NGÀY 22 THÁNG 01 Thánh tử đạo tiên khởi trên đất Việt Bốn mươi ba tuổi đời, mười năm truyền giáo trên đất Việt, trong đó gần 8 năm bị giam cầm, cuộc đời truyền giáo của Thánh Phanxicô Tế có vẻ không được thuận lợi, nhưng chính những năm tù này đă làm nên sự nghiệp của thánh nhân. Nhờ bối cảnh đặc biệt vị Linh Mục ḍng thuyết giáo đă tiếp tục thi hành xú mệnh của ḿnh ngay tại kinh đô Thăng Long. Cha vẫn đi thăm viếng và trao ban bí tích cho các giáo hữu, rửa tội cho nhiều tân ṭng. Rêng năm 1744, cha giải tội cho 1745 người, rửa tội 73 người( trong đó 32 người lớn) và xức dầu cho nhiều bệnh nhân. Thành quả đó của một "tù nhân" đủ cho mọi người thấy nhiệt tâm, tài năng và sự khéo léo của vị thánh Tử Đạo đầu tiên trên đất Việt. Tuổi xuân và khát vọng Phanxicô Gil de Federich sinh ngày 14-12-1727 tại Tortosa, Tây Ban Nha, quê hương của biết bao vị đại thánh và những vị thừa sai nổi tiếng. Được thừa hưởng truyền thống đạo đức đó, từ niên thiếu ngài nhận ra tiếng Chúa mời gọi sống đời dâng hiến, và đă xin gia nhập ḍng Đaminh. Sau một năm tập đầy ḷng nhiệt thành đạo đức tu sĩ Federich tuyên khấn trọng thể tại tu viện Santa Catalina thành Barcelona khi mới 16 tuổi. Sau nhiều năm học tập chăn chỉ, ngày 29-03-1072 tại Tortosa, thầy Federich được thụ phong linh mục, rồi bổ nhiệm làm giáo sư triết lư kiêm giáo sư các tu sĩ sinh viên. Thế nhưng ước nguyện thâm sâu của tân linh mục là được đi truyền giáo ở phương xa. Hai năm sau cha xin chuyển sang tỉng ḍng Đức Mẹ Mân Côi, là tỉnh ḍng đặc trách việc truyền giáo ở Viễn Đông. Cha xuống tàu, đến trụ sở tỉnh ḍng tại Phi Luật Tân năm 1733. Cha giám tỉnh Diego tại Manila rất quư trọng khả năng đức độ của cha Federich, nên đă chọn cha làm thư kư và phụ tá cho ḿnh. Trong công việc tham gia điều hành tại trụ sở, những tin tức ở các vùng truyền giáo ngày càng thúc đẩy cha thực hiện khát vọng truyền giáo. Những vần thơ cầu nguyện với Đức Maria của cha nói lên tâm t́nh đó:
Cuối cùng ước mơ cao đẹp này đă được thành tựu. Ngày 28-08-1735, cha Phanxicô đặt chân lên đất Việt Nam. Bấy giờ là thời vua Lê Ư Tông (1735-1739) và Uy Nam Vương Trịnh Giang (1729-1740). Trên cánh đồng truyền giáo Sau một thời gian ngắn học ngôn ngữ và phong tục, cha Federich Tế đă đến để phục vụ nhiều nơi. Mới đầu ở huyện Trực Ninh (Nam Định) rồi Vũ Tiên (Thái B́nh), sau đảm nhiệm hai giáo xứ Kẻ Mèn, Bắc Trạch : tiếp đó qua huyện Giao Thủy coi họ Lục Thủy và Quất Lâm. Một hôm ở Quất Lâm cha đang giải tội, bỗng giáo dân chạy vào báo tin lương dân đang lùng bắt người. Cha Tế vẫn cầu nguyện giây lát, rồi cứ tiếp tục giải tội. Sự b́nh tĩnh và bầu khí thiêng thánh của việc trao ban bí tích Ḥa giải đă cứu cha. Những người vây bắt đứng ngây người một lát rồi rủ nhau giải tán. Mối giây oan nghiệt … Mới được hai năm hoạt động ngắn ngủi, cha Tế đă