HOME

 
 

Phần I :
“Không phải anh em đă chọn thầy,

nhưng chính Thầy đă chọn anh em” (Ga 15,16).

 



Hăy làm việc này mà nhớ đến Thầy

Suy niệm Lc 22,14 -20 [1]

 

 

Đức Giêsu thiết lập Bí tích Thánh Thể đồng thời với việc thiết lập tác vụ linh mục. Có thể nói, tác vụ linh mục gắn liền với việc cử hành Bí tích cực trọng này. Suốt ḍng lịch sử Hội thánh, những linh mục của Đức Giêsu đă cần mẫn tuân thủ lệnh truyền của Thầy ḿnh : “Anh em hăy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (Lc 22,19). Những ḍng suy niệm sau đây muốn cùng với hành tŕnh đức tin của Đức Maria, “người phụ nữ của Thánh Thể”,[2] sống mầu nhiệm Thánh Thể với thừa tác vụ linh mục.

Tại trường học của Đức Maria, người linh mục được Thánh Thể chất vấn về chính ư nghĩa hiện hữu của ḿnh, về những thách đố của niềm tin, và về lời mời gọi đáp lời xin vâng trọn vẹn. Thánh Thể cũng chính là lời ngợi khen cảm tạ mà Đức Maria đă cất lên trong lời kinh Magnificat ; là lời mời gọi khao khát t́m kiếm Thiên Chúa, như Đức Maria đă ngược xuôi vất vả t́m con ; là lời mời gọi chia sẻ vận mạng với tha nhân, như Đức Maria đă chia sẻ nỗi khó khăn với gia chủ ở tiệc cưới Cana khi họ hết rượu ; và cũng là nẻo đường dẫn tha nhân đến gặp Thiên Chúa, như Đức Maria là thầy dạy tuyệt vời của chúng ta trong việc chiêm ngắm dung nhan Đức Kitô,[3] và trong việc thực thi thánh ư Người.[4]


Thánh Thể,
lời chất vấn về ư nghĩa hiện hữu của người linh mục

Lời chào như vậy có ư nghĩa ǵ ?” (Lc 1,29). Trước lời chào của sứ thần Gabrien : “Mừng vui lên hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc 1,28), Đức Maria rất bối rối và tự hỏi về ư nghĩa của lời chào đó. Chắc hẳn, Đức Maria rất nhạy cảm trước Lời của Chúa, v́ Mẹ biết rất rơ, chẳng phải ngẫu nhiên sứ thần lại “đổi tên” của Mẹ như vậy. Tại sao sứ thần không chào Mẹ là “chào cô Maria”, mà lại chào là “Đấng Đầy Ân Sủng”? Khi đổi tên ai, là Thiên Chúa kư thác cho người ấy một trách nhiệm mới. Trong lịch sử, Kinh thánh hẳn con ghi lại việc Chúa đă đổi tên cho ông Abram thành Abraham, đổi tên cho ông Giacóp thành Israel … giờ đây Thiên Chúa lại đổi tên của Mẹ.

Từ đây, cuộc đời của Mẹ sẽ ra sao ? Ư nghĩa của lời chào phải chăng là chính ư nghĩa cuộc đời của Mẹ ? Mẹ không bối rối sao được trước những chất vấn như thế. Những câu hỏi ấy, có thể nói là chính vấn nạn mà “Bí tích Thánh Thể”[5] đang đặt ra cho Mẹ.

