Ngày 12 tháng 07
Thánh Ignatiô DELGADO Y
Giám mục ḍng Đaminh (1762-1838)

Chiến sĩ truyền giáo

Với gần nửa thế kỷ hăng say trong việc truyền giáo tại Việt Nam và 43 năm giám mục cuộc đời thánh Ignatiô Y gắn liền với giáo phận Đông Đàng Ngoài, nay là năm giáo phận Hải Pḥng, Bùi Chu, Bắc Ninh, Lạng Sơn và Thái B́nh. Hoạt động của ngài trải dài trên ba triều đại : Thời Cảnh Thịnh với nhiều khó khăn từng khu vực giúp ngài nhận định được nhu cầu, để đến thời Gia Long ngài phát triển giáo phận Đông với mức cực thịnh, đủ sức đương đầu với những cơn giông tố bách hại thời Minh Mạng, và đó cũng là mùa gặt phong phú "các Thánh tử đạo" của giáo phận. Số linh mục bản xứ, số tu sĩ nam nữ, số giáo dân tăng nhanh mỗi năm đă là những chứng cớ hùng hồn nhất cho chúng ta thấy nhiệt t́nh và tài lănh đạo của ngài.

Ư chúa nhiệm mầu

Ignatiô Y Delgado sinh ngày 23.11.1762 tại làng Villafeliche, tỉnh Saragozza, miền Aragon, Tây Ban Nha. Từ thuở niên thiếu, Ignatiô Ychịu ảnh hưởng nhiều của các nữ tu Xitô. Say mê đọc sách cậu nghiền ngẫm tối ngày những truyện tích của các d́, hơn nữa ngôi làng của cậu từ núi đồi đến đồng cỏ, đất đai đến cây rừng đều ghi dấu những nữ tu áo trắng, con cái thánh Bernadô này. Do đó cậu đă nuôi chí dấn thân phục vụ Chúa trong đan viện.

Thế nhưng Chúa lại an bài cách khác. Ngày kia có một người bạn có ư định đi tu ḍng Đaminh rủ cậu cùng đi, Ignatiô Y liền nhận lời. Sau đó cả hai đến gơ cửa tu viện Thánh Phêrô tử đạo ở Cata laydud, thuộc tỉnh ḍng Aragon. Cậu vào nhà tập khi 18 tuổi và khấn năm 1781. đang khi theo học tại đại học Orihuela, Delgado được biết việc truyền giáo của ḍng tại Đông Nam Á. Trong thư ngày 25.06.1780, cha chính Alonsô Phê ở Việt Nam báo cáo số người và công việc, đă xin gởi thêm nhiều nhà truyền giáo "nhân đức, thông thái và can đảm". Delgado thấy ḷng ḿnh sôi sục ư muốn truyền giáo. Năm 1785,sau khi bàn hỏi các bề trên, thày Delgado xin chuyển qua tỉnh ḍng Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi và được gởi tới Manila Phi Luật Tân để tiếp tục học tập.

Vị giám mục trẻ trung

Năm 1787, thày Delgado được thụ phong linh mục. Năm sau trong số 15 tu sĩ t́nh nguyện đến Việt Nam, bề trên chọn Delgado và một người nữa. Thế nhưng nước Việt khi đó đang có nội chiến, nên hai vị thừa sai phải lưu lạc đến Macao, đến Malacca rồi lại trở về Macao. Cuối cùng, năm 1790 cha mới đến được đất truyền giáo cùng với ba thừa sai khác, trong đó có cha Henares Minh.

Tuy mới tới Việt Nam, nhưng mọi người đă nghe đồn về tài năng và nhân đức của cha Delgado khi c̣n ở Manila, nên đă quư mean cha cách đặc biệt . Sau vài tháng học tiếng cha được cử coi sóc chủng viện hai năm. Làm cha chính giáo phận hai năm, kiêm chức đại diện coi sóc các cha ḍng Đaminh. Sự khôn ngoan nhân đức của cha được xác nhận khi Đức Cha Alonsô Phê đệ tŕnh lên Toà Thánh xin đặc cha làm giám mục phó có quyền kế vị. Đức Piô VI đă chính thức công nhận trong đoản sắc ngày 11.02.1794, nhưng măi tháng 09 năm sau nghi lễ tấn phong mới được cử hành trong niềm vui của toàn giáo phận. Vị Tân giám mục khi đó mới 33 tuổi.

Các sử gia ghi nhận Đức cha Ignatô Y đă thích ứng được với miền truyền giáo ngay từ những ngày đầu, từ khí hậu, ngôn ngữ đến phong tục và những món ăn địa phương. Bốn năm coi chủng viện và làm cha chính, giúp ngài hiểu rơ về t́nh h́nh địa phương cũng như các giáo sĩ. Giờ đây với chức vụ mới, ngài là vị cộng tác đắc lực vả hữu hiệu của Đức Cha Alonsô Phê trong việc quản trị và truyền giáo. Tháng 8-1798, khi vua Cảnh Thịnh ra sắc chỉ cấm đạo, triệt hạ các nhà thờ bắt bớ các thừa sai linh mục và thày giảng, ép buộc các tín hữu bỏ đạo, Đức Cha Delgado liền viết thư luân lưu cho các gíao sĩ thu cất các đồ thờ, nếu phải ẩn trốn th́ đừng đi quá xa, để có thể tiếp tục phục vụ các giáo hữu. Đặc biệt Đức Cha tin tưởng vào sức mạnh từ trời cao khi kêu gọi các tín hữu ăn chay những ngày thứ tư, và đọc kinh cầu các thánh mỗi ngày cầu xin ơn b́nh an.

Trong báo cáo gởi về cho tỉnh ḍng Mẹ, Đức cha viết : "…Các giáo sĩ phải ẩn trong hầm hố, trong rừng sâu hay trên đồng vắng, nhưng vẫn lén lút cải trang về thăm các giáo hữu". Riêng hai vị giám mục vẫn tiếp tục đi thăm viếng hết xứ này đến xứ khác trong giáo phận vẫn tiếp tục đi thăm viếng hết xứ này đến xứ khác trong giáo phận. Một hôm Đức Cha Phê đi kinh lư tại khu vực trấn kinh Bắc (Bắc Ninh) th́ sốt rét và qua đời tại Lai Ổn ngày 02.02.1799, trút hết gánh nặng Giáo phận cho Đức cha Y. trong bài giảng lễ an táng. Đức Cha Y nhắc lại mẫu gương và lời kinh vị tiền nhiệm thường đọc là : "Lạy Chúa xin hăy nung đốt con, cưa cắt con đừng tha thứ cho con ở đời này, để con được thứ tha muôn đời". Đức Cha Y đă nối tiếp truyền thống và mẫu gương đó, suốt đời chấp nhận gian khổ và không quản ngại để phục vụ Chúa trong tha nhân.

Khôn ngoan và can đảm

Công việc Đức Cha quan tâm nhất là đến thăm tất cả các họ đạo dù đường xá xa xôi trace trở đến đâu. Từ đầu năm 1803, công tác này được san sẻ cho vị Tân giám mục Henares Minh (thụ phong ngày 09.01.1803). Lúc đó, đường xá miền Bắc không được như bây giờ, hai vị giám mục đă phải đi hàng ngàn cây số đường ṃn bờ đê, phải xuyên rừng leo núi … thế mà không họ lẻ nhỏ nhất nào không được các vị đến thăm nhiều lần. Tại mỗi nơi các ngài đưa ra chỉ thị cụ thể, sửa lại những lạm dụng, trừ diệt những thói dị đoan và xoá bỏ tệ nạn cho vay nặng lăi.

Suốt thời đại Gia Long và những năm đầu thời Minh Mạng, tuy c̣n một vài vụ bắt bớ ở địa phương, nhưng nói chung đây là thời tương đối b́nh an nhất. Đức cha Y đă tận dụng giai đoạn này để tổ chức giáo phận vững chắc hơn. Ngài quan tâm nhiều đến việc đào tạo linh mục bản xứ, củng cố chủng viện nhất là tại Ninh Cường, Lục Thuỷ, Tiên Chu và Ngọc Đồng. Số linh mục chỉ 10 năm sau đă tăng gấp đôi (năm 1810 có 54 linh mục Tây và Việt). Là thành phần ḍng Đaminh, đức cha được sự hộ trợ tích cực của tỉnh ḍng Mẹ về nhân sự trong giáo phận, thế nhưng chủ yếu ngài đào tạo linh mục triều, rồi sau khi đă làm linh mục, nếu ai muốn rồi mới xin chuyển qua ḍng. Ngoài 16 cha ḍng Việt cũ, thời Đức Cha Y có thêm 66 cha ḍng người Việt, hỗ trợ công tác mục vụ và truyền giáo, sát cánh với linh mục triều.

Suốt 20 năm thái b́nh, các tín hữu được tự do tham dự kinh lễ mỗi ngày, nên được học hỏi về giáo lư kỹ lượng hơn và sống đạo tốt hơn. Nhiều nơi tổ chức ghi lễ công khai và long trọng, lôi cuốn các anh em lương dân đến dự rồi t́m hiểu và bỏ những thành kiến nghi kỵ với đạo. Thí dụ trước đây họ thường trách người theo đạo là bỏ cha mẹ tổ tiên, nay mới hiểu được trong đạo có những ghi lễ chôn cất, giỗ chạp cũng trang nghiêm và đầy ư nghĩa. Dần dần số người xin theo đạo ngày càng đông. Chỉ trong 10 năm có hơn 10.000 người lớn xin rửa tội. Con số 114.000 tín hữu khi Đức Cha Y nhận quyền giáo phận đă tăng lên 160.000 vào năm 1815, với gần 800 họ đạo.

