là ban Thần Khí.

Tuy vậy, ân huệ Thần Khí không được hiểu theo nghĩa một cuộc đưa ra khỏi trần gian. Trái lại, ân huệ Thần Khí giúp con người hiểu được con đường của Ðức Giêsu. Con đường này có những cột mốc tức là những giới răn Ðức Giêsu đã truyền lại. Các cột mốc này chính là thái độ mở rộng, là lòng quảng đại, là tình yêu thương. Ai đi trên con đường này sẽ luôn đi đúng hướng, sẽ luôn cảm thấy an toàn. Trên con đường này, có thể sẽ xảy ra những khó khăn, bước đường sẽ vất vả. Nhưng không sao, đừng xao xuyến, đó là con đường dẫn đến sự sống.

"Nếu anh em yêu mến Thầy ..."

Có gì là mới lạ, khi cuối cùng, Ðức Giêsu lại truyền cho các môn đệ phải tuân giữ các giới răn?

Những giới răn đầu tiên do Thiên Chúa truyền cho con người được ghi lại trong trình thuật sáng tạo. Khi ấy, cuộc sống mới ở giai đoạn đầu, thế gian vừa ra khỏi cảnh hỗn độn và hoang vu : các lệnh truyền của Thiên Chúa chính là ánh sáng, là sự hài hoà và là sự sống. Ðể đạt tới tình trạng này, con người phải tuân giữ giới răn của Thiên Chúa.

Sau đó, là giai đoạn của Mười giới răn được trao cho dân Do-thái, khi họ được Thiên Chúa giải thoát khỏi đất Ai-cập. Các giới răn này là con đường để trở thành những người tự do, biến dân Do-thái trở thành Dân của Thiên Chúa : nếu muốn bảo vệ sự tự do đã được trao tặng, dân Do-thái phải tuân giữ các giới răn, bằng không, họ sẽ trở lại với tình trạng nô lệ.

Ðiều này không chỉ đúng với dân Do-thái, nhưng cả ngày nay nữa. Những ai từng trải qua kinh nghiệm về tự do, về sự giải thoát, hay nói đúng hơn, về ơn cứu độ, đều là những con người đã đi theo con đường do Mười giới răn vạch ra. Các giới răn này hướng dẫn tự do của con người, biến họ trở thành những con người tự do thực sự giữa những thăng trầm của cuộc sống.

Và bây giờ, Ðức Giêsu lại đưa ra các lệnh truyền. Trong các lời giảng, Ðức Giêsu không hề có ý làm cho Lề Luật ra suy yếu, trái lại Người củng cố Lề Luật : "Hãy yêu thương địch thù ... Ai xin thì hãy cho ... Ðừng xét đoán ... Hãy tỉnh thức ... Hãy đi làm hoà ...". Có lẽ nhiều người ngạc nhiên khi đọc Tin Mừng, khi thấy con số cũng như tính cương quyết trong các lệnh truyền của Ðức Giêsu.

Tại sao thế ? Tiêu chuẩn hình như quá cao. Các lệnh truyền trong luật cũ cũng đã khó thực hiện. Thế mà lúc này Ðức Giêsu lại đưa ra những lệnh truyền có vẻ như khó thực hiện hơn và có vẻ quyết liệt hơn.

Ðúng vậy, bởi vì trong Ðức Giêsu, con người nhận lãnh không chỉ các lệnh truyền, mà là chính sự sống của Thiên Chúa. Những giới răn đó không chỉ dành cho con người, nhưng chính là giới răn, là quy tắc của Ba Ngôi Thiên Chúa. Bởi vì sự sống do Ðức Giêsu đem lại không chỉ là một trạng thái quân bình về xã hội hay một sự tự do cần duy trì, nhưng, theo kiểu nói của thánh Phao-lô, đó là được "đưa vào" trong sự sống của Thiên Chúa. Qua các lệnh truyền, Ðức Giêsu muốn đưa các môn đệ đi vào trong sự sống của Ba Ngôi, đồng thời mong muốn các ông có cùng tâm tình của Người : yêu mến, hiệp thông với Chúa Cha ...

Tuân giữ các lệnh truyền

Như thế, nếu muốn tham dự vào sự sống của Thiên Chúa, nếu muốn được Ðức Giêsu yêu mến như Người đã yêu mến Chúa Cha, các môn đệ - cũng như chúng ta - hãy trung thành tuân giữ các lệnh truyền của Người, hãy sống theo mối tương giao vẫn chi phối đời sống của Ba Ngôi Thiên Chúa.

Theo khía cạnh con người, đây là điều khó thực hiện, hay chính xác hơn, là điều không thể. Nhưng, như lời đã hứa, Ðức Giêsu vẫn ở bên trong chúng ta : Người là vị hướng dẫn nội tâm, là người mẹ nâng đỡ những bước chân đầu tiên của đứa trẻ. Và trong mọi hoàn cảnh, lời hứa của Ðức Giêsu với các môn đệ vẫn luôn là một bảo đảm chắc chắn : "Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Ðấng bào chữa khác đến ở với anh em luôn mãi. Ðó là Thánh Thần chân lí."

Tuy vậy, chúng ta sẽ không tuân giữ các lệnh truyền của Ðức Giêsu do ép buộc hay do sợ hãi. Trái lại, các lệnh truyền cũng là ân huệ, cũng như Thần Khí là ân huệ. Với ân huệ của Thiên Chúa, chúng ta không phải là những người bị bỏ lại bơ vơ giữa cuộc đời, chúng ta không phải là những đứa trẻ mồ côi. Ngược lại, nhờ việc tuân giữ các lệnh truyền của Ðức Giêsu, chúng ta họp nhau trở thành một gia đình duy nhất trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Trong gia đình này, những con người tự do luôn được tái sinh, luôn được hiệp thông trong tình yêu


Giacôbê Phạm Văn Phượng op

Yêu người là yêu Chúa
(Ga 14,15-21)

Ngày nay có rất nhiều người trên thế giới, trong đó có chúng ta, biết đến mẹ Tê-rê-xa thành Can-cút-ta và dành cho mẹ nhiều thiện cảm. Sở dĩ mẹ được nhiều người biết đến và ngưỡng mộ là do những hoạt động từ thiện bác ái mẹ đã thực hiện cho những người nghèo khổ bất hạnh ở Ấn Độ cũng như nhiều quốc gia chậm phát triển khác trên thế giới. Năm 1979 mẹ Tê-rê-xa nhận được giải thưởng Nobel hòa bình, một phần thưởng cao quý mà rất ít người nhận được, vì đã có công đóng góp tích cực cho nền hòa bình thế giới và phục vụ cho người nghèo. Mẹ Tê-rê-xa đã được nhiều người thiện chí khắp nơi sẵn sàng cộng tác giúp đỡ cả về tinh thần cũng như vật chất. Những ai cộng tác với mẹ, mẹ luôn đòi hỏi điều kiện quan trọng này là : họ phải có trái tim chứa chan tình yêu, và tình yêu này phải bắt đầu trước hết từ trong gia đình ruột thịt của họ.

Có lần Mẹ Tê-rê-xa kể lại như sau : “Trong số những cộng tác viên của tôi có một đôi vợ chồng lạnh nhạt với nhau và hay cãi lộn nhau. Một hôm tôi đã nhẹ nhàng trách cả hai : tôi không thể hiểu làm sao anh chị có thể đem Chúa Giêsu đến cho người khác, trong khi anh chị đã không thể đem Chúa Giêsu đến cho những người trong gia đình mình. Làm sao anh chị có thể thấy Chúa Giêsu hiện diện nơi những người bệnh tật khổ đau trong lúc anh chị không nhìn thấy Chúa Giêsu đang hiện diện ngay trong người bạn đời của mình”. Nghe lời trách cứ của tôi, hai vợ chồng đã sửa đổi cách sống, sống hòa thuận với nhau cho đến bây giờ và họ luôn là cộng tác viên đắc lực của tôi. Quả thực nếu chúng ta không cảm nghiệm được Chúa Giêsu đang hiên diện trong lòng chúng ta, và đang ở nơi những người đang sống chung với chúng ta dưới một mái nhà thì chúng ta không thể đem Chúa Giêsu đến cho người xa lạ được.

Yêu mến Chúa, đó là bổn phận của chúng ta. Nhưng thế nào là yêu mến Chúa ? Làm sao chúng ta biết được mình yêu mến Chúa hay dựa vào điều gì để chính mình hay người khác biết được chúng ta yêu mến Chúa ? Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu bảo cho chúng ta biết một nguyên tắc, một bằng chứng, đó là giữ các điều răn của Chúa : “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy”. Chúng ta thấy Chúa Giêsu nhấn mạnh đến mối liên hê giữa lòng yêu mến Chúa và việc tuân giữ các điều răn : yêu mến Chúa thì tuân giữ các điều răn, ngược lại, giữ các điều răn là bằng chứng yêu mến Chúa. Sau đây chúng ta tìm hiểu về mối tương quan hay mối liên hệ này.

Có một số người ngoại giáo nhìn đạo Công giáo với nhiều thành kiến. Họ cho rằng đạo Công giáo chỉ là một lô những điều răn và kinh kệ dài dòng mà phải mất rất nhiều thời gian mới có thể học thuộc và tuân giữ được. Quả thực, cách sống đạo của một số người Công giáo có thể đưa đến ngộ nhận trên. Tuy nhiên, thực chất của đạo Công giáo rất đơn giản. Thiên Chúa là tình yêu, Ngài sai con một Ngài xuống trần gian để dạy bảo cho con người biết về tình yêu của Ngài và mời gọi con người hãy sống yêu thương để được hạnh phúc thật. Tất cả mọi điều răn và lề luật của đạo được tóm gọn trong hai chữ yêu thương. Chính Chúa Giêsu đã xác định : cái cốt lõi của mọi điều răn, mọi lề luật là mến Chúa yêu người, và Chúa đặc biệt nhấn mạnh đến điều răn yêu người. Xin nêu ra một vài thí dụ :

Về điều răn “đi lễ Chúa Nhật”, có một số người đi lễ, họ thản nhiên, nếu không nói là cố ý, tới nhà thờ khi linh mục đã giảng xong, hoặc ra về khi linh mục bắt đầu cho rước lễ. Thế mà họ an tâm là đã làm xong bổn phận đi lễ ngày Chúa Nhật. Nếu có ai đặt vấn đề thì họ lý luận rằng : chưa mất phần chính, phần quan trọng của thánh lễ, thì không sao cả. Nhưng họ không ngờ rằng, làm như vậy là họ đã bớt xén bổn phận đối với Chúa, và đã hạn chế lòng yêu mến Chúa, nghĩa là họ giữ điều răn đi lễ ngày Chúa Nhật chỉ vì có luật buộc và sợ mắc tội trọng, chứ không phải vì lòng yêu mến Chúa.

Đối với điều răn “chớ giết người”, có một số người cho rằng : chỉ khi nào làm đổ máu hay làm thiệt hại đến thân thể người khác mới là phạm đến điều răn này. Họ đâu có biết rằng : những lời nói chua cay, những lời hành tỏi, những xét đoán bừa bãi… đều là những hình thức giết người. Nếu họ cứ thản nhiên vi phạm những điều này, thì làm sao có thể nói họ có lòng yêu người được ? Đối với những điều răn khác cũng vậy, nếu chỉ giữ bôi bác, chiếu lệ, hoặc coi thường, hoặc dễ dàng vi phạm khi biết đó là điều không quan trọng. Những người giữ các điều răn kiểu đó có thể nói họ không mến Chúa và yêu người thực sự.

Bởi vì giữ các điều răn là yêu mến Chúa, giữ các điều răn là thước đo lòng mến cao hay thấp, nhiều hay ít : giữ nhiều là yêu mến nhiều, giữ ít là yêu mến ít. Đàng khác, hễ càng yêu ai nhiều, thì càng sợ làm mất lòng người ấy nhiều, và hễ yêu ít, thì cũng ít sợ mất lòng. Chẳng hạn, có ai áy náy khi thấy kẻ thù nghịch của mình gặp chuyện rủi ro, bất hạnh không? Nhưng chắc chắn ai cũng rất sợ làm phiền lòng người mình yêu thương. Cũng vậy, những ai yêu mến Chúa, thì cũng sợ làm mất lòng Chúa, mà làm mất lòng Chúa là khi không tuân giữ các điều răn hoặc vi phạm các điều răn Chúa dạy.

Như vậy, người Kitô hữu có nhiều cách biểu lộ tình yêu của mình đối với Chúa, nhưng cụ thể nhất là giữ các điều răn Chúa dạy, cách riêng là điều răn mến Chúa yêu người. Hơn nữa, chỉ cần xét xem, chúng ta có yêu người không là đủ, nghĩa là muốn biết chúng ta yêu Chúa thế nào, thì chỉ cần xét xem chúng ta đã yêu người ra sao.

Tóm lại, bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta biết một bằng chứng, một dấu hiệu để chứng tỏ chúng ta yêu mến Chúa là tuân giữ các điều răn của Chúa, nhất là điều răn yêu người. Đó là điều chúng ta cần ghi nhớ và thực hành. Chúng ta phải sống thế nào để lòng yêu mến Chúa không chỉ giới hạn trong việc thờ phượng hay trong những sinh hoạt tôn giáo, mà phải được thể hiện trong mọi hoàn cảnh bằng đời sống yêu thương của chúng ta. Chúng ta hãy xác tín rằng : Chỉ bằng cuộc sống yêu thương, chúng ta mới thực sự làm chứng cho Chúa.


Giuse Lê Xuân Hiệp OP

Ai yêu mến Thày, sẽ được Cha Thày yêu mến
(Ga 14:15-21)

Giới răn yêu thương là yếu tố cốt lõi của đạo Công Giáo do Chúa Giêsu thiết lập. Đối với Ngài: “Mến Chúa và yêu tha nhân” phải song hành với nhau. Ai nói mến Chúa mà không yêu người khác là nói dối. Do đó, khi Chúa Giêsu nói: “Cứ dấu này người ta sẽ nhận anh em là môn đệ Thầy” là “anh em hãy yêu thương nhau.” (Ga 15, 12). Yêu nhau là dấu chỉ rõ rệt nhất để nhân loại nhận ra họ là môn đệ Chúa Giêsu. Đây là tình yêu mến giữa các môn đệ với nhau rồi Chúa Giêsu lại nói tới lòng yêu mến các môn đệ phải có đối với Ngài.

Chỉ có một cách để trắc nghiệm tình yêu thương là sự vâng lời. Chúa Giêsu đã chứng minh Ngài yêu Chúa Cha bằng sự vâng lời. Có nhiều người chỉ yêu thương qua đầu môi chót lưỡi, đồng thời lại làm cho những người họ yêu phải đau đớn, khổ tâm. Với Chúa Giêsu, tình yêu thương chân thật không phải là điều dễ dàng, tình yêu chân thật chỉ có thể chứng minh bằng sự vâng lời chân thật.

Chúa không hứa ban cho ta cơm ăn, áo mặc, của cải vật chất, giầu sang phú quý, hạnh phúc trần gian … Nhưng Chúa hứa sẽ cầu xin với Chúa Cha và Chúa Cha sẽ che chở các môn đệ và mọi người khỏi quyền lực thế gian tội lỗi. Tuy nhiên, để lãnh nhận lời Chúa Giêsu dạy, các môn đệ và mọi Kitô hữu phải yêu mến Chúa và giữ lời Ngài.

Giữa những bấp bênh của cuộc sống hôm nay, con người trải qua nhiều nỗi thất vọng khác nhau. Càng thất vọng, con người càng không tìm được lẽ sống và không biết bám víu vào đâu. Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa đã mạc khải cho chúng ta lẽ sống chính là sự sống Ba Ngôi Thiên Chúa trong tâm hồn tín hữu. Sở dĩ thế gian đầy dẫy những con người thất vọng vì không có con đường giải thoát. Khắp nơi tràn ngập những gian trá, lừa đảo. Chính vì thế, "Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người." (Ga 14,17) Thế gian sống trong ảo vọng. Không thể tìm thấy niềm hy vọng trong những mớ ảo vọng đó.

Trái lại, niềm hy vọng của người Kitô hữu vững chắc như chính Thần Khí sự thật. Niềm hy vọng đó vô cùng lớn lao, "vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em." (Ga 14:17) Người luôn hiện diện giữa cộng đoàn và trong tâm hồn các tín hữu để bảo vệ họ khỏi nanh vuốt Sa-tan là cha mọi sự dối trá.

Chúa Giêsu đã hứa : "Thầy sẽ không để anh em mồ côi." (Ga 14, 18) Cho dù kéo bè kéo cánh, kẻ thù vẫn không thể áp đảo các Kitô hữu. Dù bị hất hủi hay phản đối, họ vẫn không cô đơn, vì niềm tin đã khơi lên niềm hy vọng lớn lao trong tâm hồn và cuộc đời họ. Chính những lúc đau khổ và trống vắng nhất là những lúc họ đầy ắp ân sủng. Với nguồn ân sủng lớn lao, "Thầy sẽ đến cùng anh em" (Ga 14, 18) để đối phó kịp thời với những âm mưu đen tối. Chính tình yêu đã thúc đẩy bước chân Người đến với chúng ta.

Chính con mắt đức tin làm cho "anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống" (Ga 14,19) với tất cả niềm vui và tràn đầy hy vọng. Người môn đệ không thể thể sống mà không có Thầy. Sự sống Thầy bảo đảm cho tín hữu không phải rơi vào hố diệt vong. Ai có thể cất mạng sống Thầy ? Ai có thể thể tách lìa họ khỏi Thầy ? Còn sống là còn hy vọng. Đó là lý do tại sao họ vẫn giữ được niềm hy vọng dù phải sống giữa những hoàn cảnh tuyệt vọng. Các thánh tử đạo là một bằng chứng hùng hồn. Không một lý do tự nhiên nào có thể giải thích nổi những hành vi gan dạ đó. Không phải nhờ ý chí vững mạnh hơn người. Cũng không phải vì cuồng tín. Nhưng là từ cảm nghiệm sâu xa của niềm tin.

Như thế, dưới sự phù trợ của Thánh Linh, người tín hữu sẽ lao mình vào cuộc chiến để dành phần thắng cho Nước Chúa. Đó là lý do tại sao các môn đệ có thể mạnh mẽ "rao giảng Đức Kitô" (Cv 8,5) khắp thế giới, bất chấp mọi hiểm nguy.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin ban ơn Thánh Thần cho chúng con hầu chúng con có thể nhận ra những giá trị đích thực của cuộc sống hôm nay, xin giúp chúng con chiến thắng những cám dỗ của thế gian và không bị đồng hóa với những mặt trái của đời sống xã hội.

Sau khi trỗi dậy từ cõi chết, nhiều lần Chúa đã hiện ra với các môn đệ và ban bình an cho các ông. Xin Chúa cũng ban ơn bình an cho tâm hồn chúng con ngõ hầu chúng con có thể chia sẻ bình an đó cho những người mà chúng con gặp gỡ.

Các môn đệ đã trung thành làm chứng cho Chúa dù phải hy sinh cả tính mạng. Xin Chúa ban cho chúng con luôn trung thành với những đòi hỏi của Tin Mừng, biết quên mình để phục vụ Chúa, biết tuôn trào tình yêu thương và sẵn lòng trợ giúp những cảnh đời khốn khổ, bất hạnh bằng những hành động thiết thực chứ không chỉ dừng lại ở lý thuyết.

Cho đi tình yêu, nơi đồng loại, là phương thế để chúng con thể hiện tình yêu của chúng con đối với Chúa. Amen./.


Đỗ Lực op

Buồn Ơi, Chào Mi !
(Ga 14:15-21)

Khi nhìn vào xã hội Hoa Kỳ, ÐGH Bênêđictô XVI thấy “chủ nghĩa thế tục đang đặt ra một vấn đề đặc biệt : con người đươc quyền tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa và kính trọng vai trò của tôn giáo và của các Giáo hội trong quần chúng. Nhưng đồng thời, chủ nghĩa thế tục này có thể âm thầm giản lược niềm tin tôn giáo vào một sự tin tưởng chung chung đáng sợ nhất. Ðức tin trở thành sự chấp nhận thụ động một số điều thật là đúng, nhưng lại không có liên quan cuộc sống thực tế hàng ngày. Kết quả, đức tin ngày càng xa lìa cuộc sống: sống như thể không có Thiên Chúa. Sự kiện này trở nên nghiêm trọng hơn khi mỗi người tưởng mình có quyền lựa chọn theo sở thích cá nhân, thay vì ‘tin tưởng cùng với Giáo Hội.’ Họ duy trì các mối liên hệ xã hội ở nhà thờ, nhưng lương tâm không nhất thiết cải đổi và quay về với luật Chúa Kitô. Vì thế, thay vì được đổi mới cách toàn diện, các Kitô hữu dễ dàng bị cám dỗ chiều theo thời đại này (x. Rm 12:3). Chúng ta thấy hiện trạng này biểu hiện rõ ràng nơi những người Công giáo làm gương mù khi ủng hộ ‘quyền’ phá thai.

Khi tách biệt tôn giáo ra khỏi cuộc sống, con người sẽ bơ vơ như con tàu mất hướng trên biển cả mênh mông. Trong cuộc đời, họ như người trầm cảm đang quay cuồng với những bóng hình ma quái trong xó phòng cô đơn. Nhưng với những ai tin tưởng, Chúa quả quyết : “Thầy sẽ không để anh em mồ côi.” (Ga 14:18) Mồ côi sinh buồn sầu và thất vọng. Thực tế, làm cách nào con người có thể vẫy tay giả biệt : “Buồn ơi, chào mi !”

HIỆN DIỆN

Trong bữa Tiệc Ly, Chúa nắm bắt nhịp tim của các môn đệ. Một đàng, các ông lo lắng về số phận Thày. Ðàng khác, họ biết chắc tương lai sẽ không còn êm ả như lúc Thày còn ở kề bên. Nhìn thấy trước tương lai, Chúa muốn các ông đừng hoảng sợ, vì “Đấng Bảo Trợ khác” (Ga 14:16) hay “Thần Khí sự thật luôn ở giữa anh em và ở trong anh em.(Ga 14:17) Ðó chính là sức mạnh giải thoát họ khỏi mọi ưu phiền, lo sợ, cô đơn ...

Như vậy, thay Chúa Giêsu, Thần Khí sẽ đến bảo trợ các môn đệ. Khi còn sống gần Chúa, họ đã sống yên ổn về mọi mặt vì đã có Chúa bảo vệ trước những tấn công của kẻ thù. Khi Chúa ra đi, họ vẫn sống giữa những thử thách, vì nanh vuốt kẻ thù còn nguyên đó. Họ cần có một nơi trú ẩn trước những cơn phong ba bão táp của cuộc đời. Quả thực, Ðấng Bảo Trợ đã chứng tỏ tất cả sức mạnh vô cùng lớn lao và bền bỉ của Người trong lịch sử Giáo hội. Nếu có giây phút nào họ cô đơn hay trống vắng, chắc chắn kẻ thù đã tấn công và phá sập Giáo hội từ lâu rồi.

Ðể có thể bền vững, Giáo hội cần phải hiệp nhất. Muốn hiệp nhất, Giáo hội phải được giải thoát. Chẳng ai có thể giải thoát Giáo hội ngoài Thần Khí Sự Thật. Thần Khí Sự Thật như một chất keo nối kết các môn đệ với nhau thành một cộng đoàn. Không có Thần Khí Sự Thật ở giữa các ông, cộng đoàn không bao giờ trở thành nhiệm thể Chúa Kitô. Ðó là ý nghĩa lời Chúa hứa “Thần Khí Sự Thật luôn ở giữa anh em.”

Không dễ gì nhận ra đượcThần Khí đang nối kết các thành phần khác biệt để làm thành Giáo hội duy nhất. Càng khó hơn nữa nếu muốn nhận ra Người đang hiện diện thực sự trong anh em. Có hiện diện thực sự trong tâm hồn môn đệ, Thần Khí mới có thể canh tân và điều khiển mọi ước vọng của họ. Nhờ đó, họ mới có thể được công chính hóa và đưa vào chân lý toàn vẹn. Có được giải thoát và tự do, họ mới có đủ khả năng chống lại các cơ chế bất công. Nhờ Ðấng Bảo Trợ, họ không sợ nguy hiểm khi phải đương đầu với lực lượng sự ác.

Hơn thế, Thần Khí còn làm cho Chúa Giêsu hiện diện sống động trong các chi thể của Người là các Kitô hữu. Ðó là điều kỳ diệu nhất. Chính nhờ Thần Khí, Ðức Giêsu không bao giờ trở thành một nhân vật lịch sử. Trái lại, Thần Khí làm cho Người sống giữa và trong Giáo Hội. Nhờ đó, Giáo Hội mới có thể đứng vững tới ngày nay. Trên đà tồn tại và phát triển, Giáo Hội có rất nhiều kẻ thù đang ẩn núp trong đêm tối. Ðể bảo trợ Giáo Hội, Thần Khí cần phải dùng ánh sáng. Ánh sáng có sức phá tan màn đêm và đem lại sự sống.

Ngoài nhiệm vụ bảo trợ, Thần Khí còn được sai đến như Thần Khí Sự Thật để ở giữa và ở trong Giáo Hội. Nhờ Thần Khí Sự Thật, Giáo hội cống hiến cho nhân loại một nền tảng và sức mạnh tranh đấu cho nhân quyền. Cuối cùng, nhiệm vụ chủ yếu của Thần Khí Sự Thật trả lại giá trị đích thực con người.

SỰ THẬT VÀ NHÂN QUYỀN

Nhờ Thần Khí Sự Thật, con người có thể biết địa vị cao cả của mình. Quả thực, Người “sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn” (Ga 16:13) về con người là hình ảnh Thiên Chúa. Ðó là nền tảng và lý do tại sao con người có nhân phẩm và nhân quyền phải được tôn trọng. Nhưng không có đức tin, làm sao có thể nhìn thấy căn nguyên đó ?

Chỉ khi nào đụng chạm những khó khăn thực tế, may ra con người mới nhận biết: “Cổ suý cho nhân quyền là phương sách hữu hiệu nhất để tăng cường an ninh, và xoá bỏ tình trạng bất bình đẳng giữa các nước và các nhóm trong xã hội." (1) Yếu tố quyết định cho cuộc sống bình an và hạnh phúc không phải là những phương tiện vật chất hay vũ khí, nhưng là chính con người. Khi không công nhận quyền con người, chính quyền không còn lý do hiện hữu và đống vũ khí trở thành vô nghĩa. Không gì tệ hại hơn khi dối gạt lương tâm để phủ nhận nhân quyền. Ðó là nguyên nhân sinh ra mọi bất hạnh trên đời.

Trong dịp thăm viếng Hoa Kỳ vừa qua, “vị chủ chăn của 1,1 tỉ tín đồ Công Giáo trên thế giới bác bỏ lập luận của một số nhà cầm quyền cho rằng nhân quyền thay đổi tùy theo quan điểm của mỗi quốc gia, bởi vì điều kiện sinh hoạt và tình hình xã hội, chính trị của mỗi nước khác nhau.” (2) Các nhà cầm quyền đó chỉ nói quan điểm về nhân quyền thay đổi tùy hoàn cảnh, nhưng không cho biết thay đổi như thế nào. Họ không đưa ra một định nghĩa đích xác về nhân quyền, vì họ sợ sự thật.

Nhưng Thần Khí Sự Thật vẫn không ngừng soi sáng cho những tâm hồn chân chính thấy rằng “các quyền của con người, đặc biệt là quyền tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng, là ngôn ngữ chung và là nền tảng căn bản về đạo đức của các mối quan hệ, bang giao quốc tế.” (3) Chắc chỉ có những nhà độc tài mới tạo nổi những ngôn ngữ riêng về nhân quyền. Vậy tại sao họ còn tham gia vào những tổ chức quốc tế và ký vào những bản tuyên ngôn nhân quyền ? Rõ ràng mâu thuẫn không thể hiểu được !

Chỉ những ai nghe theo sự thật mới có thể nhận ra “nhân quyền có những đặc tính phổ quát, bất phân và tương thuộc. Tất cả những đặc tính này đều bảo đảm cho nhân phẩm. Rõ ràng những quyền đó đã được nhìn nhận và giải thích trong Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và áp dụng cho mọi người vì đều có chung một nguồn gốc nhân vị, cao điểm trong chương trình Thiên Chúa tạo dựng thế giới và lịch sử. Các quyền đó có nền tảng trong luật thiên nhiên và hiện diện trong các nền văn hóa và văn minh khác nhau. Loại bỏ nhân quyền ra khỏi khung cảnh này sẽ giới hạn phạm vi nhân quyền và chiều theo thuyết tương đối với chủ trương : việc giải thích và ý nghĩa các quyền có thể thay đổi. Họ phủ nhận đặc tính phổ quát của các quyền ấy nhân danh những quan điểm khác biệt về văn hóa, chính trị, xã hội, và cả tôn giáo nữa. Sự khác biệt lớn lao này không thể làm chúng ta không còn nhận ra rằng những quyền ấy và cả nhân vị, chủ thể các quyền ấy, cũng có tính phổ quát trong thực tế.” (4) Chỉ vì những quyền lợi hẹp hòi và nhất thời của đảng phái, các nhà cầm quyền độc tài đã mù tối không còn nhận ra ý nghĩa đích thực của nhân quyền.

Nhưng dù sao, họ cũng cần hiểu rằng bao lâu còn là người, con người không thể bị ép buộc phủ nhận chính mình. Quả thực, “phải tôn trọng những quyền của con người vì đó là một lối diễn tả công lý, chứ không phải các nhà lập pháp muốn là được.” (5) Không tôn trọng công lý, làm sao hiểu được ý nghĩa nhân quyền ? Dù có hiểu cũng không đủ can đảm nói lên sự thật. Nếu nói lên sự thật, làm sao biện minh cho những hành vi đàn áp ?

Ðó là ý nghĩa lời tuyên bố của ÐGH Bênêđictô XVI trước Hội đồng Liên Hiệp Quốc nhân dịp kỷ niệm 60 năm Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền. Trong dịp thăm Hoa Kỳ năm 2008 vừa qua, những hoạt động của ÐGH tại trụ sở Liên Hiệp Quốc chỉ nhằm thực hiện những việc Công Ðồng Vatican II ủy thác cho Giáo Hội. Quả thế, Tuyên Ngôn về Nhân Phẩm có ý công bố về “quyền tự do về mặt xã hội và dân sự của nhân vị và cộng đoàn trong những vấn đề tôn giáo.” Tuyên Ngôn giải thích : “Phải thi hành quyền tự do này, vì Thiên Chúa đã muốn và in sâu trong bản tính con người quyền tự do ấy. Không nên đặt trở ngại nào trên bước đường thực thi nhân quyền, vì ‘sự thật chỉ có thể bị áp đặt do chính sức mạnh của mình.’” (6)

Dựa vào đâu Giáo Hội có thể quả quyết như thế, nếu không phải Thần Khí Sự Thật ? Nếu không có Thần Khí Sự Thật, Giáo Hội không thể thấy rõ bản chất nhân quyền. Hơn nữa, Giáo Hội còn nhận xét : “Một nền dân chủ thực sự không phải chỉ là kết quả từ việc tuân giữ chính thức một số luật lệ, nhưng là hệ quả việc cương quyết chấp nhận những giá trị thôi thúc tiến trình dân chủ như: phẩm giá của mỗi nhân vị, tôn trọng các quyền làm người, sự cam kết nhắm công ích như mục đích và tiêu chuẩn hướng dẫn đời sống chính trị. Nếu không có sự đồng thuận về những giá trị này, thì ý nghĩa sâu xa nhất của nền dân chủ cũng tiêu trầm và khó bền vững.” (7)

Như thế đã quá đủ cho chúng ta nhận xét và đánh giá một chế độ.

GIỚI TRẺ ÐỨNG TRƯỚC SỰ THẬT

Lịch sử cho thấy, sở dĩ những chế độ độc tài thành công vì họ giấu diếm sự thật. Kinh nghiệm về ngày 30/04/1975 là một chứng minh hùng hồn. Sống mấy chục năm trong bầu khí hoàn toàn bưng bít ở Miền Bắc, biết bao người đã hăng say chiến đấu để giải phóng Miền Nam khỏi “ách thống trị của Mỹ Ngụy.” Sau cuộc chiến, họ đã bàng hoàng trước thực tế của dân tộc. Dương Thu Hương đã cay đắng nói lên : “Ngày 30 tháng Tư là một ngày mà tôi nhìn thấy sự trớ trêu của số phận đất nước Việt Nam. Ngày 30 tháng Tư là một kỷ niệm nặng nhọc và buồn phiền bởi vì ngày ấy tôi hiểu rằng chẳng có gì vinh dự gì, vì một nửa nước làm tay sai cho phe xã hội chủ nghĩa, và nửa nước làm tay sai cho tư bản chủ nghĩa, hai bên đánh nhau và cuối cùng thì một nửa nước chiến thắng vênh váo. Tôi nghĩ rằng sau này lịch sử sẽ nhìn lại ngày 30 tháng Tư. Ðó là một ngày đau khổ và cuộc chiến tranh bấy giờ là một cuộc chiến tranh tồi tệ nhất của người dân Việt Nam. Những người Việt Nam có lương tri, dù là chống cộng hay dù là cộng sản, sau này họ chết đi, họ cũng nên lội qua vạc dầu một lần để hiểu thế nào là chân lý.” (8)

Không cần đợi tới khi sang bên kia thế giới mới biết được sự thật. Ngày nay, ngành tin học đã chọc thủng tất cả các bức màn sắt màn tre, liệu chế độ độc tài có thể thành công như xưa nữa không ? Dù có trong tay khoảng 600 tờ báo và các phương tiện truyền thông, Nhà Nước cũng không thể bắt mọi người đi vào “lề đường bên phải.” Giới trẻ Việt Nam đã nhanh chóng lợi dụng những phương tiện tin học để nắm bắt sự thật bên ngoài nhờ các trang blogs, emails, websites v.v. Nhờ đó mới nổi lên các vụ dân oan, đình công, biểu tình phản đối Trung Quốc về Hoàng Sa và Trường Sa cũng như về cuộc rước đuốc Thế Vận Olympics ngày 29/04/2008 sắp tới tại Sài Gòn.

Các bạn trẻ đã phóng một cái nhìn về tương lai dân tộc : “Chúng ta cùng giòng máu Lạc Việt, ngày nay đất nước chúng ta còn thiếu thốn những vấn đề căn nguyên của một người dân. Để lên tiếng vấn đề này thì mình thấy chỉ có giới trẻ có thể làm được. Và thành phần này rất đông. Giới trẻ phải có trách nhiệm này, không chỉ ở trong nước mà còn ở hải ngoại nữa. Chúng ta phải đóng góp với nhau để những phong trào sắp tới của chúng ta có thắng lợi, mà lớn nhất là quyền căn bản của người dân sẽ được như các nước đã phát triển” (9)

Nhưng tại sao cho tới nay dân tộc ta chưa đạt được quyền căn bản đó ? Dương Thu Hương trả lời : “Thói quen tuân lệnh, tuân lệnh và tuân lệnh đã tẩm nhiễm vào tâm hồn họ rồi cho nên họ chỉ trở thành những người lính trong thời bình, nghĩa là những kẻ hèn, chỉ biết cúi đầu tuân lệnh mà thôi. Những người lính này sẽ lại ra lệnh cho con cái của họ, hoặc những kẻ yếu thế hơn họ. Nói cách khác, tâm lý đó là, hoặc là làm xếp của những người bên dưới, hoặc là làm con ở, đầy tớ cho những thằng bên trên. Một dân tộc mà mang cái tâm lý song trùng đó thì rất là khó trở thành một dân tộc có tự do dân chủ, bởi vì muốn có tự do dân chủ thì xã hội phải hình thành được những người công dân tự do, biết quyền của mình, biết mình được được hưởng những gì và như thế họ phải có ý thức về quyền công dân đã. Và lúc đó họ mới khao khát làm công dân.” (10)

Ý thức và khát vọng đó chỉ có thể kiếm thấy nơi Thần Khí Sự Thật. Ðó là niềm tin của chúng ta. Càng tin tưởng càng cần gia tăng cầu nguyện và hiệp nhất để có thể mở một chiều hướng mới cho dân tộc. Khi Thần Khí Sự Thật đã tới, quê hương sẽ được giải thoát và dân tộc sẽ được làm người !

Tóm lại, trước một tương lai không còn Chúa bên cạnh, các môn đệ run sợ. Nhưng Chúa đã bảo đảm cho họ một cuộc sống bình an dưới sự bảo trợ của Thần Khí. Hơn nữa, Thần Khí Sự Thật sẽ giải thoát để họ có thể lớn lên trong chân lý và tình yêu của Thày và Chúa Cha. Vì Thần Khí “luôn ở giữa và ở trong anh em,” nên họ sẽ làm thành một cộng đoàn làm chứng cho mọi người biết “Thày sống và anh em cũng sẽ sống” giữa một thế gian không còn thấy bóng Thày nữa.

Lạy Chúa, xin sai Thần Khí Sự Thật đến giải thoát chúng con khỏi cảnh đêm tối trần gian. Xin cho chúng con luôn sống trong bình an và lớn lên trong một cuộc sống tự do đích thực của con người và con Chúa. Amen.

 

1. http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/pope_benedict_emphasizes_human_rights_ in_UN_speech_NTran-04232008095524.html

2. ibid.

3. http://wcbstv.com/local/pope.benedict.speech.2.703107.html

4. ibid.

5. ibid.

6. Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 421.

7. ibid., 407.

8. http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/y2vienam/viet6.htm

9. http://www.rfa.org/vietnamese/vietnam/chinhtri/VNese_students_in_and_outside_the _country_react_on_the_relay_route_of_the _Olympic_Beijing2008_HVy-04242008103641.html

10. http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/y2vienam/viet6.htm


Lm. Jude Siciliano, OP
Anh Em Nhà Học Đa Minh Chuyển Ngữ.

Hãy sẵn sàng trả lời về niềm hy vọng
Ga 14,15-21

Kính thưa Quý vị !

Điều tôi khiến tôi ngỡ ngàng trong bài đọc Công vụ Tông đồ hôm nay là việc những người Samari đón nhận lời giảng của ông Philipphê và sau đó tiếp đón ông Phêrô và ông Gioan khi các Người đến để xem chuyện gì đang xảy ra tại Samari. Người Samari và người Dothái là những cừu địch không đội trời chung; vậy mà, người Samari chấp nhận những nhà giảng thuyết đến từ Giê-ru-sa-lem và cả Đức Giêsu mà các ông rao giảng.

Hãy hình dung xem cộng đoàn Kitô hữu gốc Dothái buổi đầu đã phải làm sao để thích nghi với những Kitô hữu gốc Samari ở giữa họ! Chẳng phải Gioan (cùng với Giacôbê) là những người đã muốn Đức Giêsu gọi lửa từ trời thiêu cháy làng Samari đã dám từ chối đón tiếp các ông hay sao (Lc 9,4)? Tin mừng trong câu chuyện này là việc thù địch cũ nay được hiệp nhất nhờ tin vào Đức Kitô. Sự khoan dung và hòa giải là hoa trái của sự hiện diện của Thần Khí ở giữa các Kitô hữu tiên khởi–nhưng, hãy hy vọng, không chỉ “người xưa”, mà cho cả chúng ta nữa!

Theo lối nhìn cực đoan của người Dothái, người Samari là người ngoại giáo; nhưng Thiên Chúa nhất định tặng ban ân sủng nhưng không cho những người trước đây đã bị loại trừ. Những người xa lạ giờ đây thành thân thiết. Tất cả đều được Thiên Chúa chọn để nhận lãnh ân ban của Chúa và trở thành anh chị em với nhau qua phép rửa họ lãnh nhận. Điều Đức Giêsu hứa trong bài Tin Mừng hôm nay đã được ứng nghiệm - Đấng Bảo Trợ, Thần khí Sự thật đã được ban cho chúng ta. Bây giờ tất cả chúng ta là anh chị em trong Đức Kitô - không còn là trẻ mồ côi nữa nhưng là con cái Thiên Chúa. Trong cộng đoàn chúng ta không có ai là “người ngoài”; không ai là “người đến sau”, hay giáo dân hạng hai nữa..

Khi nhìn xung quanh cộng đoàn sáng nay, có ai bị chúng ta hay giáo dân trong xứ đã xem là người Samari, những người ít tham gia cầu nguyện với chúng ta nhất? Nhưng họ đang ở ngay đây! Chúng ta không thể coi như không có, đặc biệt nếu họ, giống như những người Samari, tỏ cho thấy dấu chỉ của một đời sống của Thần khí. Chúng ta phải hoan nghênh và trân trọng lẫn nhau; không ai là hèn kém hơn trong mắt Thiên Chúa, trong cộng đoàn của chúng ta cũng vậy. Thánh Phêrô hôm nay mời gọi chúng ta “hãy sống ngay chính trong Đức Kitô”. Chúng ta có thể làm gì để sống tốt hơn trong vai trò là một Kitô hữu, với những khác biệt của quá khứ và hiện tại, nếu như đó không phải là được hiệp nhất như một cộng đoàn các môn đệ Đức Kitô?

Một “vấn đề” trong bài đọc sách Công vụ Tông đồ hôm nay sẽ làm cho những người giữ đạo cách sốt sắng phải bối rối. Vấn đề này xuất hiện trong phần thứ hai (8,14-17); nói về phép rửa và ân huệ của Thánh Thần. Các Kitô hữu chính thống hơn yêu cầu một Phép rửa của Thánh Thần để hoàn tất Phép rửa. Các Kitô hữu sơ khai đã thấy Thần Khí đang hoạt động qua những dấu chỉ rất rõ bên ngoài (nói tiếng lạ, xuất thần,…) Vì vậy, họ đòi được thấy những dấu chỉ này như là chứng thực cho sự hiện diện của Thánh Thần. Thánh Phaolô đã phải đắn đo về việc làm sao để nói về những kiểu diễn tả Thần Khí của cộng đoàn Côrintô. Trong khi khen ngợi những ân huệ này, Người cũng cho thấy họ gây ra ganh đua, bè phái và chia rẽ Hội thánh thế nào. Hãy nhớ Người đã nhấn mạnh trong thư gửi tín hữu Côrintô: “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến (1Cr 13,13)”. Trong truyền thống Giáo hội, chúng ta có thể nhận thấy việc các tông đồ đặt tay trên những người Samari và cầu nguyện để Thần Khí xuống trên họ là hình ảnh tiên trưng của việc cử hành Bí tích Thêm sức.

Bài Tin Mừng hôm nay chọn lọc từ “Diễn từ ly biệt” của Đức Giêsu nói với các môn đệ trong đêm trước khi Người chết. Người chuẩn bị cho cuộc ra đi của mình. Người nói với họ: nếu yêu mến Người thì họ hãy giữ các điều răn của Người. Đó là điều bạn mong muốn một lãnh đạo tôn giáo nói trước lúc ra đi: “Đây là nguyện ước và lời chúc cuối cùng của tôi”. Hoặc “Đây là những lời cuối tôi nói với anh chị em – xin đừng quên!” Nhưng tôi muốn hỏi, “Đâu là sách những điều răn mà Đức Giêsu để lại? Hãy lật ra và kiểm tra xem chúng ta đã thực hiện thế nào”.

Thật sai lầm khi nghĩ rằng, chỉ trước lúc rời khỏi các môn đệ, Đức Giêsu mới đưa ra những giáo huấn cho các tông đồ. Đó không phải là cách Người đã sống cả đời với các ông. Chúng ta không có một quyển cẩm nang để nhớ về Người và để chỉ dẫn chúng ta. Chúng ta có danh sách các lối ứng xử của thích hợp của học sinh khi còn ở tiểu học. Có lẽ bây giờ, trong công việc, chúng ta có một danh mục những quy định và hướng dẫn mà nhân viên phải tuân theo nếu họ muốn tiếp tục làm việc. Nhưng chúng ta không có thứ sách luật về Đức Giêsu. Chúng ta biết Người muốn chúng ta yêu thương người khác như Người yêu thương chúng ta; tha thứ và hy sinh cho những người cần chúng ta — ngay cả khi họ không xứng đáng — như thế là Người ở với chúng ta. Làm sao quý vị có thể viết điều đó vào quyển sách cẩm nang hoặc viết điều đó vào danh sách các điều răn? Đức Giêsu mời gọi chúng ta làm hơn những gì luật đòi hỏi. Luật quy định những điều tối thiểu chúng ta phải giữ. Nhưng tình yêu của Đức Giêsu phá đổ những luật lệ trói buộc và cho chúng ta được tự do yêu thương - ngay cả kẻ thù của chúng ta.

Lúc tôi viết những điều này thì người dân Hoa Kỳ đang mừng vui vì cái chết của Osama bin Laden. Ông là một người dễ sợ, đã gây đau khổ cho hàng chục ngàn sinh mạng - đó là những nạn nhân của ông, người thân yêu của các nạn nhân và những người phải chịu đựng các cuộc xung đột chiến tranh, những hành động bạo lực là hậu quả từ những hành động ông gây ra. Tôi ở New York vào ngày 11-09 và từ phía bên kia thành phố quý vị có thể thấy và cảm nhận được những toà nhà đang cháy cùng với con người và những gì bên trong toà nhà ấy. Giáo xứ tôi đã tổ chức 25 thánh lễ an táng trong những tuần lễ đó.

Trong một blog gần đây dành cho tạp chí “America”, (đăng ngày 02-05-2011) Jame Martin, S.J. đã chia sẻ ký ức của ông về việc mục vụ cho những người sống sót, các gia đình của nạn nhân, nhân viên cứu hộ và nhân viên y tế bên cạnh Trung tâm Thương mại Thế giới. Ông nói điều đó trong khi ông “không mù quáng đối với cái chết và lời tuyên bố do Osama bin Laden gây nên”, chúng ta là người Kitô hữu đang mừng mùa Phục Sinh khi Đức Kitô, một nạn nhân vô tội của bạo lực, đã trỗi dậy từ cõi chết. Đức Giêsu mời gọi chúng ta tha thứ, “không phải chỉ bảy lần…. nhưng bảy mươi lần bảy.” Nói cách khác, sự tha thứ không đòi hỏi số lần và thời gian. Cũng không chỉ dành cho một ít người nhưng cho tất cả mọi người.

Sự tha thứ là đức tính khó nhất, nhưng là trách nhiệm quan trọng đối với tất cả Kitô hữu. Bin Laden đã bị giết vào ngày Đức Gioan Phaolô II được tôn phong chân phước. Lúc đức Thánh Cha xuất viện sau khi bị ám sát, ngài đã đến nhà tù thăm Mehmet Ali Agca, một thành viên thuộc nhóm quá khích Thổ Nhĩ Kỳ đã cố ý ám sát Người, để gửi đến anh sự tha thứ. Hình ảnh Đức Gioan Phaolô II nói chuyện với Mehmet trong nhà tù trở thành biểu tượng của của lòng khoan dung cho mọi người thuộc mọi niềm tin.

Chúng ta an tâm rằng Bin Laden không còn là mối đe doạ cho những người vô tội khác, nhưng Martin nhắc nhớ rằng: là Kitô hữu chúng ta được mời gọi cầu nguyện cho ông và cuối cùng là tha thứ cho ông ta. Thật không dễ mà làm theo lời dạy đó. Chính Đức Giêsu đã không vô cảm trước bạo lực; nhưng Người đã tha thứ cho những người gây đau khổ cho Người. Đức Giêsu biết những gì Người đòi hỏi nơi các môn đệ. Tự sức mình, chúng ta không bao có thể thực thi những lời dạy của Đức Giêsu – nhất là giáo huấn về việc tha thứ.

Nhưng hôm nay, Người cho biết là Người không rời bỏ chúng ta và một ngày nào đó sẽ trở lại để xem chúng ta sống những lời dạy của Người như thế nào. Thay vì thế, Người nói với các môn đệ “Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em”. Người hứa ban cho họ “Đấng Bảo Trợ khác”. Trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu là Đấng Bảo Trợ đầu tiên được Thiên Chúa gửi đến. Bây giờ, Người nói với chúng ta Đấng tiếp theo là Đấng Bảo Trợ khác sẽ được trao ban, “Thần Khí Sự thật”, -- là Thánh Thần. Thần Khí sẽ là sự hiện diện của Đức Giêsu giữa chúng ta. Soi sáng cho chúng ta hiểu những lời của Đức Giêsu; nói cho chúng ta biết và giúp ta có thể sống như Người đã sống - như là những con cái của Thiên Chúa Tình Yêu mà Đức Giêsu đã mạc khải cho chúng ta.