Sự tương quan giữa Mẹ và Bí tích Thánh Thể khởi đi từ chính thái độ nội tâm như thế. “Suốt cả cuộc đời, Đức Maria là một phụ nữ của Thánh Thể”.[6] Mẹ đă sống mầu nhiệm Thánh Thể trước cả khi
Bí tích này được thiết lập.
[7]

Sống Bí tích Thánh Thể, chính là chấp nhận sự chất vấn của Thiên Chúa ; Đức Maria đă có kinh nghiệm bối rối về sự chất vấn ấy. Và trong đời sống đức tin, hơn một lần người linh mục cảm thấy sự chất vấn ấy từ phía Thiên Chúa, và cả từ phía tha nhân nữa. Thánh Thể có thực sự làm nên ư nghĩa cuộc đời người linh mục ? Hằng ngày vẫn cử hành Thánh Thể, người linh mục có thấy cuộc đời của ḿnh được biến đổi không ? Có bao giờ người linh mục thấy ngỡ ngàng và bối rối trước mầu nhiệm Thánh Thể không ? Hay có bao giờ người linh mục tự hỏi như Đức Maria : “Này là ḿnh Thầy có nghĩa là ǵ ?”


Thánh Thể, thách đố của niềm tin

Việc ấy xảy đến cách nào v́ tôi không biết đến việc vợ chồng ?” (Lc 1,34). Đức Maria gặp hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Sau phút bối rối, Mẹ được mời gọi cộng tác vào công tŕnh cứu độ của Chúa qua việc cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế. Đối với Mẹ, đây một ân huệ quá lớn lao, v́ Mẹ ư thức ḿnh chỉ là “phận nữ tỳ hèn mọn” (Lc 1,48). Chính v́ sự ư thức đó, Mẹ ngỡ ngàng về cách thức Thiên Chúa sắp thực hiện. Thiên Chúa sẽ làm cách nào đây, v́ Đức Maria chưa cùng về chung sống với thánh Giuse ? Có thể nói, đó cũng là một thử thách đức tin, dẫu biết rằng đức tin vẫn là lời mời gọi lao ḿnh về phía trước, dù chưa biết rằng ḿnh sẽ đi đâu.

Trong khía cạnh này, người linh mục cũng bắt gặp nơi Bí tích Thánh Thể sự thử thách không kém. Thánh Thể là một mầu nhiệm đức tin vượt quá sự hiểu biết, đến độ chúng ta phải phó thác hoàn toàn vào Lời Thiên Chúa.[8] Chính Đức Maria đă sống trọn vẹn sự phó thác đó, dù lư trí Mẹ chẳng thể nào hiểu nổi : “Việc ấy xảy đến cách nào, v́ tôi không biết đến việc vợ chồng ?”.

Mẹ không nghi ngờ về quyền năng của Thiên Chúa, nhưng Mẹ không thể không ngỡ ngàng về cách thức Thiên Chúa thực hiện lời hứa của ḿnh, lời Người đă hứa xưa kia khi nguyên tổ phạm tội, [9]và có lẽ Mẹ c̣n ngỡ ngàng hơn nữa khi thấy ḿnh phải chuẩn bị đóng vai tṛ của Evà mới. Đă đến lúc mối thù giữa con rắn và ḍng dơi người nữ được hiển tỏ, sự hiển tỏ này kết tụ nơi sự đáp trả của Mẹ, lời đáp trả làm cho “Ngôi Lời đă trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14).

Nơi Bí tích Thánh Thể, người linh mục không khỏi ngỡ ngàng về cách thức Thiên Chúa ở với con người mọi ngày cho đến tận thế ; ngỡ ngàng v́ Thiên Chúa vẫn dùng bàn tay hèn mọn và môi miệng ngọng nghịu, ô uế của người linh mục để hiện diện trọn vẹn nhân tính và Thiên tính nơi Tấm Bánh bé nhỏ ; ngỡ ngàng v́ Tấm Bánh cứ tiếp tục được bẻ ra, bẻ ra măi dẫu con người có hờ hững, bất cần, bất xứng ; ngỡ ngàng v́ “Ngôi Lời vẫn trở nên người phàm” mỗi khi người linh mục cử hành nhiệm tích Thánh Thể.

Sự ngỡ ngàng đă khiến Mẹ thốt lên những lời thắc mắc, thắc mắc để rồi khiêm tốn đón nhận thánh ư Thiên Chúa trong sự vâng phục sâu thẳm khi cất lên lời xin vâng trọn vẹn. Người linh mục được mời gọi hăy học nơi Mẹ để biết ngỡ ngàng trước mầu nhiệm t́nh yêu, ngỡ ngàng trước cách thức Thiên Chúa yêu ḿnh, và mau mắn đáp trả lời mời gọi yêu thương của Chúa. Chính v́ vậy, trong lời xin vâng của Đức Maria, người linh mục nghe vọng về lời xin vâng của ḿnh trước lời mời gọi của Đức Giêsu “Hăy ở lại trong t́nh yêu của Thầy” ( Xc. Ga 15).


Thánh Thể, lời mời gọi người linh mục
xin vâng trọn vẹn

Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Sau những phút giây bối rối ngỡ ngàng, Đức Maria đă dấn thân trọn vẹn trong lời xin vâng quả cảm. Lời xin vâng ấy là lời tuyên xưng đức tin, là tiếng nói tận trái tim của Mẹ, là niềm hy vọng của cả nhân loại này.

Đặt lời xin vâng trong mối tương quan với Bí tích Thánh Thể, Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II đă xác tín mạnh mẽ rằng có sự tương đồng sâu xa giữa tiếng Fiat của Đức Maria đáp lại lời thiên thần, và tiếng Amen mà mọi tín hữu thưa lên khi lănh nhận Thánh Thể Chúa. Đức Maria được mời gọi tin rằng Đấng mà ngài cưu mang “bởi phép Chúa Thánh Thần” là Con của Thiên Chúa ; tiếp nối với đức tin của Đức Trinh Nữ Maria, chúng ta được mời gọi tin rằng, trong mầu nhiệm Thánh Thể, chính Đức Giêsu Kitô, Con của Thiên Chúa và là Con của Đức Maria, đang hiện diện trọn vẹn nhân tính và Thiên tính dưới h́nh bánh, h́nh rượu.[10]

Như xưa kia Đức Maria đă nói lời Fiat với trọn niềm tin yêu phó thác, chúng ta cũng được mời gọi thưa tiếng Amen với trọn tâm t́nh. Amen v́ tin rằng trong Tấm Bánh nhỏ bé ấy là trọn vẹn mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu ; Amen v́ tin rằng một phần đời ta đă tham dự trước niềm vui vĩnh cửu ; Amen v́ tin rằng trong Tấm Bánh này có phần chất liệu là chính bản thân tôi, là cuộc đời tôi, là anh chị em tôi ; Amen v́ tin rằng khi đón nhận Bánh này, tôi được hiệp thông với anh chị em tôi, và hiệp thông với Đức Giêsu trọn vẹn.

Có thể nói, Đức Maria đă sống trọn vẹn ư nghĩa của tiếng Amen ấy. Mẹ đă sống mầu nhiệm Vượt qua của Đức Giêsu ngay khi nghe lời tiên tri của cụ già Simêon lúc dâng Con trong đền thánh ;[11] Mẹ đă tiền dự vào niềm vui vĩnh cửu khi thốt lên rằng : “Từ nay, hết mọi đời sẽ khen rằng tôi diễm phúc, v́ Đấng toàn năng đă làm cho tôi những điều cao cả …”;[12] Mẹ đă dự phần trong Tấm Bánh, khi chính Ngôi Lời đă đón nhận máu huyết của Mẹ, để chia sẻ phận người với chúng ta ; Mẹ đă hiệp thông trọn vẹn với Đức Giêsu và với tha nhân khi đồng hành cùng Đức Giêsu và các môn đệ của Người trên mọi nẻo đường loan báo Tin mừng, nhất là đứng kề cận Con dưới chân thập giá, và đón nhận Tông đồ Gioan như chính con ḿnh.


Thánh Thể, lời ngợi khen cảm tạ

Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa...” (Lc 1,46-55). Bản chất của Thánh Thể là lời ngợi khen, cảm tạ, là lời tạ ơn của Hội thánh, mà Đức Giêsu với tư cách là đầu dâng lên Thiên Chúa Cha. Thánh lễ nào cũng là thánh lễ tạ ơn, và chẳng bao giờ nhiệm tích Thánh Thể không phải là lời tạ ơn sâu sắc.