Ư thức trách nhiệm ḿnh đối với tiền nhân, đức cha cho ủy nhiệm một số người và đích thân điều hành việc nghiên cứu cuộc đời sự nghiệp hai linh mục tử đạo tại Hà Nội năm 1773 là cha Castañeda Gia và Vinh Sơn Liêm. Năm 1818, Đức Cha hoàn tất hồ sơ xin phong thánh gởi về Rôma.

Những năm đầu thời Minh Mạng, ôn dịch hoành hành khắp nơi, có tỉnh chết hàng chục ngàn người, kinh tế kiệt quệ, mọi người khiếp sợ, lương dân cũng như giáo hữu chạy vào nhà thờ xin nước thánh, nhà vua không dám ra khỏi cung điện. Tiếp đến là mất mùa hạn hán và đói khổ… Nhân cơ hội này Đức Cha Y cổ động các thừa sai và tín hữu thể hiện long bác ái, săn sóc các bệnh nhân cứu trợ người túng thiếu… khiến mọi người kính nể.

Giông tố mở màn

Những chiếu chỉ cấm đạo 1825 và 1833 không được thi hành triệt để ở giáo phận Đông Đàng Ngoài, các quan có thiện cảm với đạo, lại pḥ Lê hơn pḥ Nguyễn, nên báo cáo với vua cho có h́nh thức. Bất ngờ ngày 17.04.1838, thày Vũ Văn Lân, thày giảng của cha Viên, về ṭa giám mục lănh dầu thánh, mang theo sáu lá thư (cho hai Đức cha, hai linh mục thừa sai và hai linh mục người Việt), bị phát hiện và bị bắt. Tổng Đốc Trịnh Quang Khanh hí hửng đưa sáu lá thư về khoe với vua. Tuần phủ Hưng Yên liền bị cách chức, Trịnh Quang Khanh bị triều về kinh khiển trách. Tướng Lê Văn Đức dẫn thêm hai ngàn lính kinh đô ra hỗ trợ việc bắt đạo, băo tố bắt đầu bùng lên trên đất Nam Định. Nhiều mật thám đă phái đi len lỏi khắp nơi. Hai chủng viện Ninh Cường, Lục Thủy và nhiều nhà chung nhà phước tự rỡ xuống để tránh sự ḍm ngó, các chủng sinh phải giải tán, các nữ tu phải trở về gia đ́nh, giáo hữu phải tự t́m chỗ ẩn. Hai Đức Cha và hai thừa sai đến náu thân tại làng Kiên Lao.

Con đường Thập Giá

Kiên Lao là một làng lớn, nguyên số tín hữu cũng lên đến 5.000 người. Các kỳ mục trong xứ thu xếp cho hai Đức cha và hai thừa sai ở bốn nhà khác nhau. Gần chỗ Đức cha Ignatiô Y trốn có thày đồ Hy, các kỳ mục cẩn thận đến điều đ́nh xin ông tạm thời dời chỗ dạy học. Thấy lạ thày đồ gạn hỏi các học sinh và biết được có người Âu Châu núp, liền đi báo với các quan. Ngày 27.05.1838, khoảng 200 lính đến bao vây làng Kiên Lao dưới sự chỉ huy của quan Lê văn Thế. Họ kiểm tra qua loa rồi bỏ đi. Các thừa sai tưởng yên ổn nên sinh hoạt b́nh thường. Không ngờ ngay sáng hôm sau, quân lính trở lại và bao vây đùng nhà các ngài đang ở ẩn.

Cha Jimenô Lâm và cha Hermosilla Vong nhanh chân trà trộn vào đám đông chạy thoát. Đức Cha Henares Minh được đưa đi trốn ở nhà khác (một tuần sau mới bị bắt). C̣n Đức cha Y đă 76 tuổi, được anh em tín hữu khiêng đi trên vơng bị lính nhận ra, đuổi theo và bắt tại chỗ. Họ trói Đức Cha nằm trong vơng và cáng về đ́nh làng, vừa đi vừa reo ḥ mừng rỡ, quên cả việc bắt các thừa sai c̣n lại.

