Ngày 21 tháng 9
Thánh Phanxicô JACCARD PHAN (NINH)
Linh Mục Thừa Sai Paris - (1799 – 1838)

Một cuộc sống bi hùng.

Nếu so sánh những cuộc tử đạo như những vở bi hùng kịch th́ cuộc tử đạo của thánh Phanxucô Jaccard Phan là một trong những bi hùng kịch hùng tráng nhất : Mười năm tù khi rộng khi ngặt, với hai mươi tháng tù đày gian khổ và ba án tử h́nh. Giữa những khổ ải đó, nổi bật lên chân dung một người hùng quả cảm. Ngài đă chiến thắng được đói khát và sốt rét, đă trung thành tuyệt đối với chân lư của Tin Mừng là tha thứ và phục vụ kẻ làm hại ḿnh. Gan ĺ trước nghịch cảnh, từ chối mọi tiện nghi, như nhân xét của Đức cha Cuénot Thể : "con người không c̣n ǵ để mất đó, đă luôn tiến về phía trước để chinh phục tha nhân".

Chí khí chàng nông dân

Chào đời ngày 06.09.1799 tại Onion thuộc miền Savoie nước Pháp, trong một gia đ́nh nông dân nghèo, nhưng đạo đức, cậu Phanxicô Jaccard thủơ nhỏ ham chơi hơn là học. C̣n ǵ lư thú bằng chạy nhảy giữa cánh đồng xanh tươi bát ngát. Khi được cha mẹ gởi vào chủng viện Mélan, cậu Jaccard luôn là học sinh "đội sổ" nên đâm ra chán nản và trốn về gia đ́nh. Nhưng sau, nhờ bạn bè và thân nhân khích lệ, đàng khác v́ ước muốn làm linh mục, cậu xin trở lại chủng viện, cậu hứa với mọi người sẽ cố gắng tới cùng.

Quả thực Jaccard đă giữ lời hứa. Với sự chuyên cần và nỗ lực, anh hoàn thành chương tŕnh chủng viện Mélan, rồi được lên đại chủng viện giáo phận Chambery năm 1819. Hai năm sau, thày Jaccard xin gia nhập hội Thừa Sai Paris, và thụ phong linh mục ngày 15.03.1823. Liền đó, cha Jaccard được đề cử vào chức vụ giám đốc đại chủng viện. Nhưng cha thẳng thắn tŕnh bày với các Bề Trên : "Con t́nh nguyện vào đây để truyền giáo phương xa, chớ không phải ở thành phố Paris này".

Thế là ngày 10.07.1823, cha xuống tàu tại cảng Bordeaux giă từ quê hương yêu dấu. Ngày 25.11.1824, tàu của cha cập bến Macao, nhưng măi tháng 2.1826, vị thừa sai mới đến được giáo phận Đàng Trong. Sau một thời gian học tiếng Việt ở chủng viện An Ninh, cha lấy tên là Phan, hoạt động tại Nhu Lư, Phủ Cam, rồi làm giám đốc chủng viện An Ninh (Quảng Trị).

Tinh thần phục vụ hết ḿnh

Tháng 6.1827, vua Minh Mạng tập trung về Huế ba vị thừa sai : Tabert Từ, Gagelin Kính và Odorico Phương, viện cớ cần người thông ngôn và dịch sách. Ba tháng đầu, cha được đối xử tử tế, có thể làm việc mục vụ cho giáo hữu Huế, nhưng các ngài như bị giam lỏng tăi Cung Quán, lúc nào cũng có lính gác, đi dâu th́ có ba lính đi kèm. Đến cuối năm nhờ có Tả quân Lê Văn Duyệt can thiệp với vua, ba vị thừa sai được thả về. C̣n riêng cha Phan, tháng 7.1828, quân lính mang trát son, cáng điều đến triệu cha về kinh đô. Ngài ở Cung Quán dịch các tài liệu tiếng Pháp ra tiếng Việt. thấy ở Cung Quán như bị "bó tay buộc chân" không làm việc tông đồ được, cha Phan liền xin vua đến ở họ Dương Sơn cách kinh thành 15 cây số, để vừa giúp các tín hữu vừa dịch sách cho hoàng cung. Giai đọan này cha đă dịch các sách về Napoléon, về việc chinh phục của Anh ở Ấn Độ, về lịch sử Âu, Mỹ, và dạy tiếng Pháp cho nhiều người vua gởi tới. Vua muốn ban chức lộc triều đ́nh, nhưng cha từ chối không nhận.

Được tin vua Minh Mạng sắp mừng lễ Tứ tuần, cha xin phép đứng ra tổ chức tám ngày liên tiếp, cầu nguyện cho Hoàng Đế bằng những nghi thức long trọng. