HOME

 
 

Phần 3 :  
“Tinh thần th́ hăng say
nhưng thể xác lại yếu hèn” (Lc 26,41).


8

Trước khi gà gáy, con đă chối Thầy ba lần

Suy niệm  Ga 13, 31-38.

 

Kinh nghiệm của thánh Phêrô cũng chính là kinh nghiệm của mỗi người môn đệ sau này. Chúa đă chọn thánh Phêrô, mặc dầu ông đầy bất toàn và yếu đuối ; Chúa chọn người linh mục, mặc dù bản thân người linh mục cũng chẳng hơn ǵ những người anh em của ḿnh, vẫn yếu đuối, vẫn bất trung, vẫn chối Chúa không những ba lần mà c̣n hơn thế nữa. Đối diện với những giới hạn của bản thân ḿnh, người linh mục cảm nhận rằng tất cả đều là ân ban, là quà tặng nhưng không, là t́nh yêu vô lượng hải hà của Thiên Chúa. Một khi thấy được hồng ân của Chúa, xin cho người linh mục cũng thấy được chính bản thân ḿnh.


Linh mục với sự  bất toàn, yếu đuối

Chẳng ai trong chúng ta dám tự hào là ḿnh mạnh mẽ. Hơn một lần chúng ta cảm nhận thế nào là sự yếu đuối của bản thân, có thể thất trung với Chúa bất cứ lúc nào ; thế mà, cũng chính con người yếu đuối ấy lại được Chúa kêu gọi, được chọn lựa để trở nên người linh mục của Chúa. Liệu tôi có thể chu toàn sứ mạng của người linh mục ? Liệu tôi có thể vượt qua được những yếu đuối, bất toàn của ḿnh để bớt bất xứng hơn trước t́nh thương của Chúa ?… Trước những vấn nạn đại loại như thế, xin được chia sẻ một chút tâm t́nh Phó Thác & Tin Tưởng.

Hăy yên tâm, Chính Thầy đây, đừng sợ”. Lời Chúa trấn an các môn đệ cũng là điều Chúa nói với người linh mục trong cơn thử thách, xao xuyến. Lời Chúa nhắc nhở : “Ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu rỗi”. Bền đỗ đến cùng có nghĩa là vững tin đến cùng, sống trong ơn nghĩa Chúa đến cùng. Luôn biết nh́n lên Chúa, biết cậy trông và phó thác nơi Chúa : vận mạng, tương lai, thành công, thất bại, thánh thiện, tội lỗi…, tóm lại là trọn vẹn cuộc sống.

Niềm tin sẽ giúp người linh mục vượt thắng mọi lo âu và sợ hăi. Niềm tin đó mời gọi lên đường : “Ai không vác thập giá ḿnh hằng ngày mà theo Tôi, th́ không thể làm môn đệ Tôi (Lc 14,27). Vác thập giá là mang lấy những đau khổ do hậu quả của tội lỗi (St 3,16-19), là đón nhận những yếu đuối của bản thân và biến nó trở thành thánh giá qua sự trung thành với Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến (Rm 12,1).

Tin tưởng không có nghĩa là không c̣n xao xuyến, không c̣n gục ngă. Chúng ta học kinh nghiệm này nơi thánh Phêrô, thánh nhân đă thốt ra với Chúa một lời cam kết rất tuyệt vời : “Con sẽ liều mạng sống con v́ Thầy”. Có người cho rằng thánh Phêrô bốc đồng, nghĩ sao nói vậy chẳng kịp suy nghĩ ǵ, v́ thế Chúa mới đánh thức ông : “Thật vậy sao? Thầy nói cho anh biết, đêm nay, gà chưa gáy th́ anh đă chối Thầy ba lần”. Và sự thể diễn ra thế nào, hẳn chúng ta đă rơ : một sự thất trung khủng khiếp ! Nhưng không phải thế là đặt dấu chấm hết cho cuộc hành tŕnh, Thiên Chúa tự mở cho ông một con đường mới để vượt qua bên kia sự thất bại.

Nhận ra ḿnh yếu đuối và bất toàn, để người linh mục của Chúa biết khiêm tốn hơn, biết cậy trông vào Chúa hơn là tin tưởng vào sức riêng ḿnh. Chúa nói với các môn đệ rất rơ : “Không có Thầy, anh em không làm ǵ được” (Ga 18,5).


Linh mục cũng là tội nhân

Linh mục được mời gọi “nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện”, nhưng linh mục chưa phải là hoàn thiện. Trước nhan Chúa, mọi người đều là tội nhân. Người linh mục được trao phó sứ  mạng là muối, là ánh sáng cho đời, là những nắm men làm cho thế giới dậy men Tin mừng (Xc. Mt 13,13) ; nhưng trong cuộc đời người linh mục có thể có những lúc nhạt muối nhiệt t́nh, có những lúc ẩn khuất trong bóng tối, và thiếu men yêu thương.

Chọn cho ḿnh vị trí là tội nhân, để người linh mục không bao giờ được phép khinh chê hay kết án anh chị em của ḿnh ; chọn cho ḿnh vị trí là tội nhân, để người linh mục thấy ḿnh cần cảm thương hơn với anh chị em đồng loại ; chọn cho ḿnh vị trí là tội nhân, để người linh mục có thể t́m được một nơi ẩn náu trong trái tim nhân lành của Thiên Chúa. Chỉ khi nào ư thức ḿnh là tội nhân, người linh mục mới cần thấy ḿnh phải hoán cải, hoán cải mỗi ngày để đón nhận t́nh thương và sự tha thứ của Thiên Chúa ; và cũng chính qua việc hoán cải này, người linh mục lại được mời gọi trở nên dấu chỉ của ḷng thương xót Thiên Chúa hằng thi thố cho dân Người.

