HOME

 
 

 Phần 3 :  
“Tinh thần th́ hăng say
nhưng thể xác lại yếu hèn” (Lc 26,41).


8

Con có yêu mến Thầy không ?

Suy niệm Ga 21, 15-19.

 

 

Với những ḍng suy niệm này, người viết muốn đặt ḿnh trong mối tương quan ngôi vị với Đức Giêsu, Đấng đă mời gọi và chọn lựa ḿnh làm môn đệ của Người. Mối tương quan ngôi vị này chính là nền tảng diễn tả trọn vẹn cuộc sống. Ngạn ngữ có câu : “Bạn hăy cho tôi biết bạn tương quan với ai, tôi sẽ cho bạn biết bạn là người thế nào”. Tương tự như vậy, ta cũng có thể nói : “Bạn hăy cho tôi biết mối tương quan của bạn với Đức Giêsu thế nào, tôi sẽ cho bạn biết  bạn là ai”.

Đối với người linh mục, mối tương quan này càng hệ trọng hơn nữa, đó là lời chất vấn trong mọi hành vi của cuộc sống, là lời mời gọi đáp trả liên lỷ, và là chính sự thành toàn của cuộc đời dâng hiến.


Lời chất vấn trong mọi hành vi cuộc sống

Có lẽ đă hơn một lần chúng ta được nghe lời công bố của Đức Giêsu : “Tôi đến không phải để mang b́nh an, mà là mang gươm giáo. Từ nay, những người trong cùng một gia đ́nh nổi lên chống lại nhau, con trai chống lại cha, nàng dâu chống lại mẹ chồng ...” (Mt 10,34-36).

Những ai đă một lần gặp gỡ Đức Giêsu, được Người cảm hoá, th́ họ bắt đầu một cuộc sống với những giằng co, chất vấn. Họ phải đấu tranh để không thoả hiệp với những ai hoặc những ǵ ngăn cản họ đến với Chúa, cho dù đó là những người thân cận nhất, những tài sản quư báu nhất ... Ta có thể gọi tên đây là một cuộc chiến đấu nội tâm. Sự căng thẳng này không phải chỉ xảy ra với những chọn lựa bên ngoài, nhưng là ngay với những chọn lựa sâu thẳm trong ḷng ḿnh. Những ai theo Đức Giêsu đều phải chiến đấu từng giờ từng phút để chọn lựa những giá trị siêu việt, những giá trị của Tin mừng, mà có khi những giá trị ấy đi ngược với những ham muốn của ta, đụng chạm đến những ǵ tinh tế, sâu thẳm nhất của trái tim, của những ngóc ngách trong tâm hồn. Có những chọn lựa làm ta đau đớn, mất mát, thua thiệt, và nhiều khi bị xă hội tẩy chay, loại trừ. Đúng như lời Đức Giêsu đă nói : “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ ḿnh, vác thập giá ḿnh hằng ngày mà theo” (Lc 9,23).

Lời Đức Giêsu hỏi Tông đồ Phêrô, cũng chính là lời Chúa ngỏ với từng người môn đệ hôm nay, ngỏ với người linh mục của Chúa : “Con có yêu mến thầy không ?” Câu trả lời không phải chỉ là Co hoặc là Không, mà là chấp nhận cả một hệ lụy, chấp nhận “dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn
(Ga 21,18). Bởi thế, những ai đang theo Đức Giêsu, sẽ chẳng lạ ǵ khi thấy đời ḿnh căng thẳng măi, phải chiến đấu măi, phải chọn lựa măi, bị “khủng bố” măi, bị chất vấn măi ... Sống trọn vẹn những căng thẳng, chiến đấu, chọn lựa, khủng bố và chất vấn ấy, chính là cách thức người môn đệ trả lời câu hỏi của Đức Giêsu : “Thầy biết con yêu mến Thầy”. Chỉ khi nào câu trả lời ấy được thốt ra từ chính tấm ḷng, th́ lúc ấy, người linh mục mới có thể đi vào hành tŕnh trở nên người môn đệ của Đức Giêsu.

Rồi đây, ước sao người linh mục của Chúa cũng trở nên như  một Giêsu ung dung tự tại giữa cuộc đời, rong chơi với muôn người, và thiết tha làm chứng cho Nước trời ngay trong chính ṿng xoay điên cuồng của cuộc sống, một cuộc sống c̣n đang nặng nợ với cơm áo gạo tiền của con người thời đại hôm nay.


Lời mời gọi đáp trả liên lỷ

Đức Giêsu hỏi tông đồ Phêrô : “Con có yêu mến Thầy không ?” Người không hỏi một lần, không hỏi hai lần, mà là hỏi liên tiếp đến ba lần. Cũng vậy, lời Đức Giêsu chất vấn người linh mục : “Con có yêu mến Thầy không ?”, không phải chỉ là lời chất vấn lúc khởi đầu cuộc đời linh mục, cũng không phải chỉ là lời chất vấn khi người linh mục có nguy cơ xao lăng “t́nh yêu của thuở ban đầu”, mà đó là lời chất vấn, lời mời gọi đáp trả liên lỷ trong cả cuộc sống.

Người linh mục được mời gọi đáp trả : “Thầy biết con yêu mến Thầy” trong từng cung cách ứng xử với anh chị em ; “Thầy biết con yêu mến Thầy” trong từng Bí tích cử hành, từng Thánh lễ dâng mỗi ngày trên bàn thờ ; “Thầy biết con yêu mến Thầy” trong từng “thánh lễ” cử hành trong cuộc sống, đó là sự hy sinh, sự tha thứ, ḷng bao dung, ḷng nhiệt huyết…

Đáp trả lời mời gọi của Đức Giêsu c̣n là dơi bước theo Người, là rập theo nhân cách của Người, là để Người đánh bật tận gốc rễ cuộc đời của ta.

Cuối cùng, đáp trả lời mời gọi của Đức Giêsu c̣n là sống như chính Người đă sống. Đức Giêsu có một năng lực thu hút kỳ diệu, có một nội lực phi thường : Người hoà đồng với mọi người nhưng không đồng hoá với họ, không để ḿnh nhiễm tật xấu, trái lại, Người cảm hóa họ, biến đổi con người họ. Một ngày kia khi lên thiên đàng, chắc chúng ta sẽ ngạc nhiên lắm, v́ trên đó không thiếu thành phần nào : trộm cướp, giết người, nghiện hút, gái điếm ... thôi th́ đủ mặt những tay anh hùng phá gia chi tử. Những kẻ chúng ta nghĩ rằng họ đă bị đày xuống chín tầng địa ngục, nào ngờ vẫn ngồi chỗm chệ trong ḷng cụ tổ Abraham !

Những điều chúng ta tưởng tượng trên có quá đáng lắm không ? Thực ra, Tin mừng c̣n cho chúng ta thấy những điều kỳ diệu hơn thế nữa. Kẻ vào nước trời đầu tiên chẳng phải tên cướp đó sao ? Cô gái điếm đă chẳng ôm chân Người, lấy dầu thơm mà xức, xoă tóc mà lau (Mt 14,3 - 9; Lc 7, 36 - 38) ? Chẳng phải thằng con trời đánh từng bỏ cha mà đi, chơi bời phung phí hết tiền của, lúc sống dở chết dở ḅ về, lại được cha đón tiếp nồng hậu, ôm lấy cổ nó mà hôn chùn chụt, mở tiệc ăn mừng (Lc 15, 14 - 32) ?

Sống như Đức Giêsu đă sống là biết sống hết ḿnh, yêu thương hết ḿnh, tha thứ hết ḿnh. Đức Giêsu đă dám sống đến cùng tận kiếp người và cũng dám chết như  một lời chứng tá ; đó phải là gương mẫu cho lời đáp trả liên lỷ của người linh mục Chúa Kitô hôm nay.


Sự thành toàn của cuộc đời dâng hiến

Đích điểm hay sự thành toàn của đời sống dâng hiến chính là đức ái trọn hảo. Thế nhưng không thể đạt đến đức ái trọn hảo, nếu không đặt ḿnh trong mối tương quan với Đức Giêsu Kitô. Mối tương quan ấy giúp con người sống t́nh con thảo, v́ trong Người, mỗi chúng ta đều trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa. [1]

Trong Tin mừng, đặc biệt trong các thư của thánh Phaolô gởi giáo đoàn Rôma và Galát, chúng ta thấy người Kitô hữu được ban ân sủng để vượt qua chế độ lề luật, sống chế độ ân sủng, sống sự tự do hào hùng của con cái Chúa. Thánh Phaolô khẳng định : “Tội lỗi sẽ không c̣n quyền chi đối với anh em, v́ anh em không c̣n lệ thuộc vào lề luật, nhưng lệ thuộc vào ân sủng”.[2]

Trong chế độ ân sủng, điều cao quư hơn cả là con người được đồng thừa tự với Đức Kitô, được lănh nhận Thần Khí để trở nên nghĩa tử, nên con cái Thiên Chúa :

Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đă sai Thần Khí của Con ḿnh đến ngự trong ḷng anh em mà kêu lên : Áp-ba, Cha ơi ! Vậy anh em không c̣n phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đă là con, th́ cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa”.[3]

Một khi được lănh nhận Thần Khí để trở nên con cái Thiên Chúa, chúng ta được tự do. Đó không phải chỉ là thứ tự do đối với tội lỗi, nhưng c̣n là tự do với những ràng buộc của lề luật,[4] tự do với những thế lực trần gian. Khi đặt ḿnh vào mối tương quan này với Thiên Chúa, con người đứng thẳng, không sợ hăi, không sống như tên nô lệ trong nhà chủ, nhưng là con cái trong nhà. Lúc này sự sợ hăi được thay thế bằng ḷng yêu mến, h́nh thức sống đạo nệ luật hoặc theo kiểu “vay - trả” được thay thế bằng thái độ sống đức tin trong sự tín thác và đặt mọi mối tương quan trong t́nh bác ái. Thần Khí sẽ dẫn con người đến những chân trời tự do đích thực ;[5] và chỉ trong tự do, thứ tự do hào hùng của con cái Thiên Chúa, con người mới có thể băng ḿnh lên cao, vượt qua được những rào cản của đầu óc chật hẹp, những thứ luân lư uư kỵ, những kiểu sống đạo luồn lách, tính toán, hay thái độ sợ hăi co cụm … Trong nhà Cha, con người t́m lại được vị thế cao trọng của ḿnh, vị thế là con chứ không phải nô lệ : “Quả thế, thưa anh em, anh em đă được kêu gọi để hưởng tự do. Có điều là đừng lợi dụng tự do để sống theo tính xác thịt, nhưng hăy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau” (Gl 5,13).

Như vậy, tất cả luật lệ chỉ c̣n là phương tiện để đạt đến đức ái, mà đức ái trọn hảo là chính Thiên Chúa. Đức ái trở thành đích điểm, và cuộc đời mỗi người chỉ nên trọn khi đạt đến đức ái vẹn toàn. Thiên Chúa đă có kế hoạch cho cuộc đời của mỗi người ; sự quan pḥng của Người không miễn trừ cho con người khỏi phải lên đường khám phá. Ơn cứu độ là quà tặng nhưng không, nhưng Thiên Chúa vẫn mời gọi con người tự do đón nhận hay khước từ. Thánh Augustinô nói : “Chúa dựng nên ta không cần có ta, nhưng Người sẽ không cứu ta nếu không có ta cộng tác”.

Chúng ta có thể cộng tác với Thiên Chúa bằng nhiều cách thức, nhưng thiết nghĩ, một trong những cách thức cộng tác tích cực với Thiên Chúa là lắng nghe tiếng Người và khám phá ra kế hoạch của Người trên cuộc đời ta. Khám phá ra kế hoạch của Thiên Chúa trên cuộc đời ḿnh và đặt tất cả cuộc đời ấy trong mối tương quan với Chúa Giêsu, là lúc người linh mục đang nỗ lực trả lời câu hỏi của Người : “Con có yêu mến Thầy không ?” Ước ǵ ở tận giây phút cuối cùng của cuộc hành tŕnh, người linh mục vẫn có thể thốt lên : “Thầy biết hết mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”.


Kết luận

Thánh Phêrô đă trả lời khẳng khái và quyết liệt trước sự chất vấn của Thầy : “Thầy biết mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Câu trả lời ấy thánh nhân đă diễn tả ra bằng trọn vẹn cuộc sống ; và điều cụ thể nhất là ngài cần mẫn chăm sóc đoàn chiên, “lo lắng cho họ không phải v́ miễn cưỡng, nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải v́ ham hố lợi lộc thấp hèn, nhưng v́ ḷng nhiệt thành tận tuỵ. Không dùng quyền mà thống trị những người được Thiên Chúa trao phó, nhưng nêu gương sáng cho đoàn chiên” (1Pr 5, 1-4).

Được mời gọi trả lời cùng một câu hỏi như thánh Phêrô, người linh mục hôm nay cũng hoạ lại nơi ḿnh h́nh ảnh người mục tử mà thánh Phêrô đă sống. Chính khi sống hết ḿnh và chân thành như thế, người linh mục sẽ cảm nhận một niềm vui kỳ tuyệt. Những vần thơ của R. Tagore có thể giúp diễn tả phần nào niềm vui ấy :

Thế giới của Người đang dệt thành lời thơ trong tâm trí tôi,

và niềm vui của Người thêm âm điệu vào thơ ấy.

V́ thương yêu, Người cho tôi hết cả thân ḿnh

và rồi Người thấy trong tôi

trọn vẹn những ngọt ngào mà Người ban tặng”.

(R. Tagore, Gitanjali LXV).


 

[1] Xc. Phạm Quốc Văn, OP. Trên đường Emmau, 2004, tr. 116-118.

[2] Rm 6,14 tt.

[3] Gl 4, 6-7.

[4] Xc. Cv 15, 1-31.

[5] Xc. Ga 8, 31-59.