Trong kinh Magnificat, chúng ta thấy Đức Maria vừa tiên báo vừa nói lên sự thông hiệp sâu xa với Bí tích Thánh Thể, Bí tích của t́nh yêu, của ḷng thương xót : “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người”. Khi so sách Bí tích Thánh Thể với lời kinh Magnificat, chúng ta thấy điểm tương đồng trước tiên và trên hết là lời ca ngợi và tạ ơn. [13]

Khi Đức Maria để ḷng ḿnh trào dâng lời tán tụng : “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, và thần trí tôi hớn hở vui mừng v́ Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi”, th́ cũng là lúc ḷng Mẹ đă cưu mang chính Đấng cứu độ của ḿnh. Chính nhờ Đức Kitô, cùng với Đức Kitô, và trong Đức Kitô, Mẹ đă ca ngợi, tạ ơn Thiên Chúa. Và trong kinh nguyện Thánh Thể ngày nay, Giáo hội cũng đang lặp lại lời tạ ơn đó : “Chính nhờ Đức Kitô, cùng với Đức Kitô, và trong Đức Kitô ...”

Hội thánh ngợi khen, chúc tụng Thiên Chúa v́ những kỳ công Chúa đă thực hiện, Người dựng nên con người đó là một kỳ vỹ, nhưng Người cứu chuộc con người con kỳ vỹ hơn. Trong lời kinh Magnificat, Đức Maria nhắc lại những kỳ công của Đức Chúa khi Người “giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường ḷng trí kiêu căng”, khi Người “hạ bệ những ai quyền thế, và nâng cao mọi kẻ khiêm nhường”, khi “kẻ nghèo đói, Người ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng”. Nhắc lại những kỳ công ấy là một lời tạ ơn, đồng thời cũng chuẩn bị loan báo một kỳ công trổi vượt hơn cả : “Chúa độ tŕ Israel tôi tớ của Người, v́ Người nhớ lại ḷng thương xót, dành cho tổ phụ Abraham và cho con cháu đến muôn đời”. Đó chính là lời loan báo Thiên Chúa cứu độ, Thiên Chúa thực hiện trọn vẹn lời hứa.

Khi cử hành Bí tích Thánh Thể, ngoài tâm t́nh tạ ơn, người linh mục cũng được mời gọi “loan truyền việc Chúa chịu chết, và tuyên xưng việc Chúa sống lại, cho tới khi Chúa lại đến”. Cùng một trật, mầu nhiệm cứu độ và cánh chung của Chúa Giêsu đă được tỏ lộ. Chúng ta được mời gọi hướng về Trời mới, Đất mới ngay khi ḿnh c̣n sống những thực tại trần gian. Chính Đức Maria đă sống lời mời gọi ấy, và trở nên dấu chỉ của Trời mới, Đất mới khi niềm vui, sự hớn hở được tỏa lan trong tâm hồn nhỏ bé, khiêm hạ ; tâm hồn của “phận nữ tỳ hèn mọn” nhưng “thần trí hớn hở vui mừng”.


Thánh Thể, lời mời gọi
người linh mục khao khát t́m kiếm Thiên Chúa

 

Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy ? Con thấy không, cha con và mẹ đây đă phải cực ḷng t́m con” (Lc 2,48).