bị bắt ngày 03-08-1737. theo sử sách, một nhà sư tên T́nh vốn ghét đạo Công Giáo, lại muốn t́m cách đ̣i tiền. Nhà sư đă đến xin phép quan huyện Giao Thủy, rồi đưa người đến vây bắt các trưởng ở làng Trung Linh. May là các Linh Mục ở đây biết trước nên trốn đi hết , nhưng sau đó nghe tin có đạo trưởng Âu Châu ở họ Lục Thủy, nhà sư đem quân đến vay ngay lúc cha Tế vừa dâng thánh lễ xong. Để nguyện đường khỏi bị xúc phạm và giáo hữu khỏi bị liên lụy, cha tự nghuyện ra nộp ḿnh, cha nói : "Các ông t́m bắt tôi, th́ chính tôi đây, xin hăy tha cho các giáo hữu của tôi." Khi nghe tin cha Tế bị giam giữ tại làng Thủy Nhai, giáo hữu của cha gom góp tiền đến gặp sư T́nh xin chuộc nhưng nhà sư chê ít và giữ cha tại nhà riêng mười ngày. Thấy thế giáo hữu lên tỉnh tŕnh quan và hứa sẽ hậu tạ nều vị linh mục được giải thoát. Quan trấn thủ Sơn Nam liền phái lính về Thuỷ Nhai bắt cả sư T́nh lẫn cha Tế. Vị sư này nhanh chân chạy thoát, lên tận kinh đô tố cáo với vua rằng : "Quan Trấn Thủ đă ăn hối lộ và làng Lục Thủy chứa chấp Tây Dương đạo trưởng." Khi hay tin quan trấn biết không thể tha cha Tế được nữa, nên đành áp giải cha về Thanh Long. Dọc đường cha lên cơn sốt rét trầm trọng, nhưng khi lên tới nơi cha vẫn phải mang gông và bị tống giam vào ngục. Năm tù đầu tiên và bản án Sau khi khỏi bệnh cha Phanxicô Tế được đưa ra ṭa hai ngày liền. Các quan đối xử tử tế với cha, nhưng dân chúng có người la ó, buông những lời khiếm nhă, có kẻ lấy que bẻ vụn làm thành h́nh Thánh Giá ném vào cha. Cha b́nh tĩnh nhặt lên hôn kính và cất Thánh Giá vào túi. Trong ngục cha được linh mục Nghi giả làm thầy lang vào thăm bệnh, giải tội và trao ḿnh thánh chúa. Suốt một năm cha Nghi cùng cháu của bà Kính vẫn ra vào thăm và tiếp tế. Qua những chứng nhân này, mọi người biết cha Tế luôn kiên nhẫn, b́nh tĩnh không trách cứ than van, và nhiều lần c̣n tỏ ư muốn được tử đạo. Ngày 10-07-1738, cha Tế bị đưa ra toà cùng với nhà sư T́nh. Quan trấn Sơn Nam Hạ khi áp giải cha về kinh đô đă tố cáo nhà sư đă chứa chấp cha mười ngày trong nhà. Để chạy tội vị sư này xin được đạp lên Thánh Giá, minh chứng ḿnh không ủng hộ đạo Công Giáo. Về phần cha Tế khi bắt cha bước qua Thánh Giá, cha trả lời : "Tôi không thể phạm tội nặng ấy được". Các quan hỏi về ư nghĩa ảnh tượng Thánh Giá. Cha đáp : "Ảnh này tượng trưng cuộc Tử Nạn con Thiên Chúa giáng sinh cứu chuộc loài người." Các quan nói tiếp : "Nhưng luật triều đ́nh cấm giảng đạo này". Cha trả lời : "Chẳng ai có quyền cấm giảng đạo Thiên Chúa đă truyền loan báo cho mọi dân mọi nước. Ai cấm tức là cướp quyền củaa Thiên Chúa." Các quan nghị án một lát, rồi tuyên án trảm quyết đạo trưởng Federich Tế, kết án sư T́nh và con trai phải phát lưu chăn voi. Ngày 12-09, bản án được chúa Trịnh Giang phê chuẩn, nhưng v́ nhà sư chạy chọt chống án ở nhiều nơi, nên bản án chưa được thi hành. Lời chúa không thể bị trói buộc. Thời gian sau đó v́ t́nh h́nh chính trị bất ổn, bản án của cha Tế bị lăng quên: Trịnh Doanh đảo chánh lật đổ anh, chiếm phủ chúa và tự phong là Minh Đô Vương (1740-1767) rồi Lê Hiển Tông lên ngôi lấy hiệu là Cảnh Hưng (1740-1786) giặc Lê Duy Mật nổi lên ở Thanh Hóa : dư đảng của nhà Mạc cũng nổi loạn ở Thượng Du… những biến cố dồn dập đó làm vua quan bận rộn đến nổi quên mất "tử tội" của ḿnh. Lợi dụng hoàn cảnh đó cha Tế khéo léo xin phép, có khi mất tiền để được đi lại trong thành Thăng Long để thăm viếng các tín hữu, trao ban Bí Tích và giảng đạo cho lương dân. Có gia đ́nh hai chị em bà Gạo là ngoại giáo đă vào xin quan cho cha Tế đến tá túc tại nhà ḿnh. Chị bà Gạo mắc bệnh nan y, không thuốc nào chữa nổi sau nhờ lời nguyện của cah Tế được khỏi bệnh nên xin được rửa tội ngay. C̣n bà Goạ một thời gian sau mới xin ṭng giáo lấy tên thánh Rosa. Hai chị em sống đạo rất gương mẫu. Thấy cha Tế ra vào ngục dễ dàng như thế. Đức Giám Mục Loger Gia ngỏ ư muốn đặt cha làm chính xứ Kẻ Chợ (Thăng Long). Nhưng cha từ chối v́ không chắc được dễ dàng măi. Cha nói : "Một tù nhân không thể chăm sóc ai được." Từ ngày 30-05-1744, cha Tế có thêm một cộng sự viên đắc lực nữa. Đó là Linh Mục Matthêu Alonso Liciniana Đậu cũng ḍng Đaminh, bị bắt cách đó 6 tháng được áp giải về Thăng Long và cùng bị giam một nơi niềm vui mừng xúc động dạt dào tả sao cho hết. Hai nhà thuyết giáo thăm hỏi nhau an ủi, khích lệ và bàn bạc với nhau, biến Thăng Long thành môi trường truyền giáo, hợp tác với nhau làm mục vụ tông đồ. Giờ phút vinh quang Sau hơn bảy năm tù và bảy tháng được sống chung với người đồng chí hướng. Ngày 22-01-1745, cha Tế bị đem đi xử. Cha tỏ vẻ hân hoan cám ơn và từ biệt anh em bà Gạo, tạm biệt cha Liciniana Đậu và một số ân nhân, Rồi thanh thản tiến ra pháp trường. Riêng cha Đậu chịu bị án chung thân, xin phép quan đi theo đưa tiễn. Thế nhưng khi đi ngang qua hoàng cung, cha Đậu cũng được tin ḿnh cũng bị xử trảm với linh mụ bạn. Hai vị chứng nhân nh́n nhau sung sướng, cả hai cùng tạ ơn Chúa v́ từ nay hai người không bao giờ phải xa ĺa nhau nữa, tại pháp trường giáo hữu cũng như lương dân có mặt rất đông và tỏ ḷng thương tiếc, cảm thông. Lư h́nh vừa chém rơi đầu hai vị, nhiều người oà lên khóc và ùa vào thấp máu, hoặc lấy vật ǵ làm thánh tích. Theo ư Đức Cha Hilario Hy, thi hài của hai cha được đưa về an táng tại nhà chung Lục Thủy. Vài ngày sau Đức Cha tổ chức thánh lễ tạ ơn long trọng có đông đảo các cha ḍng đến tham dự. Ngay khi đó mọi người tin tưởng vào hai đấng đă được lănh triều thiên tử đạo, và bắt đầu chuẩn bị lập hồ sơ xin phong thánh. Ngày 20-05-1906, các Ngài được Đức Piô X suy tôn lên bậc chân phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn lên hàng Hiển Thánh. |