Tình yêu mời gọi và giúp chúng ta bước theo con đường của Đức Giêsu. Thần Khí mà Đức Giêsu gửi đến cho chúng ta, đã đổ tràn trên chúng ta ý thức về tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta và lan tràn đến những anh chị em xung quanh - cả những kẻ thù của chúng ta. Người khác sẽ nhận biết từ cuộc của chúng ta những dấu chỉ về sự hiện diện của Thần Khí. Làm thế nào những dấu chỉ ấy có thể diễn tả rõ ràng hơn con đường tình yêu và tha thứ mà chúng ta sống?

Tuần sau là Lễ Đức Giêsu Về Trời. Cuộc ra đi Người đã chuẩn bị cho các môn đệ đến lúc diễn ra. Trước tiên, các ông sẽ thấy thiếu vắng Người. Sau khi Người ra đi, họ sẽ phải tất bật và phải sống cuộc đời Người đã chỉ dạy; nhưng không phải trước khi nhận lãnh món quà Đấng Bảo Trợ mà Người đã hứa ban. Trong Tin Mừng Gioan, sự việc này diễn ra lúc Người hiện đến với họ trong phòng tiệc ly sau cuộc phục sinh. Mỗi người biết chúng ta cần đến Thần Khí ấy biết bao, khi chúng ta sẽ diễn tả sự sống phục sinh của Đức Giêsu cho thế giới này. Vì vậy, đang khi mong chờ Chúa Thánh Thần hiện xuống, chúng ta hãy cầu nguyện với tư cách cá nhân và Giáo hội rằng: “Lạy Thánh Thần, xin ngự đến !”

Chúng ta những Kitô hữu, nhất là người Công Giáo, có dường như né tránh dùng từ ngữ “rao giảng Tin Mừng”, “làm chứng”, “chứng tá”,… Chúng có vẻ như hiện “ngay trên mặt.” Đó là điều chúng ta trông mong vào các nhóm tôn giáo chính thống nào đó. Ấy thế mà, hoa trái về sự hiện diện của Thần Khí sẽ biến đổi chúng ta thành chứng nhân về cuộc đời, cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu. Hôm nay tôi thấy lời khuyên của thánh Phêrô gửi các Giáo hội gốc Dân ngoại thật hữu ích khi ngài chỉ dạy họ: “Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em, nhưng phải trả lời với sự hiền hoà và với sự kính trọng…”

Thánh Phêrô biết Đức Giêsu thực hiện lời hứa ban Thánh Thần bởi vì Người có thể biết về sự hiện diện của Thần Khí nơi các Kitô hữu gốc Dân ngoại mà Người viết thư cho. Lời chỉ bảo của Người dành cho họ và cho cả chúng ta là sống sao cho khiến người khác phải thắc mắc về niềm tin của chúng ta. Giả định rằng cuộc sống của chúng ta phải đủ khác biệt để khơi lên những thắc mắc. Cách trả lời của chúng ta phải là sự trân trọng hoà nhã dành cho những người chất vấn.

Vì vậy, khi Osama bin Laden bị giết và chúng ta được hỏi về điều đó, chúng ta trả lời ra sao ? Hôm nay, tôi nghe một phụ nữ được phỏng vấn từ London. Cô có trong vụ đánh bom Xe điện ngầm London vào năm 2005 làm 50 người thiệt mạng. Cô nói cô vui mừng vì những người khác có thể tha thứ cho những điều khủng khiếp tương tự như sự việc cô đã trải qua. Tuy nhiên, cô nói thêm rằng, tất cả sống là hy sinh, ngay cả ông ta (Osama bin Laden). Vì vậy, cô nói sẽ không bao giờ vui mừng vì cái chết của một người khác, ngay cả cái chết của Osama bin Laden. Đây quả là một câu trả lời đầy thách thức. Đó là tiếng nói của Thần Khí Sự Thật. Thần Khí Đức Giêsu hứa gửi đến dẫn dắt chúng ta !

 

Lm. Jude Siciliano, O.P.

Hãy trở thành “kitô hữu chính danh”

Cv 8,5-8.14-17; Tv 66 ; 1 Pr 3,15-18; Ga 14,15-21

Kính thưa quý vị,

Nào hãy bắt đầu phần suy niệm của chúng ta. Xem ra không có gì để chia sẻ về bài Tin Mừng hôm nay cả. Tuy nhiên, ngẫm nghĩ kỹ hơn, bài Tin Mừng có thể mở ra cho chúng ta vài điểm suy tư. Làm thế nào trở thành một “người hâm mộ bóng chày cuồng nhiệt” nhỉ? Có người sẽ nói rằng, “người hâm mộ cuồng nhiệt” là người đều đặn theo dõi các buổi phát sóng các trận đấu trên TV; họ cố gắng sắp xếp để đi xem những trận đấu của đội mà họ yêu thích, thậm chí họ còn mua vé cả mùa luôn. Và dù khi không đi xem được, họ cũng sẽ đội mũ, mặc áo đồng phục của đội họ hâm mộ; lúc theo dõi trận đấu, một số người còn vẽ lên mặt những màu sắc đặc trưng của đội tuyển. Một “người hâm mộ cuồng nhiệt” sẽ nhào ngay lên mạng internet hoặc các trang tin tức thể thao hằng ngày để xem tình hình đội tuyển, rồi kiểm tra kết quả đánh trúng bóng của những cầu thủ mà họ yêu thích. Có người thậm chí còn lấy tên đội tuyển đặt cho thú cưng của mình, ví dụ như: “Lại đây nào Dodger!”, “Lộn vòng đi Ranger!” Phải chăng những đặc điểm trên đây là phẩm chất đặc trưng của một “người hâm mộ cuồng nhiệt?”

Chúng ta thử áp dụng một câu hỏi tương tự cho niềm tin của chúng ta. Điều gì giúp cho một người có thể trở thành một “Kitô hữu chính danh?” Đâu là những thực hành hằng ngày họ phải tuân giữ? Họ buộc phải có hiểu biết căn bản nào? Những câu hỏi này cùng nhiều câu hỏi tương tự khác, sẽ tạo nên những chủ đề thảo luận thú vị cho một lớp thông tin hay một nhóm các thành viên mới, những người đang khởi đầu năm RCIA[1] (nghi thức khai tâm Kitô giáo dành cho người lớn) của họ. Tất nhiên, có những tiêu chuẩn và niềm tin nền tảng mà những người Kitô hữu chúng ta buộc phải có. Tuy vậy, có một dấu hiệu phân biệt mà mỗi Kitô hữu phải có để trở thành một “Kitô hữu chính danh”, dấu hiệu đó đã được Đức Giêsu chỉ ra trong bài Tin Mừng hôm nay, đó là: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy.”

Đó là niềm tin của chúng ta, niềm tin đã được Đức Giêsu tóm kết ngắn gọn để bất kỳ ai cũng có thể sử dụng và noi theo. Thế nào là một “Kitô hữu chính danh”? Thưa rằng, đó là người yêu mến Đức Giêsu, yêu mến cách thức Đức Giêsu dạy bảo để sống trong trần thế, đồng thời sẵn sàng đem ra thực hành những gì mà Người truyền dạy.

Rất nhiều người ngưỡng mộ Đức Giêsu, nhưng họ chưa bao giờ cùng chúng ta tôn thờ Người. Chúng ta biết rõ về họ, vài người trong số đó là những người thân trong gia đình và bạn bè của chúng ta. Họ ngưỡng mộ Đức Giêsu, thậm chí còn tổ chức kỷ niệm những biến cố quan trọng trong cuộc đời của Người như lễ Giáng Sinh và lễ Phục Sinh. Tuy nhiên, ngưỡng mộ một người không có nghĩa là yêu mến người ấy và làm cho đời sống của mình phản chiếu tình yêu đó. Và việc “tuân theo” mà Đức Giêsu đòi hỏi nơi chúng ta được tóm kết thế này: đó là chúng ta tuân giữ những điều răn của Người. Từ mẫu gương và lời nói của Đức Giêsu, chúng ta biết được rằng, “những điều răn” của Người chính là những điều răn yêu thương.

Đức Giêsu không nói cách thức chúng ta cảm nhận về người khác. Làm sao Người có thể đòi buộc chúng ta “cảm thấy” yêu mến người khác? Làm sao chúng ta có thể duy trì một thứ cảm giác như thế với những người mà chúng ta không biết hoặc biết quá ít, những người không phải là người thân của mình? Với những người mà chúng ta thực sự yêu quý, luôn luôn yêu thương trong mọi hành động đã là cả một nỗ lực xuyên suốt cuộc đời. Vậy thì, làm sao chúng ta có thể có cảm xúc và thể hiện những cảm xúc đó với những người không quen biết, thậm chí là kẻ thù nữa? Giáo huấn của Đức Giêsu không chỉ đơn thuần là việc ưa thích một người nào đó. Đúng hơn, Người muốn chúng ta phải thực hiện một hành động của ý chí và thực hiện những việc có ích cho người khác. Giáo huấn của Đức Giêsu cũng không phải là việc yêu thích mọi người, bởi vì tôi không biết gì về anh, nên tôi không ưa thích anh!

Vốn chỉ là những con người bình thường với một bản danh sách trong đầu về những người mà chúng ta yêu thương, quý mến, cùng những người mà chúng ta không ưa, làm thế nào chúng ta có thể sống xứng đáng với điều răn yêu thương của Đức Giêsu? Chúng ta hoàn toàn biết câu trả lời cho câu hỏi này rồi: chỉ bởi sức mình, chúng ta không thể. Tuy nhiên, hôm nay Đức Giêsu đã hứa với chúng ta nhiều điều rằng, Người sẽ ban những ơn cần thiết để chúng ta có thể thực hiện điều đó.

Trong Tin Mừng thánh Gioan, Lễ Ngũ tuần diễn ra khi Đức Giêsu Phục Sinh thổi Thần Khí vào cộng đoàn những kẻ tin đang ẩn núp sau những cánh cửa khóa kín (20,19-23). Thánh Thần mà Đức Giêsu hứa ban sẽ lo liệu những ơn cần thiết để người môn đệ tiếp tục sứ mệnh của Đức Giêsu, cách đặc biệt là sứ vụ yêu thương trần thế như Đức Giêsu đã yêu thương. Thánh Thần sẽ đến từ Thiên Chúa nhờ lời thỉnh cầu của Đức Giêsu (“Thầy sẽ xin Chúa Cha”) và Người sẽ thay thế Đức Giêsu như một “Đấng Bào Chữa khác.” Đấng Bào Chữa này, Đấng thay thế cho Đức Giêsu, sẽ làm những gì mà Đức Giêsu đã làm cho các môn đệ, Người sẽ là bạn đồng hành, an ủi và trợ giúp họ. Đức Giêsu sẽ sớm ra đi, nhưng Thánh Thần mà Người gởi đến sẽ không bao giờ rời bỏ chúng ta, bởi lẽ: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi.”

Thánh Gioan không phân định rạch ròi sự khác biệt giữa giáng lâm của Thánh Thần với quang lâm lần thứ hai của Đức Kitô. Điều rõ ràng ở đây là Đức Giêsu đã ban Thánh Thần cho chúng ta. Vì thế, Thánh Thần ở cùng chúng ta, và Đức Giêsu cũng vậy, và sau đó, Người sẽ nói cho chúng ta biết, chính Người và Chúa Cha sẽ đến và ngự trong tâm hồn những ai yêu mến Người (c.23).

Khi bước vào một ngôi nhà cảm thấy vắng vẻ, chúng ta có thể kêu lên rằng: “Có ai ở nhà không?” Thỉnh thoảng chúng ta cảm thấy rất cô đơn trong một ngôi nhà rộng lớn và trống rỗng, nhất là khi trải qua một giai đoạn khó khăn. Trong sự tuyệt vọng và thiếu thốn đó, chúng ta có thể sẽ gào lên rằng: “Có ai ở đây với tôi không?” Theo lời hứa của Đức Giêsu hôm nay, nếu chúng ta biết chăm chú lắng nghe, chúng ta có thể nghe được tiếng của Chúa Cha và Người Con cùng Thánh Thần đáp lại: “Đừng sợ, chúng ta đang ở đây với con.”

Chúa Nhật trước, chúng ta đã được nghe lời than phiền của “các tín hữu Do Thái theo văn hoá Hy Lạp” (những người Do Thái nói tiếng Hy Lạp) rằng, các bà goá của họ bị “các tín hữu Do Thái bản xứ” (những người Do Thái nói tiếng Aram) bỏ quên trong việc phân phát lương thực hằng ngày. Nhóm Mười Hai đã yêu cầu cộng đoàn chọn ra bảy người có tiếng tốt để thi hành bổn phận phân phát lương thực.

Hôm nay, ông Philipphê, một trong bảy người “có tiếng tốt” đã được chọn ấy, là một mẫu gương của thánh Luca về cách thức mà thông điệp của Đức Kitô được nhanh chóng lan truyền ra khỏi miền Giuđê tới tận miền Samari, nơi người Do Thái xem là vùng đất của lạc giáo. Đức Giêsu đã hứa rằng, chính Người cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần sẽ cư ngụ trong cộng đoàn các tín hữu. Nhưng những môn đệ khác đã không có mặt sau những cánh cửa đóng kín, an toàn và thoải mái ấy. Thay vào đó, sau cuộc tử đạo của ông Stêphanô, Giáo hội đã phải trải qua “cơn bách hại dữ dội” (Cv 8,11) và đã bị tản mác khắp nơi. Ông Philipphê, một trong những người bị trục xuất khỏi thành Giêrusalem, đã đi tới Samari và rao giảng Tin Mừng cho dân cư ở đó. Ngày nay, chúng ta đều biết đến sự thành công của ông. Bởi lẽ, “trong thành, người ta rất vui mừng.” Ông Philipphê là một chứng nhân cho lời hứa của Đức Giêsu:“Thầy sẽ không để anh em mồ côi, Thầy đến cùng anh em.” Đó là kinh nghiệm những nhà giảng thuyết tiên khởi có được; họ không cậy dựa sức mình khi đi rao giảng ở những vùng đất xa lạ.

Vì được toàn thể cộng đoàn Kitô hữu Do Thái đáp lại, nên những lời rao giảng của ông Philipphê như là một dấu chỉ cho thấy họ là những “Kitô hữu chính danh.” Họ yêu mến Đức Giêsu và giữ các điều răn của Người là yêu thương tha nhân, khi gác sang một bên sự chia rẽ và đối đầu kéo dài suốt bao thế hệ, vốn đã chia cắt người Do Thái và người Samari. Ông Philipphê đích thực là người rao giảng Tin Mừng. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc nhở chúng ta rằng, mỗi người Kitô hữu được rửa tội phải là một người rao giảng Tin Mừng trong chính các tác vụ của mình.

“Mỗi Kitô hữu và mỗi cộng đoàn phải nhận ra con đường mà Chúa chỉ dẫn, nhưng tất cả chúng ta phải vâng theo tiếng gọi của Người là ra đi từ vùng đất tiện nghi của mình để đến với mọi người ở những vùng ‘ngoại vi’ đang cần ánh sáng Tin Mừng.” (Niềm vui của Tin Mừng, số 20).

Hôm nay, thánh Phêrô trao cho chúng ta, những người rao giảng Tin Mừng, lệnh truyền lên đường rằng: “Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em. Nhưng phải trả lời cách hiền hoà và với sự kính trọng...”

 


 

[1]     RCIA (The Rite of Christian Initiation of Adults): Nghi thức khai tâm Kitô giáo dành cho người lớn. Tiến trình gia nhập Kitô giáo gồm nhiều chặng: (a) thời kỳ dự tòng có thể kéo dài nhiều năm; (b) thời kỳ khai sáng (chuẩn bị gần, thường là vào đầu Mùa Chay); (c) nghi thức lãnh ba bí tích khai tâm (Rửa tội, Thêm sức, Thánh Thể) thường vào Vọng Phục sinh; (d) thời kỳ huấn giáo về nhiệm tích (GLCG, số 1229-1233).