HOME

 
 

Phần 2 :  
“Thầy sống giữa anh em
như một người phục vụ”
(Lc 22,27).

 


4

Anh em cũng phải rửa chân cho nhau

Suy niệm Ga 13, 1-20.

 

 

 Tin mừng “rửa chân” là một diễn từ quan trọng trong chương 13 của Tin mừng Thứ tư. Chính trong Bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu trao lại cho Hội thánh thừa tác vụ linh mục, mà biểu tượng sống động cho tác vụ này là cử hành tiệc Bẻ Bánh và cúi ḿnh rửa chân cho anh em. Xin khởi đi từ “tác vụ rửa chân” này để phác hoạ h́nh ảnh người linh mục.


Linh mục, người đầy tớ rửa chân

Muốn phục vụ người khác, trước tiên người linh mục phải cảm nhận được Thiên Chúa phục vụ ḿnh. Trước khi các Tông đồ được mời gọi phục vụ, các ông phải để cho Chúa rửa chân trước. Chúng ta không quan niệm phục vụ như một chức năng, một công chức, nhưng tất cả phải bắt nguồn từ t́nh yêu, từ sự phục vụ của Chúa Giêsu ; nếu ai đó lănh tác vụ để phục vụ, tức là họ được sung công để chu toàn cùng một tác vụ của Chúa Giêsu.

Thánh Phaolô rất xác tín vào việc phục vụ của ḿnh :

V́ Thiên Chúa đoái thương giao cho chúng tôi công việc phục vụ, nên chúng tôi không sờn ḷng nản chí. Trái lại chúng tôi khước từ những cách hành động ám muội, đáng xấu hổ, và không dùng mưu mô mà xử trí, cũng chẳng xuyên tạc lời Thiên Chúa, nhưng chúng tôi giăi bày sự thật ; và bằng cách đó, chúng tôi để cho lương tâm mọi người phê phán trước mặt Thiên Chúa… Chúng tôi không rao giảng chính ḿnh, mà chỉ rao giảng Đức Kitô Giêsu là Chúa ; c̣n chúng tôi, chúng tôi chỉ là tôi tớ của anh em, v́ Đức Giêsu”.[1]

Đức Giêsu đến để phục vụ và hiến dâng mạng sống cứu độ con người, chứ không phải để được phục vụ ;[2] cho nên ai cảm nhận được t́nh thương, noi gương Người mà phục vụ, kẻ ấy càng trở nên giống Thầy ḿnh hơn. Thánh Phêrô khuyên chúng ta : “Ơn riêng Thiên Chúa đă ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy anh em mới là những người khéo quản lư ân huệ thiên h́nh vạn trạng của Thiên Chúa”.[3]

Trong đời sống dâng hiến, người linh mục được mời gọi làm toát lên niềm vui, niềm vui của những con người phục vụ. Một khi xác tín phục vụ là lẽ sống chứ không phải là tấm b́nh phong che chắn, là tấm áo mặc bên ngoài, th́ chúng ta sẽ cảm được phục vụ là niềm vui. Niềm vui đó nhẹ nhàng thanh thoát tựa chúng ta ngắm cảnh thanh b́nh của một buổi hoàng hôn, như chiêm ngắm những cánh hoa rạo rực muôn màu của buổi b́nh ḿnh khi sương đêm c̣n đọng trên búp lá. Niềm vui rất nhẹ, rất tự nhiên, rất an b́nh. Cũng như ông bố g̣ lưng đạp xích lô suốt một ngày mỏi mệt, nhưng ḷng ông vẫn vui khi quây quần bên vợ con trong bữa cơm chiều thanh đạm, bữa cơm được đổi lấy bằng chính những giọt mồ hôi và nước mắt của ông.

Đă qua rồi quan niệm một lối sống quan liêu, trưởng giả ; đă đến lúc phải biết khước từ những ṿng hào quang giả tạo được người khác khoác cho, hay tự ḿnh t́m kiếm. Vua Khang Hy đă phải hoá trang vi hành mới thấu đạt được thế thái nhân t́nh ; nếu người linh mục cứ măi an ổn trong vỏ ốc đời ḿnh, th́ sẽ chẳng bao giờ hiểu được lẽ vui buồn của kiếp nhân sinh, chẳng bao giờ có được niềm vui thực sự v́ đă quên ḿnh, chẳng bao giờ có thể làm sáng lên bóng h́nh Đức Giêsu vẫn đang yêu thương và phục vụ trần thế.

Người ta sẽ nhận ra ai là môn đệ đích thực của Đức Giêsu, khi người linh mục sống yêu thương phục vụ, biết chân thành rửa chân cho nhau ; rửa chân trong thái độ khiêm tốn, ân cần, hoà nhă ; và luôn giữ thái độ trân trọng, nâng niu “bàn chân cuộc đời”, bàn chân ấy không phải chỉ là những “chân vàng, gót ngọc” mà c̣n là những bàn chân xù x́, thô nhám, và chai xạm nữa.


Linh mục, kẻ hầu bàn

 Hầu bàn là một hành động cụ thể của việc phục vụ.

Thừa tác vụ linh mục được thiết lập trong Bữa Tiệc Ly, lúc mà Đức Giêsu cúi ḿnh rửa chân cho từng môn đệ, và cũng chính là lúc Người lấy thịt máu ḿnh cho họ làm của ăn của uống, lúc Người chuẩn bị lên Giêrusalem để chịu chết. Và lời mời gọi của Đức Giêsu gắn liền với sứ mạng của người linh mục thừa tác : “Anh em hăy làm việc này mà nhớ đến thầy”. Thiết tưởng “làm việc này” không có nghĩa chỉ là làm cử chỉ “Bẻ Bánh”, mà c̣n là trở nên kẻ hầu bàn, là hy sinh đến phải từ bỏ chính ḿnh như Đức Giêsu đă chịu chết. Người linh mục phải vươn lên măi theo gương Thầy chí thánh của ḿnh. Dẫu biết rằng linh mục vẫn là những con người mỏng gịn yếu đuối, vẫn là tội nhân giữa những anh chị em đồng loại, vẫn cần được nâng đỡ, cần được thương xót, vẫn thấy đức tin ḿnh đôi lúc chao đảo ; thế nhưng, người linh mục không được quên sứ mạng của ḿnh là nâng đỡ sự yếu đuối của tha nhân, rao giảng cho họ một Thiên Chúa vô cùng thương xót, củng cố cho họ đức tin và niềm hy vọng. Thực hiện những điều này với thái độ yêu thương và khiêm hạ, chính là lúc người linh mục đang thi hành phận vụ hầu bàn của ḿnh.

Nơi bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể, người linh mục được mời gọi mỗi ngày dọn ra cho dân Chúa không phải là cao lương mỹ vị, nhưng là dọn ra lương thực thường tồn, lương thực đem lại cho con người sự sống viên măn, sự sống vĩnh cửu. Lời Đức Giêsu nói với các môn đệ luôn đánh động chúng ta :Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai ? Hẳn là người ngồi ăn chứ ? Thế mà, Thầy đây, thầy sống giữa anh em như một kẻ hầu bàn” (Lc 22,27).

“Tác vụ hầu bàn” luôn là một lời nhắc nhở và mời gọi người linh mục thừa tác hoạ lại h́nh ảnh của vị linh mục Thượng phẩm là Đức Giêsu. Người linh mục được mời gọi phục vụ, nhưng không khéo lại bị công việc đè bẹp, lại bị những lối đánh giá con người theo hiệu năng công việc làm biến chất hành động phục vụ. Con người hôm nay đang mắc phải căn bệnh thời đại, bệnh “sao”, bệnh “thành tích”. Người linh mục được mời gọi nh́n lại cung cách phục vụ của ḿnh xem những công việc ấy đang được làm v́ mục đích ǵ ? Làm v́ sứ vụ, v́ cộng đoàn, hay là v́ ṿng hào quang của riêng ḿnh ? Nếu không khởi đi từ ư hướng tốt, những việc làm tích cực có thể sẽ mất đi ư nghĩa của việc phục vụ đích thực.


Linh mục, tiếng chổi tre xào xạc

Chẳng phải ngẫu nhiên linh mục Nguyễn Khảm ví người linh mục như người phu quét lá. H́nh ảnh diễn tả này thật giàu cảm xúc, thật b́nh dị và không kém phần ư nghĩa.

Người linh mục luôn được mời gọi làm đẹp cuộc đời, thánh hoá cuộc đời ; ví tựa như người phu quét lá với tiếng chổi tre xào xạc thầm lặng trong đêm đen gió băo, hay giữa trưa hè oi ả, để trả lại cho những con đường, cho phố chợ sự sạch sẽ, mát mẻ. Thế mà có lẽ chẳng ai thèm để ư đến người lao công ấy. Người linh mục cũng được mời gọi chọn cho ḿnh chỗ rốt bét trong những ánh hào quang danh dự.  Ôi khó khăn thay !

Khi suy nghĩ về khía cạnh “tự huỷ” này, linh mục Nguyễn Tầm Thường c̣n so sánh h́nh ảnh người linh mục với chiếc sọt rác. Thật thâm thuư. Cuộc sống không thể thiếu sọt rác, không thể quăng rác rưởi bừa băi mọi chốn mọi nơi ; thế nhưng ít ai lại đem chưng sọt rác ra trước pḥng khách hay tiền sảnh nhà ḿnh. Vị trí của sọt rác là nơi kín đáo, ẩn khuất. Người linh mục cần thiết cho cuộc đời, đón nhận mọi nỗi niềm và tội lụy của tha nhân, nhưng vị trí của người linh mục vẫn phải là nơi ẩn khuất, khiêm hạ.

Chỉ khi nào đi vào mầu nhiệm tự huỷ của Đức Giêsu, mầu nhiệm “Thiên Chúa mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế”, mầu nhiệm “Đức Giêsu hoá ḿnh ra không”, khi ấy người linh mục mới có thể phục vụ thầm lặng như người phu quét lá mà không cần đ̣i hỏi ai mang ơn hay để ư đến ḿnh. Con đường phía trước vẫn bao la diệu vợi, người linh mục phải nỗ lực luôn măi và năng nh́n lại chính ḿnh trong suốt hành tŕnh theo Chúa Kitô.


Thay lời kết

Thay cho lời kết luận, xin ghi lại nơi đây những vần thơ như tâm t́nh cầu nguyện :

Xin cho con tinh thần hăng say

không bao giờ mỏi mệt,

như những đợt sóng

vỗ bên bờ đại dương mải miết.

Xin cho con học biết

măi can trường

như cây xanh hướng bóng vầng dương.

Xin cho con quảng đại giữa đời thường

như  mây trời che phủ cả người lành kẻ dữ.

Xin cho con biết khiêm tốn đủ,

như cỏ dại ven đường

toả cho đời một chút mầu xanh,

Xin cho con măi măi nhiệt thành,

biết cúi ḿnh

rửa chân cho anh chị em đồng loại.


 

[1] 2Cr 4,1-5

[2] Xc. Mt 20, 28.

[3] 1Pr 4,10.