Tôi muốn dùng bức tranh của họa sĩ Rembrandt thế kỷ XVII, vẽ chân dung “người cha nhân hậu”, để làm h́nh ảnh gợi ư kết thúc những ḍng suy tư này. Trong bức tranh của tác giả, người ta thấy người cha già mắt như đă mù ḷa, hai tay ôm lấy bờ vai người con đang quỳ gục đầu vào ngực ḿnh. Tác giả khắc họa người con trong tấm thân khắc khổ, tấm áo lót ngả mầu cáu bẩn, đôi xăng đan ṃn vẹt gót, chiếc mất chiếc c̣n, cái đầu trọc lóc như một tên tử tội.

Thật là cảm động, sau những ngày lưu lạc, chỉ lúc này đây người con mới t́m lại được chính ḿnh, chỉ nơi trái tim cha, người con mới thấy tim ḿnh rộn lên nhịp sống. Đôi tay cha đă đón nhận con, và cái đầu trọc lóc của con một lần nữa như được làm trẻ thơ trở về cung ḷng mẹ, đó cũng là nơi con ra đi, và là nơi hôm nay con lại trở về.

Đức Giêsu là h́nh ảnh người cha đó. Người là hiện thân của Chúa Cha, Đấng giàu ḷng xót thương, Người là người bạn đang lặng lẽ bên đời tôi. Cuối cùng Người là Đấng cứu độ tôi, ban cho tôi sức sống mới, phục hồi phẩm giá cho tôi và đưa tôi vào dự tiệc mừng.


Linh mục vẫn cần một ánh nh́n thông cảm

Thánh Augustinô nói :

“Làm Giám mục cho anh em tôi rất sợ ; làm tín hữu đối với anh em, tôi rất an tâm. Giám mục là một chức vụ, tín hữu là một ân phúc. Giám mục là một danh hiệu nguy hiểm, tín hữu là danh hiệu đem lại ơn cứu độ”.

Quả thực, ơn gọi căn bản và cao quư nhất của mỗi người, đó là ơn gọi được làm Kitô hữu. Qua Bí tích Thanh tẩy, người tín hữu được tháp nhập vào thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô, được quy tụ thành dân Thiên Chúa, được chia sẻ ba chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Đức Kitô. Dù là giáo dân hay giáo sĩ, tất cả đều b́nh đẳng và được trân trọng như những bộ phận khác nhau trong cùng một thân thể.

Thế nhưng không biết từ bao giờ, bậc giáo sỹ vẫn được đề cao hơn bậc giáo dân. Vô h́nh chung, người linh mục cho ḿnh được quyền hơn người khác, và phần lớn người tín hữu thuần thành cũng muốn dành cho ḿnh quyền “được nghe dạy bảo”. Người tín hữu có thể thần tượng người linh mục, ép người linh mục vào những khuôn mẫu có sẵn của ḿnh với những đức tính cao cả, phẩm chất nổi bật … và một khi người linh mục không sống đúng được với khuôn mẫu ấy, th́ lập tức “thần tượng” bị sụp đổ. Người linh mục cũng cần được cảm thông biết bao, cần được nâng đỡ biết chừng nào !

Quả thực, người linh mục cũng c̣n nhiều giới hạn, cần phải nên hoàn thiện mỗi ngày. Được trao phó coi sóc đoàn chiên, nhưng người linh mục cũng là con chiên v́ chỉ có Đức Kitô là mục tử. Được mời gọi để lắng nghe, để cảm thông với anh chị em ḿnh, nhưng đồng thời người linh mục cũng cần được lắng nghe, cần được thông cảm. Được mời gọi thi thố ḷng thương xót của Thiên Chúa, nhưng người linh mục cũng cần được đón nhận ḷng xót thương của Thiên Chúa và của cộng đoàn. Và chính khi được lắng nghe, được thông cảm, được xót thương như thế, người linh mục càng có khả năng lắng nghe, thông cảm và xót thương người khác. Người linh mục cũng cần một ánh nh́n thông cảm là như vậy.

Một khi ư thức sâu xa sự liên đới với cộng đoàn, ư thức sự liên lụy với cộng đoàn cả trong ân phúc và tội lụy, ư thức ḿnh được chọn lựa giữa cộng đoàn, v́ cộng đoàn và cho cộng đoàn, người linh mục được mời gọi sống chan hoà hơn. Xin được mặc lấy tâm t́nh của thánh Inhaxiô như một lời khẩn nguyện :

“Xin cho con biết phụng sự mà không tính toán, biết chiến đấu không sợ thương tích, biết làm việc không t́m an ủi, biết tận lực không chờ phần thưởng nào khác hơn là biết con làm theo ư Chúa”.


Kết luận

Đối diện trước sự bất toàn và yếu đuối của thân phận con người, người linh mục được mời gọi hăy luôn cậy trông vào Chúa. Thiên Chúa thích dùng những ǵ là yếu đuối để hạ gục những ǵ hùng mạnh. Chỉ khi nào tự sâu thẳm tâm hồn, người linh mục nhận ra thân phận của ḿnh, th́ mới có thể nhận ra tất cả những ǵ bản thân có thể làm được, đều là ân huệ, là t́nh thương của Chúa ; và như thế người linh mục chẳng bao giờ có thể tự cao tự đại hay tự măn về ḿnh.

Có như vậy, ta mới phần nào hiểu được câu nói của thánh Phaolô : “Tôi tự hào về những yếu đuối của tôi, v́ khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh” ; “Ở đâu tội lội đă lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5,20).