![]() |
|
|
Lạy Cha, Cha bỏ con sao ? Suy niệm Mc 14, 32-42
Những ḍng suy tư sau đây đặt ḿnh với chính nỗi xao xuyến của thân phận con người, nỗi xao xuyến như một điều ǵ đó rất thật mà người linh mục không thể không cảm thấy, hoặc mỗi người cảm nhận ở một khía cạnh khác nhau. Nỗi xao xuyến ấy đồng thời cũng chính là mối ưu tư về sự thành – bại, nếu có thể gọi như vậy, trong hành tŕnh làm người ; đồng thời đó cũng chính là những nỗi băn khoăn về chặng cuối của hành tŕnh dương thế. Xin để lời Chúa soi sáng vào những bước thăng trầm của kiếp nhân sinh này.
Đối diện với tiếng th́ thầm của trái tim, người linh mục cũng cảm nhận một điều rất thật : ḿnh có trái tim yêu thương, muốn yêu và cần được yêu. Dẫu biết rằng tu là dâng hiến, khiết tịnh là mở ḷng ra với tha nhân, là sống một t́nh yêu trọn vẹn mà không chiếm hữu, là đối xử nhân bản với mọi người, là…; nhưng người linh mục không được quên một điều rất thật, trái tim ḿnh đôi lúc cũng “đập sai nhịp”, hoặc có khi cũng chứa đựng, hay giấu giếm đâu đó một bóng hồng. Rất cần phải đối diện với tiếng th́ thầm của trái tim ta. Người linh mục không được sợ hăi hay trốn chạy, cũng không lao đầu vào t́m kiếm kinh nghiệm ; nhưng cần phản tỉnh để thấy được những ǵ đang diễn tiến trong trái tim ḿnh. Ngoài việc cậy trông ơn Chúa, cũng rất cần những trợ giúp tự nhiên khác, nhất là phải khôn ngoan và trung thực với chính ḿnh. Nền tu đức cổ vẫn khuyên rằng “Dĩ đào vi thượng sách”, nhưng thiết nghĩ không phải lúc nào người linh mục cũng có thể “dĩ đào” được, mà cần phải đối diện với vấn đề hiện sinh ấy. Trong các phương tiện trợ giúp hữu hiệu để người linh mục có thể sống vui tươi thanh thản, thiết tưởng không thể coi nhẹ vai tṛ của cộng đoàn. Nếu trong cộng đoàn, người linh mục không t́m được sự cảm thông, không t́m được sự lắng nghe, chia sẻ… th́ người linh mục có nguy cơ đi t́m ở nơi khác, nơi đó chẳng những có người lắng nghe, đồng cảm, mà c̣n có cả sự chiều chuộng nữa ! Chính khi ấy, cộng đoàn không thể phủi tay hết trách nhiệm với người anh em của ḿnh. Cộng đoàn có thể vực dậy một người anh em sa ngă, nhưng cũng có thể đẩy người anh em đang chao đảo xuống tận vực sâu ; cộng đoàn có thể là nơi người anh em được chữa lành, nhưng cộng đoàn cũng có thể là nơi làm vết thương của ta măi rỉ máu. Thiết tưởng cũng cần đề cập đến sự hồi tâm, đến đời sống cầu nguyện ; thiếu những giờ phút thinh lặng chỉ ḿnh ḿnh đối diện với Chúa, thiếu những phút giây hoàn toàn thoát ly mọi công việc để nh́n lại chính ḿnh… th́ người linh mục rất khó có thể vượt qua và đứng vững trước sóng gió là những cơn cám dỗ, những dịp tội, những đam mê, những đổ vỡ trong tương quan, những thất bại trong cuộc sống, những lúc bị hiểu lầm, chống đối. Trước những biến cố quan trọng, Đức Giêsu luôn rút vào nơi thinh lặng và cầu nguyện với Chúa Cha. Người cũng mời gọi các môn đệ hăy rút vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi đôi chút. Người linh mục cũng được mời gọi dành những phút giây thinh lặng như thế, để có thể nghe được tiếng Chúa nói với ḿnh trong từng biến cố ; và đặc biệt, trong thinh lặng người linh mục được mời gọi đi vào mối tâm giao thân t́nh với Đức Giêsu, Người là Đấng sẻ chia trọn vẹn mọi thành công và thất bại của con người trong cuộc sống, cùng chung vai gánh vác những gánh nặng phận người. Và chính nhờ vậy, mà khi