![]() |
|
|
Phần 1:
“Không
phải anh em đă chọn thầy,
nhưng chính Thầy đă chọn anh em”
(Ga 15,16).
1
Suy niệm Thánh vịnh 62, 2-9.
Trong muôn vàn lối nh́n về người linh mục, tôi vẫn thích nh́n linh mục như một người đói khát, khát khao t́m kiếm. Đối diện với nỗi khát khao này, tôi biết rằng đó là một cuộc kiếm t́m liên lỷ ; hay nói đúng hơn là chấp nhận liên lỷ để được Thiên Chúa kiếm t́m. Cuộc hạnh ngộ chẳng biết xảy đến lúc nào : lúc khởi đầu, giữa hành tŕnh, hay kết thúc hành tŕnh đức tin ? Cứ lên đường, cứ t́m kiếm, có thể nói t́m kiếm là một cách định nghĩa về căn tính của người linh mục. Linh mục là người khát khao t́m kiếm Thiên Chúa ; linh mục là người chấp nhận để Thiên Chúa t́m kiếm ḿnh ; và linh mục là người bị Thiên Chúa quyến rũ.
Đây chẳng phải là cuộc kiếm t́m vu vơ, nhưng là sự thôi thúc của trái tim yêu thương, bởi chưng trái tim ấy chẳng lúc nào chịu ngơi nghỉ, nhưng luôn hướng về Đấng dựng nên ḿnh. Thiên Chúa gieo vào ḷng người linh mục niềm khát vọng, nỗi khắc khoải khôn nguôi, để người linh mục phải lên đường t́m kiếm Người luôn măi. Tác giả Thánh Vịnh 62 diễn tả rất sống động điều này : “Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ ngay từ rạng đông con t́m kiếm Chúa. Linh hồn con đă khát khao Ngài, tấm thân này ṃn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn không giọt nước”. Ngôn sứ Isaia nhắc nhở chúng ta : Hăy t́m kiếm Chúa khi Người c̣n cho gặp[1] và Thánh vịnh 118 ca ngợi hết lời hạnh phúc của những ai hết ḷng t́m kiếm Thiên Chúa. Những cuộc t́m kiếm này càng tỏ rơ hơn trong những tŕnh thuật của Tin mừng. Trong Tin mừng ta bắt gặp được sự t́m kiếm của các mục đồng,[2] nỗi khát khao những nhà chiêm tinh đi t́m Chúa.[3] Và rồi chúng ta cũng thấy h́nh ảnh của ông Giakêu : Thiên Chúa đi t́m kiếm kẻ t́m kiếm Người.[4] Sự khao khát và t́m kiếm Thiên Chúa diễn ra với nhiều cách thức. Có người khởi đi từ những nẻo đường trần thế, từ đó khám phá ra Thiên Chúa ;[5] có người khởi đi từ căn pḥng nội tâm, để khám phá ra nơi ḷng ḿnh có Thiên Chúa hiện diện.[6] Điểm xuất phát của mỗi người mỗi khác, nhưng tất cả đều gặp nhau ở điểm khám phá ra Thiên Chúa là Đấng yêu thương con người, và một khi đă cảm nhận được t́nh yêu này, con người được mời gọi đáp trả. T́m kiếm Thiên Chúa cũng chính là t́m kiếm thánh ư của Người trong cuộc đời ḿnh ; t́m kiếm những cách thức bày tỏ và đáp trả t́nh yêu ấy ; t́m kiếm cách thức diễn tả h́nh ảnh sống động của Người trong từng cung cách hành xử, từng chọn lựa của người linh mục. Để biết được đâu là ư Chúa, đâu là ư riêng ḿnh, và đâu là sự xúi giục của ma quỷ, c̣n cần phải có ơn khôn ngoan và phân định thần khí. Đó là cả một hành tŕnh liên lỷ trong suốt cuộc sống, hành tŕnh nhiêu khê và diệu vợi.