Viên quan hỏi Đức cha "Ông từ đâu đến?". Ngài đáp : "Tôi ở nơi khác mới đến làng này, họ chẳng liên hệ ǵ đến tôi". Quan nói : "Ông đă bị bắt, ông có thể tự vẫn như những người dũng cảm khác thường làm". Đức Cha trả lời : "Chúng tôi không được tự vẫn, v́ đó là trọng tội. Nhưng nếu v́ đạo, quan truyền giết tôi th́ tôi hết sức vui mừng".

Chiều đến, đức cha được đưa về phủ Xuân Trường. Đêm đó quan Lê Văn Thế truyền nhốt Đức Cha vào cũi gỗ, bốn phía có các hàng song như cũi giam thú dữ, các song gỗ được đóng liền sát với nhau không thể tḥ tay ra ngoài, trên nóc ông cho trổ một cửa nhỏ để đưa cơm nước cho tù nhân. Chiếc cũi thấp tè, khiến người bị giam không bao giờ đứng thẳng được, đó sẽ là căn nhà của đức cha từ nay cho đến chết.

Về phần Tổng Đốc Trịnh Quang Khanh, khi nghe tin liền gởi 100 lính đến hỗ trợ, áp giải tử phủ về tỉnh Nam Định 11 giờ trưa, ngày 30.05, tất cả các quan tỉnh cùng 2000 lính đón chờ "con mồi vĩ đại" mới bắt được. Cờ xí rợp trời, trống cái trống con, chiêng la vang dội… thế là họ vô t́nh đón rước người anh hùng đức tin với nghi thức một quân vương. C̣n vị anh hùng, ngài quỳ gối cầu nguyện trong cũi, tay không rời cuốn sách vẫn đem theo từ lúc bị bắt, có lẽ là cuốn sách nguyện.

Không thể kể cho xiết những nỗi khốn cực đức cha phải chịu suốt 43 ngày bị giam trong cũi. Ăn uống th́ thiếu thốn, rồi những buổi tra hỏi, những lời sỉ nhục chửi bới, có người c̣n nhổ nước miếng vào mặt. Sau những buổi hỏi cung, quân lính khiêng cũi ra bỏ ở cửa Tây của thành. Ḿnh ngài lúc nào cũng nhễ nhăi mồ hôi dưới sức nóng mặt trời hoặc lạnh cóng v́ sương đêm lạnh lẽo. Thế nhưng ngoài những lời khai về lư lịch bản thân, đức cha không tiết lộ một người nào hay một vùng nào liên hệ.

Thỉnh thoảng đức cha lại nói với quan và lính rằng : "Các ngài chưa biết về đạo Chúa Giêsu, nếu các ngài biết, hẳn các ngài sẽ theo đạo".

Ngày 14.06, Trịnh Quang Khanh gởi bản án về hoàng cung, nhưng vua Minh mạng không châu phê, v́ vua muốn vị thừa sai nhận tội "làm mật thám". Dĩ nhiên ngài không thể nhận điều vu cáo ấy được. Một hôm ngài nói với quan : "Tôi ở An Nam đă 48 năm, tôi có giấy tờ của Tiên Đế (Gia Long) cho phép giảng đạo. Xin quan cứ dẫn tôi về triều đ́nh, nếu vua muốn nướng thịt tôi mà ăn th́ tôi cũng chịu…Xin đừng để lâu kẻo quân lính trông coi vất vả làm ǵ".

Dẫn đến vinh quang

Án xử lần thứ hai gởi vào kinh được vua châu phê ngay, nhưng bản án chưa kịp về đến nam Định th́ đức cha đáng kính đă từ trần. Với tuổi già 76, cộng với sức yếu v́ bệnh tật, một tháng rưỡi trong cũi đă làm đức cha kiệt lực và an nghỉ trong Chúa ngày 12.07.1838, sau 43 năm làm Giám Mục. Quân lính thấm dầu vào vải, quấn quanh ngón chân, đốt thử xem chết thật chưa, rồi báo cho quan tổng đốc hay. Quan quyết định : "Cứ thi hành mọi sự như án đă đề ra, để mọi người biết tội y nặng nề dường nào."

Quân lính liền khiêng cũi đức cha ra pháp trường Bảy Mẫu, đưa thi thể ra ngoài, rồi chém đầu trước sự hiện diện của quan giám sát và một vài tín hữu. Thi hài vị tử đạo được các tín hữu đem về an táng tại nhà thờ một thánh đường đă bị phá hủy ở Bùi Chu. Thủ cấp đức cha được treo nơi công cộng ba ngày, rồi ném xuống sông Vị Hoàng. Hơn ba tháng sau một người đánh cá vớt được, đưa về an táng chung với thi hài của ngài.

Ngày 27.05.1900 Đức Lêo XIII suy tôn vị giám mục ḍng thuyết giáo Ignatiô Y lên bậc chân phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh.