Ngày 12 tháng 07
Thánh Anê LÊ THỊ THÀNH (Bà Thánh Đê)
(1781-1841)

Thánh nữ tiên khởi Việt Nam

Nh́n lại lịch sử Giáo hội Công giáo Việt Nam, số chị em phụ nữ góp phần xương máu làm chứng đức tin không phải là ít. Tuy nhiên tinh thần kiên cường bất khuất v́ Đức tin kitô giáo của thánh nữ Anê Lê thị Thành là một mẫu gương hiếm có. Chính quan tổng đốc Trịnh Quang Khanh nổi tiếng "hùm xám tỉnh Nam" (Nam Định) cùng đành phải bất lực trong việc thuyết phục bà chối đạo. Quan áp dụng nhiều phương thế, từ khuyên dụ ngon ngọtt đến tra tấn nhục h́nh, gông xiềng, đ̣n đánh đến tan nát thân ḿnh, cũng không thể lung lạc đức tin trung kiên của thánh nữ. Những giọt máu tung toé v́ đ̣n vọt đă trở nên những bông hoa hồng kết thành triều thiên tử đạo, phần thưởng tuyệt hảo Thiên Chúa trọng thưởng : Anê Lê thị Thành, thánh nữ tiên khởi của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.

Người mẹ gương mẫu

Anê Lê thị Thành sinh khoảng 1781 tại làng Bái Điền, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hoá. Ngay từ nhỏ, cô Thành đă theo Mẹ về quê ngoại ở Phúc Nhạc, một giáo xứ lớn nay thuộc giáo phận Phát Diệm, tỉnh Ninh B́nh. Năm 17 tuổi cô kết hôn cùng anh nguyễn Văn Nhất, người cùng xă, và sống với nhau rất hạnh phúc, thuận hoà sinh hạ được hai con trai tên Đê và trân và bốn gái : Thu, Năm, Nhiên, Nụ. Tục lệ địa phương thường gọi tên cha mẹ bằng tên người con đầu ḷng, v́ thế mới có tên ông Đê, bà Đê. Hai ông bà sống hiền lành đạo đức, rất quan tâm đến việc giáo dục con cái. Cô Lucia Nụ, con gái út cung khai khi giáo quyền thẩm vấn trong việc điều tra phong thánh như sau :

"Thân mẫu chúng tôi rất chăm lo việc giáo dục chúng tôi. Chính người dạy chúng tôi học chữ và giáo lư, sau dạy cách tham dự thánh lễ và xưng tội rước lễ. Người không để chúng tôi biếng nhác việc xưng tội. Khi chúng tôi lơ là, người thúc dục chúng tôi bằng được mới thôi. Người cho chúng tôi nhập hội con Đức Mẹ, vào ban thiếu nữ thưa kinh ở nhà thờ".

Một người con khác, cô Anna Năm cũng xác minh : "Song thân chúng tôi chỉ gả con gái cho những thanh niên đạo hạnh. Sau khi tôi kết hôn thân mẫu thường đến thăm chúng tôi và khuyên bảo những điều tốt lành. Có lần người dạy tôi : Tuân theo ư Chúa con lập gia đ́nh là gánh rất nặng. Con phải ăn ở khôn ngoan, đừng căi lời cha mẹ chồng. Hăy vui long đón nhận Thánh Giá chúa gởi cho. Người cũng thong khuyên vợ chồng tôi : "Hai con hăy sống ḥa hợp, an vui, đừng để ai nghe chúng con căi nhau bao giờ".

Bà Anê Đê thật là tấm gương sáng về đạo hạnh cho các bà mẹ công giáo.

Từ bác ái đến tử đạo

Ông bà Đê có long bác ái hay thương giúp đỡ người, nhất là trọng kính và sốt sắng giúp đỡ các linh mục gặp khó khăn trong thời cấm đạo. Ông bà dành một khu nhà đặc biệt để các linh mục thừa sai trú ẩn. Chính đức ái đó đă đưa bà Đê đến phúc Tử Đạo.

Tháng 03.1841 đời vua Thiệu Trị, có bốn linh mục hiện diện tại làng Phúc Nhạc. Cha Berneux Nhân ở nhà ông tổng Phaolô Thức, cha Galy Lư ở nhà ông Trùm Cơ, cha Thành ở nhà bà Đê và cha Ngân ở một nhà khác.

Một người tên Đễ theo giúp cha Thành muốn lập công và tham tiền đă mật báo tin các linh mục trú ẩn cho quan Tổng Đốc Trịnh Quang Khanh. Chính quan Tổng Đốc đích thân chỉ huy 500 lính đột xuất bao vây làng Phúc Nhạc vào đúng sáng ngày lễ phục sinh (14.04.1841). Quan truyền tập trung giáo dân lại để quân lính lục soát từng nhà. Hai cha Thành và Ngân trốn thoát kịp. Cha Nhân vừa dâng lễ xong vội rời khỏi nhà trọ, sang trốn trên gác bếp nhà phước Mến Thánh Giá, nhưng vô t́nh để gấu áo ra ngoài kẽ ván nên bị bắt trứơc nhất. Cha Lư được ông Trùm Cơ đưa sang vườn nhà bà Đê ở sát bên. Bà Đê chỉ cho cha đường mương khô ở sau vườn cạnh một bụi tre : "Xin cha ẩn dưới rănh này, Đức Chúa Trời ǵn giữ th́ cha thoát, bằng không cha và con đều bị bắt".

Nói xong bà cùng con gái Lucia Nụ lấy rơm và cành khô che phủ lên, nhưng quân lính đă trông thấy cha chạy qua vườn nhà bà, nên họ đến bắt cha Lư và Đê, chủ nhà. Ông Trùm Cơ, bốn hương chức trong làng và hai nữ tu Mến Thánh Giá Anna Kiêm và Anê Thanh cũng bị bắt. Tất cả bị trói mang gông điệu ra đ́nh làng. Nhà bà Đê bị lục soát, thóc lúa, đồ dùng, tiền bạc đều bị lính lấy hết. Khi bị bắt, bà Đê rất sợ hăi, nhưng khi điệu bà ra đ́nh làng th́ gương mặt bà vui tươi và không có vẻ ǵ là sợ sệt nữa.

Mặc áo hoa hồng

Quân lính áp giải các nạn nhân về Gia Định. Họ phải đi suốt đêm rất cực nhọc. Bà Đê sức yếu, không chịu nổi gông quá nặng, phải có người nâng đỡ nhiều lần. Tới thành Nam bà bị giam chung với hai nữ tu. Sáu ngày sau ra trước công đường, quan ṭa bắt bà chối đạo bà đáp : "Tôi chỉ tôn thờ Thiên Chúa, không bao giờ tôi bỏ đạo Chúa muôn đời…"

Các quan truyền đánh đ̣n bà. Lúc đầu lính đánh bằng roi, sau dùng củi lớn quật vào chân bà. Bà không nản ḷng, khi chồng bà đến thăm, bà giải thích v́ sao bà kiên tâm như vậy : "Họ đánh đập tôi vô cùng hung dữ, đến đàn ông c̣n không chịu nổi, nhưng tôi đă được Đức mẹ giúp sức, nên tôi không cảm thấy đau đớn"

Đến lần thẩm vấn thứ hai, thứ ba thấy bà Đê vẫn một long trung kiên, quân lính được lệnh vừa đánh vừa lôi bà qua Thánh Gia. Nhưng bà sấp ḿnh xuống đất, kêu lớn tiếng rằng : "Lạy Chúa, xin thương giúp con, con không bao giờ muốn chối bỏ ḷng tin Chúa, nhưng v́ con là đàn bà yếu đuối, nên họ dùng sức mạnh để để cưỡng bách con đạp lên Thập Giá"

Lần tiếp theo ra trước ṭa, quan cho túm tay áo lại rồi thả rắn độc vào trong áo, nhưng bà Đê vẫn giữ được b́nh tĩnh cách lạ lùng. Bà đứng yên không hề nhúc nhích nên rắn không cắn, chỉ lượn vài ṿng rồi ḅ ra. Các quan truyền đánh bà dữ hơn nữa rồi giam trong ngục. Nhưng bà đă kiệt sức, đi không nổi, phải có người d́u. Một nhân chứng tên Đang, về sau cho biết : "Bà Anê Đê đă bị đánh đập tàn bạo đến nỗi thân ḿnh đầy máu mủ. Tuy vậy bà vẫn vui vẻ, và c̣n muốn chịu khó hơn nữa". Quả thật bà đă thể hiện trọn vẹn mối phúc thứ tám:

"Tin yêu Chúa Tể muôn trùng ,
Tan vàng nát ngọc chữ trung một ḷng".

Cô Lucia Nụ, đến thăm Mẹ trong ngục, thấy y phục thân mẫu loang lỗ máu, cô thương mẹ khóc nức nở, bà an ủi con bằng những lời tràn trề lạc quan : "Con đừng khóc nữa, mẹ mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui ḷng chịu khổ v́ Chúa Giêsu, sao con lại khóc?"

Bà c̣n khuyên : "Con hăy về chuyển lời mẹ bảo với anh chị em con coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác Thánh Giá chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên Đàng"

Ngoài những cực h́nh tra tấn nặng nề và ăn uống kham khổ, bà c̣n chịu thêm đau đớn của bệnh kiết lỵ. Hai nữ tu tận tâm săn sóc bà, các linh mục gởi thuốc đến thăm, ban bí tích giải tội, xức dầu và giúp bà. Trong giờ hấp hối người ta thường nghe bà cầu nguyện : "Lạy Chúa, chúa đă chịu chết v́ con, con hết long theo thánh ư Chúa. Xin Chúa tha mọi tội lỗi cho con".

Cuối cùng bà dâng lời sau hết : "Giêsu Maria Giuse! Con xin phó linh hồn và thân xác con trong tay Chúa, xin ban ơn cho con được tuân theo ư Chúa trong mọi sự".

Bà Anê Đê đă về nhà cha trên trời trong tinh thần thánh thiện ấy. Hôm đó là ngày 12.07.1841, sau ba tháng bị giam cầm hy sinh v́ đức tin. Bà hưởng thọ 60 tuổi.

Theo tục lệ, người lính cho đốt ngón chân bà để cho biết nạn nhân không c̣n sống. Họ tẩm liệm thi hài vào quan tài do nhà chung đem tới, rồi an táng tại pháp trường Năm Mẫu. Sáu tháng sau, giáo hữu cải táng về Phúc Nhạc.

Ngày 02.05.1909, Đức Piô X đă suy tôn chân phước cho bà Anê Lê Thị Thành. Bà thực xứng danh là gương mẫu và là các bổn mạng các bà mẹ Công Giáo Việt Nam. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.