Không chỉ người linh mục đi t́m Thiên Chúa, mà đúng hơn, Thiên Chúa đi t́m người linh mục ; Thiên Chúa luôn chủ động, đi bước trước, t́m kiếm và mời gọi con người. Người linh mục chỉ có thể đáp lại lời mời gọi của Chúa bằng chính t́nh yêu của ḿnh. Không có t́nh yêu, mọi lời đáp trả đều là khiên cưỡng. Chỉ có t́nh yêu mới có thể đáp trả t́nh yêu. Thiên Chúa đă yêu con người, say mê con người, cất công t́m kiếm con người, và đợi chờ con người đáp trả t́nh yêu ấy. Thánh Gioan định nghĩa : “Thiên Chúa là t́nh yêu”.[7] Ngay trong Cựu ước, mặc khải này đă được hiển tỏ. Thiên Chúa đă mặc khải cho ông Môsê biết t́nh yêu của Người dành cho dân riêng ;[8] chính v́ yêu thương, mà Chúa đă chọn dân ;[9] Chúa đối xử với dân như người chồng đối với vợ,[10]như người cha chạnh ḷng thương con cái ;[11] và dù cho dân có cảm thấy ḿnh lầm lũi, th́ cũng không phải v́ thế mà cho rằng Thiên Chúa không xót thương dân Người.[12] Khi t́m hiểu những dụ ngôn nói về Nước trời trong Tin mừng theo thánh Matthêu, đặc biệt là dụ ngôn kho báu và viên ngọc quư,[13] chúng ta thấy Nước trời quư giá dường nào, và con người một khi đă nhận biết, th́ đánh đổi tất cả để có được Nước trời ấy. Tuy nhiên, chúng ta cũng khám phá ra chiều kích ngược lại : người đi t́m ngọc đẹp đó, không ai khác mà là chính Thiên Chúa ; và viên ngọc quư là mỗi người chúng ta. Khi t́m được con người, Thiên Chúa đánh đổi tất cả, trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế, để chiếm cho bằng được viên ngọc quư đó. Thiên Chúa yêu chúng ta, Thiên Chúa kiếm t́m chúng ta, đó là điều hiển nhiên rồi. Thánh Gioan nói rất rơ : “T́nh yêu cốt ở điều này : không phải chúng ta yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đă yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta”.[14] Chính v́ t́nh yêu ấy, người linh mục đă bị quyến rũ :
“Lạy Đức Chúa, Ngài đă quyến rũ con, và con để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con và Ngài đă thắng” (Gr 19,7). Cảm nhận của ngôn sứ Giêrêmia, cũng chính là cảm nhận của những con người khát khao t́m kiếm và cảm được hạnh phúc khi bắt gặp phút giây hạnh ngộ. Đó chính là một t́nh yêu rực cháy. T́nh yêu này có sức mạnh phi thường, bao trùm cả t́nh yêu nhân loại, và luôn luôn hướng về sự trọn vẹn. Sách Diễm Ca tŕnh bày cho chúng ta khía cạnh thứ nhất của cuộc t́nh quyến rũ ấy : “Lửa t́nh là ngọn lửa bùng cháy, một ngọn lửa thần thiêng. Nước lũ không dập tắt nổi t́nh yêu sóng cồn chẳng tài nào vùi lấp”.[15] Bằng ngôn ngữ diễn tả t́nh yêu nam nữ, sách Diễm Ca đă nhận ch́m con người vào bể t́nh yêu vô tận của Thiên Chúa. Trong bể t́nh ái ấy, con người cảm nghiệm và khao khát Thiên Chúa cách mănh liệt, nỗi khao khát muốn thuộc trọn về người ḿnh yêu, và người yêu thuộc trọn về ḿnh.[16] T́nh yêu Thiên Chúa không loại trừ t́nh yêu nhân loại. Thiên Chúa không đặt con người vào sự chọn lựa mang tính loại trừ. Con người vừa yêu Thiên Chúa, đồng thời phải yêu tha nhân nữa. T́nh yêu Chúa như ngọn lửa hồng rực cháy, chúng ta có thể làm cho ngọn lửa ấy cháy lan ra cả một cánh rừng ; và dù có lan rộng tới đâu, ngọn lửa yêu mến Thiên Chúa cũng không v́ thế mà bị lụi tàn hay dập tắt. Do vậy, không thể nói đến t́nh yêu Thiên Chúa mà không đề cập đến t́nh yêu đồng loại. Chúng ta chỉ có thể nói được ḿnh yêu Thiên Chúa khi chúng ta biết yêu thương chính ḿnh, yêu thương đồng loại, và yêu thương cả công tŕnh sáng tạo của Người. Thánh Gioan nói : “Ai không yêu thương người anh chị em mà họ trông thấy, th́ không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy được”.[17] V́ vậy, t́m kiếm và thăng tiến những điều thiện hảo nơi tha nhân và nơi công tŕnh sáng tạo, là trường học dạy ta biết yêu mến Thiên Chúa, Đấng sáng tạo muôn vật muôn loài. Một khi đă bị Thiên Chúa quyến rũ, người linh mục cũng luôn được mời gọi dâng hiến một t́nh yêu trọn vẹn. Thiên Chúa không ghen tỵ với t́nh yêu con người, nhưng Người luôn mời gọi con người hoàn trọn t́nh yêu của ḿnh : Hăy yêu Chúa hết ḷng, hết linh hồn, hết sức lực, hết trí khôn ; đồng thời cũng phải yêu người thân cận như chính ḿnh". Tất cả mọi lề luật của đạo thánh Chúa đều quy về đức ái : “Yêu thương là chu toàn lề luật vậy”.[18] V́ Thiên Chúa là t́nh yêu, nên mọi t́nh yêu đều bắt nguồn từ Thiên Chúa, được Thiên Chúa thôi thúc. Đức Giêsu nói: “Thầy đă đến ném lửa vào mặt đất, và những ước mong phải chi lửa ấy đă bùng lên”.[19] Người đă đem vào trần gian một thứ lửa, đó là t́nh yêu. Và Người đă chết v́ t́nh yêu ấy : “Không có t́nh yêu nào cao quư cho bằng hy sinh tính mạng v́ bạn hữu của ḿnh” (Ga 15,13). Người linh mục được mời gọi khắc hoạ lại t́nh yêu ấy, làm cho t́nh yêu ấy lan rộng. Một khi cảm nhận được t́nh yêu, người linh mục được mời gọi vươn lên khỏi mọi mối biển lận tầm thường, nâng tâm hồn vươn lên khỏi những điều ti tiện hằng ngày trong cuộc sống. Một t́nh yêu đích thực không có chỗ cho ích kỷ, v́ ích kỷ th́ chỉ là yêu ḿnh, là quy ngă. Thiên Chúa đă ra khỏi chính ḿnh để đến với con người, người linh mục cũng được mời gọi đến với tha nhân bằng cách ra khỏi chính ḿnh, ra khỏi vỏ ốc đời ḿnh, ra khỏi những suy nghĩ chật hẹp, ra khỏi những tích cóp xoay xở cho hạnh phúc riêng tư. Lư tưởng luôn đẹp, nhưng thực tế không ít những phũ phàng ; chân trời phía trước vẫn là lối ngỏ cho cuộc hành tŕnh dài khám phá, kiếm t́m và cần được đỡ nâng.
Cuộc đời linh mục là một cuộc đời t́m kiếm Thiên Chúa, và nhận ra Thiên Chúa đang kiếm t́m ḿnh. Người linh mục không chỉ t́m kiếm Thiên Chúa cho ḿnh mà c̣n cho tha nhân. Cuộc t́m kiếm ấy không ít gian nan, đau khổ ; nhưng một khi cảm nhận được t́nh yêu, dám sống cho t́nh yêu, th́ dù có đau khổ, cũng sẽ cảm được một niềm vui tuyệt diệu : “Người đă thực hiện trăm muôn điều kỳ tuyệt, Người tôi yêu ơi, tuyệt vời thay, Người đă gởi cho tôi ngọn lửa khổ đau này. Bởi hương trầm tôi sẽ chẳng ngát thơm nếu không đốt cháy và ngọn đèn tôi sẽ tối mù nếu không được thắp lên. Khi trí ḷng tôi ngây dại, cơn u mê này phải được xua tan bởi ánh chớp t́nh Người và tăm tối phủ đời tôi bỗng bùng lên như ngọn đuốc sáng khi sấm chớp tự Người đốt sạch cơi u minh”.[20] [1] Xc. Is 55, 1-11. [2] Xc. Lc 2, 1-20. [3] Xc. Mt 2, 1-12. [4] Xc. Lc 19, 1-10. [5] Có thể nói, đại diện cho nẻo đường khám phá này là thánh Tôma Aquinô. [6] Có thể coi đây là con đường của thánh Augustinô, con đường trở về nội tâm của ḿnh. [7] 1Ga 4,8. [8] Xc. Xh 34, 4-9. [9] Xc. Đnl 7, 6-11. [10] Xc Ed 16, 1-14. [11] Xc. Hs 11, 1-9. [12] Xc. Ac 3, 32. [13] Xc. Mt 13, 44-46. [14] 1Ga 4,10. [15] Dc 8, 6b-7a
[16]
Nhiều lần sách Diễm Ca đă dùng kiểu nói này để diễn tả công thức Giao
ước : [17] 1Ga 4,20. [18] Rm 13,10. [19] Lc 12, 49. [20] Lover’s Gift and Crossing, tr. 66-67 (Trích lại trong Lê Quang Phúc, Rabindranath Tagore, Trực cảm tâm linh, tr.13).
|
|