Hơn ai hết, Đức Maria đă trải qua kinh nghiệm t́m kiếm Thiên Chúa. Kinh nghiệm đó của Mẹ là bài học quư giá cho chúng ta. Có nhà tu đức c̣n cho rằng, muốn cảm nhận Chúa sâu sắc, cần phải dám can đảm để lạc mất Chúa ! T́m kiếm Thiên Chúa đó là lời mời gọi tận sâu thẳm tâm khảm của con người. Thi hào R. Tagore có cảm nhận rất hay về kinh nghiệm t́m kiếm đó trong một bài ca của người hành khất : “Tôi t́m Người ở đâu đây ? Người là Đấng ngự trị ḷng tôi. V́ tôi lạc mất Người nên tôi măi lang thang nơi xứ lạ và những vùng đất xa xôi theo lời mời mọc của Người”.[14]

Kinh nghiệm t́m kiếm này ta cũng gặp nơi thánh Augustinô : “Lạy Chúa, con t́m kiếm Ngài luôn măi, cho đến khi nào được nghỉ yên trong Ngài”. Thánh Thể luôn là lời mời gọi t́m kiếm. Trong Cựu ước ta bắt gặp cuộc t́m kiếm “Người Yêu” trong sách Diễm Ca :

Suốt đêm, trên giường ngủ,

tôi t́m người ḷng tôi yêu dấu.

Tôi đi t́m chàng mà đâu có gặp !

Vậy tôi sẽ đứng lên, đi rảo quanh khắp thành,

nơi đầu đường cuối phố,

để t́m người yêu dấu của ḷng tôi” (Dc 3, 1-2).

Trong Tân ước, đặc biệt qua Đức Maria, ta bắt gặp một cuộc t́m kiếm đầy gian khó : “Con thấy không, cha con và mẹ đây đă phải cực ḷng t́m con”. Và rồi, Chúa thưởng công cho những ai t́m kiếm Người.[15]V́ ai t́m Người, Người sẽ cho gặp ; ai gơ cửa Người sẽ mở cho.[16]

Sự hiện diện cách Bí tích của Chúa Giêsu trong Thánh Thể cũng luôn là lời mời gọi t́m kiếm như thế. Đức Maria t́m gặp Chúa Giêsu trong đền thánh, nhưng Chúa Giêsu không giữ Mẹ ở lại đền thánh với ḿnh, mà Người lại theo cha mẹ trở về Nazaret. Người linh mục không chỉ t́m gặp Chúa Giêsu nơi Bàn tiệc Thánh Thể, nhưng c̣n gặp Người nơi bàn tiệc cuộc đời ; nơi ấy, người linh mục được mời gọi cùng chia sẻ vận mạng với tha nhân.


Thánh Thể, lời mời gọi
người linh mục chia sẻ vận mạng với tha nhân

Họ hết rượu rồi” (Ga 2,3). Sự tinh tế của Đức Maria là ở chỗ đó. Dù Mẹ chỉ là một thực khách như những thực khách khác, nhưng khác hẳn mọi người, Mẹ thấy được sự lo lắng bối rối của gia chủ, v́ “họ hết rượu rồi”. Đang giữa tiệc cưới mà hết rượu, chắc hẳn niềm vui chẳng thể nào trọn vẹn. Mẹ đă can thiệp đúng lúc để niềm vui của mọi người được nên trọn. Mẹ đă chia sẻ cách tích cực những t́nh huống bất ngờ trong cuộc sống, mà chỉ những ai có tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, mới có thể làm được.

Thánh Thể luôn là sự nhạy cảm đó. Trước khi lập Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu đă làm phép lạ hoá bánh ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng.[17] Đức Giêsu đă chạnh ḷng thương đám đông bơ vơ như đàn chiên không người chăn dắt.[18] Người thấu hiểu cả cái đói của họ, cảm thông nỗi khát khao của họ, bận ḷng với những nỗi lo toan của họ. Người muốn chia sẻ trọn vẹn vận mạng của họ, và cũng v́ mục đích ấy, Người đă nhập thể vào trần gian, đă chịu tan xương nát thịt, đă trở nên Tấm Bánh để bẻ ra trao tặng mọi người.

 Và rồi, bất cứ ai đă được Thánh Thể cảm hoá, th́ họ cũng được mời gọi chia sẻ vận mạng của anh em ḿnh. Cầm dĩa thánh trên tay, linh mục đâu phải chỉ dâng lễ vật của riêng ḿnh, nhân danh chính ḿnh, mà là lễ vật của cả nhân loại, nhân danh cả Hội thánh với Đức Kitô là đầu.