trải qua đêm tối cô đơn khắc khoải, người môn đệ thấy Người là Đấng lấp đầy những khát vọng sâu xa. Có nhiều lúc người linh mục đi t́m những thứ khác (không phải là Chúa), để lấp đầy khoảng trống, nhưng khốn thay, tâm hồn lại bị khoét sâu và vỡ vụn hơn nữa. Trong khoảng lặng của sự cô đơn, người linh mục nhận ra Đức Giêsu là bạn của ḿnh, một người bạn đúng nghĩa. Người hiện diện ở đó, không khuyên lơn, không trách móc, không lên lớp dạy luân lư, không t́m cách kéo con người ra khỏi cô đơn, nhưng cùng lặng lẽ cảm thông và chia sẻ. Chính lúc cô đơn tuyệt vọng nhất, đêm tối dày đặc nhất, th́ người linh mục lại thấy vỡ ̣a một ánh sáng linh diệu xuyên thấu tâm hồn ḿnh. Đức Giêsu cũng cô đơn, nhưng không bi lụy, không ngă gục, mà vẫn đi đến trọn hành tŕnh vâng phục : “Xin vâng ư Cha, đừng theo ư con”.[1] Đức Giêsu luôn gần gũi, đồng hội đồng thuyền với con người. Con đường Người đi, không phải là con đường hoa thơm cỏ lạ, nhưng là lối ṃn đầy sỏi đá. Con đường đó, người linh mục cũng đang được mời gọi dơi bước.
Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói : “Sự thành công lớn nhất của đời người là sống thánh thiện”. Như vậy, ta có thể thêm vào vế ngược lại: “Sự thất bại lớn nhất của đời người là sống trong tội lỗi”, v́ thánh Phaolô nói : “Lương bổng mà tội lỗi trả cho là chính sự chết”. Trong lúc được mời gọi chăm lo phần rỗi cho tha nhân, người linh mục không được lăng quên phần rỗi của chính ḿnh. Nhưng làm thế nào để đạt được phần rỗi ấy ? Hay nói cách khác, đâu là tiêu chuẩn để đánh giá sự thành công hay thất bại của người linh mục ? Sự thành – bại của đời linh mục có lẽ không được đo bằng những công tŕnh xây cất, không được ướm bằng những chức vụ đảm nhiệm, không được tính bằng những bằng cấp đạt được, nhưng có thể nói thành công hay thất bại tuỳ thuộc vào mức độ ḷng mến đặt nơi những công việc.
Không chỉ trong đời sống
tâm lư, t́nh cảm, nhưng trong đời sống thiêng liêng, t́nh yêu vẫn là điều cốt
yếu làm nên giá trị và ư nghĩa của mọi hành vi nhân linh ; đến độ, nếu thiếu
t́nh yêu, tất cả đều trở nên vô ích. T́nh yêu hay đức mến, là sợi chỉ hồng xuyên
suốt nẻo đường đức tin ; t́nh yêu là nẻo đường nên thánh ngắn nhất, T́nh yêu như muối làm cho thức ăn đậm đà hương vị, như men làm cho hũ bột trở nên rượu nồng. Cuộc sống thiếu t́nh yêu, như thức ăn thiếu muối, nhạt nhẽo, vô vị. Lao đầu vào công việc mà thiếu t́nh yêu, th́ con người biến thành người máy. Vợ chồng thiếu t́nh yêu, th́ gia đ́nh trở thành hỏa ngục. Đời tu thiếu t́nh yêu, th́ tu viện sẽ trở thành ngục thất, tu với tù hai chữ liền nhau. T́nh yêu chính là linh hồn của mọi công việc. Thánh Phaolô rất xác tín về vai tṛ của t́nh yêu,[2] chúng ta không cần quảng diễn ǵ thêm. Chỉ mong rằng những xác tín đó cũng phải là xác tín riêng của người linh mục, và là xác tín của mọi người. Những lời trăn trối cuối cùng của Thầy Giêsu cho các môn đệ, không ǵ khác hơn là: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em yêu thương nhau”.[3] Yêu thương là dấu chỉ khả thị h́nh ảnh của người môn đệ. Trong thời đại ngày nay, người môn đệ của Đức Giêsu, ngoài việc được mời gọi làm chứng bằng đức tin, bằng niềm hy vọng, c̣n phải có khả năng nên chứng tá bằng đức mến. T́nh yêu tự nó hiển lộ, và chẳng có ngôn từ nào sâu thẳm cho bằng ngôn ngữ của t́nh yêu, ngôn ngữ “từ trái tim đến trái tim”.
Và đây là đoạn cuối của cuộc hành tŕnh dương thế, chẳng phải của riêng ǵ người linh mục, mà là nẻo đường phần đông con người sẽ phải bước qua. Sự khôn ngoan đích thực là trong mọi công việc đều phải nghĩ đến cùng đích đời ḿnh. Điểm cùng đích ấy có thể là ngay chính hôm nay, ngày mai, hoặc sau một chuỗi ngày dài với những tháng năm lưng c̣ng gối mỏi. Quả thực, tuổi trẻ là thời của hồn nhiên, của tràn trề sức sống, nhưng vẫn có đó sự cô đơn ; tuổi già là những giây phút nghỉ ngơi, b́nh an thư thái, và cũng có đó nỗi héo hắt của tuổi già. Có những tuổi già rất đẹp trở nên gương sáng cho con cháu ; và cũng có những tuổi già ngă quỵ, không mang vác nổi quá khứ của ḿnh với những nỗi vui buồn của kiếp nhân sinh. Đây chỉ là một thoáng những suy nghĩ chợt qua, nhưng cũng xin viết lại nơi đây như một lời nhắc nhớ cho chính bản thân ḿnh, lời của sách Giảng Viên vẫn sáng ngời sinh động : “Ở dưới bầu trời này, mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời : một thời chào đời, một thời ĺa thế …” (3,1-2) ; “Ngày ấy, người giữ nhà sẽ run lẩy bẩy, chàng trai vạm vỡ phải kḥm lưng … các bà nh́n qua cửa sổ chỉ nh́n thấy lờ mờ” (12,3). Thoạt tiên, những tư tưởng trên có vẻ bi quan, dù sao ngày cuối cùng của mỗi người rồi sẽ đến, nhưng đó không phải là h́nh phạt, không phải là phút giây khủng khiếp, mà là mở ra một cuộc hạnh ngộ đích thực với Đấng dựng nên ḿnh, mở ra một tiệc cưới vĩnh cửu. Thi hào R. Tagore đă cảm nếm trước phút giây này trong những vần thơ từ biệt : “Tôi khoác trên ḿnh chiếc áo tân hôn, và vội vă ra đi không một lời từ biệt. Tôi ra đi với đôi bàn tay trắng, chỉ mang theo trái tim yêu thương”.
Trong vườn Cây Dầu, lời cầu xin tha thiết của Đức Giêsu như c̣n vang vọng măi : “Lạy Cha, nếu có thể được, th́ xin cho con khỏi uống chén này”, nhưng sau đó lời cầu nguyện của Người không tập trung vào ḿnh, nhưng quy hướng về thánh ư Chúa Cha : “nhưng đừng theo ư con, mà theo ư Cha”. Mang thân phận con người, chắc hẳn người linh mục cũng có khi muốn chối từ chén đắng, nhưng noi theo gương Thầy Chí Thánh, người linh mục được mời gọi hoàn toàn phó thác cho thánh ư Thiên Chúa. Hành vi vâng phục là thánh lễ cuối cùng, là hy tế tạ ơn trọn vẹn nhất.
|
|