Chả vậy, sau khi dâng bánh rượu, linh mục mời gọi : “Anh chị em hăy cầu nguyện để lễ vật của tôi và cũng là của anh chị em, được Thiên Chúa là Cha toàn năng chấp nhận”. Và Bánh Thánh được nâng cao : “Đây là ḿnh Thầy sẽ bị nộp v́ anh em”, lúc này chẳng phải chỉ một ḿnh Đức Giêsu chịu nộp, nhưng c̣n là chính bản thân người linh mục chịu nộp ḿnh v́ Hội thánh, v́ anh em, và cũng được mời gọi trở nên tấm bánh để bẻ ra chia sẻ cho mọi người. Thánh Thể tự bản chất là sự trao ban, trao ban đến tận cùng. Người linh mục được mời gọi hăy học nơi Đức Maria sự tinh tế để nhận ra những nhu cầu của tha nhân, và có thể sẻ chia với họ.


Thánh Thể, nẻo đường
người linh mục dẫn tha nhân đến gặp Thiên Chúa

Người bảo ǵ các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5).

Thiên Chúa đích thân đến gặp gỡ con người qua mầu nhiệm nhập thể, và Người trở nên nẻo đường để qua Người nhân loại có thể đến được với Chúa Cha. Hạnh phúc đích thực là được nhận biết và gặp gỡ Thiên Chúa. Không có sự gặp gỡ, th́ trong mọi nghi thức phụng vụ, lễ bái, con người chỉ như kẻ diễn tuồng, một kẻ nhập vai bết bát, ngượng nghịu ; và đời sống tâm linh chỉ là đời sống tâm lư thuần tuư, hoặc là đời sống tưởng tượng, hăo huyền.

Nhưng làm sao để có thể gặp gỡ được Thiên Chúa ? Đây chẳng phải là thách đố cho mỗi người chúng ta hay sao. Nếu không gặp gỡ được Người, th́ làm sao có thể nghe được tiếng Người, có thể làm theo những điều Người chỉ dạy ? Chúng ta hăy chạy đến trường học của Đức Maria, hăy học cách lắng nghe của Mẹ, học cách đáp trả của Mẹ, học cách gặp gỡ của Mẹ, và hăy nghe Mẹ dặn ḍ : “Người bảo ǵ các anh cứ việc làm theo”.

Hăy cùng Mẹ chiêm ngắm Chúa Giêsu trong mầu nhiệm Nhập Thể, chiêm ngắm từng biến cố xảy ra trong cuộc đời của Người, chiêm ngắm những mầu nhiệm Vui, Thương, Mừng trong chuỗi hạt Mân côi, và đặc biệt chiêm ngắm sự chói ngời của Thánh Thể trong mầu nhiệm sự Sáng. Thông điệp Thánh Thể, số 62 khẳng định : “Nh́n lên Đức Maria, chúng ta biết được sức mạnh biến đổi của Thánh Thể. Trong Mẹ, chúng ta nh́n thấy thế giới được đổi mới trong t́nh yêu”.

Thánh Thể có sức mạnh biến đổi cả thế giới, nhưng đó không phải là sức mạnh của vũ lực, mà là sức mạnh của t́nh yêu, của ḷng trắc ẩn, của sự trao ban. Muốn đón nhận được sự biến đổi ấy, muốn biến đổi nước lă thành rượu ngon, không có cách nào khác ngoài việc vâng lời chỉ dạy của Đức Mẹ : “Người bảo ǵ các anh cứ việc làm theo”.


Kết luận

Chúng ta vừa rảo qua hành tŕnh đức tin của Đức Maria, qua đó t́m hiểu và sống mầu nhiệm Thánh Thể cùng với Mẹ, “Người nữ của Thánh Thể”. Trong cả bốn sách Tin mừng, chỉ vỏn vẹn t́m được bảy lời của Đức Maria mà thôi, hay nói đúng hơn chỉ là sáu lời, c̣n một lời chỉ là Đức Maria tự hỏi. Thế nhưng trong những lời vắn vỏi ấy, chúng ta có thể khám phá hành tŕnh đức tin phong phú của Mẹ, có thể thấy được mối tương quan sâu sắc giữa cuộc đời của Mẹ và Bí tích Thánh Thể. Mối tương quan ấy trở thành bài học tâm linh quư báu cho người linh mục và cho tất cả mọi người.

Cả cuộc đời của Mẹ là sự cưu mang, sinh hạ, nuôi dưỡng, và trao ban Chúa Giêsu cho trần thế. Nếu Thánh Thể là lời chất vấn ư nghĩa hiện hữu của người linh mục, th́ Đức Maria đă trải qua sự chất vấn ấy ; nếu Thánh Thể là một thách đố của niềm tin, th́ Đức Maria đă trải nghiệm những thách đố này ; nếu Thánh Thể là lời mời gọi người linh mục xin vâng trọn vẹn, th́ nơi Đức Maria, với lời Fiat, có c̣n lời xin vâng nào trọn vẹn hơn nữa không ? Nếu Thánh Thể là lời ngợi khen cảm tạ, th́ lời kinh Magnificat của Mẹ là lời ngợi khen cảm tạ tuyệt vời nhất ; nếu Thánh Thể là lời mời gọi người linh mục khao khát t́m kiếm Thiên Chúa, th́ có ai khao khát và t́m kiếm Thiên Chúa hơn Mẹ nữa ? Nếu Thánh Thể là lời mời gọi người linh mục chia sẻ vận mạng với tha nhân, th́ Đức Maria đă chia sẻ trọn vẹn vận mạng của Con ḿnh và vận mạng của cả nhân loại. Và nếu Thánh Thể là nẻo đường người linh mục dẫn tha nhân đến gặp Thiên Chúa, th́ hơn ai hết, Mẹ đă là cầu nối đưa dẫn mọi người đến gặp gỡ Thiên Chúa, lắng nghe và thực hiện lời Người.

Đức Maria măi măi là người phụ nữ của Thánh Thể, đó phải là gương mẫu sáng ngời cho người linh mục. Cùng với Mẹ Maria, người linh mục cũng phải nỗ lực để trở nên người linh mục đích thực của Chúa Giêsu, người linh mục của Thánh Thể.


 

[1] Bài suy niệm này dựa theo hành tŕnh đức tin của Đức Maria, nên xin tham khảo thêm những lời Đức Mẹ đă nói trong Tin mừng : Lc 1,29.34.38.46-55 ; 2,48; Ga 2,3.5

[2] Xc. Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, chương VI.

[3] Xc. Tông thư Rosarium Virginis Mariae, số 14.

[4] Xc. Ga 2,5.

[5] Lúc này chưa có Bí tích Thánh Thể hiểu theo nghĩa hẹp ; nhưng Thánh Thể là chính Đức Giêsu, con yêu dấu của Mẹ, nên khởi điểm cuộc việc truyền tin, cách nào đó có thể hiểu là chính Ngôi Lời, chính Thánh Thể đang mời gọi và chất vấn Mẹ ; để từ đó, với tất cả tự do và trái tim yêu thương, Mẹ đáp lời xin vâng sau này.

[6] Xc. Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, số 53.

[7] Ibidem số 55.

[8] Xc. Ibidem số 54.

[9] Xc. St 3,15.

[10] Xc. Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, số 55.

[11] Xc. Lc 2, 33-35.

[12] Lc 1, 48-49.

[13] Xc. Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, số 57.

 [14] The Gardener LXXV. Lê Quang Phúc, “Trực cảm tâm linh”, tr. 134.

[15] Xc. Dt 11,6.

[16] Xc. Mt 7, 7-12.

[17] Xc. Mt 14, 13-21; Mc 6, 30-44; Lc 9, 10-17; Ga 6, 1-15.

[18] Xc. Mc 6,34.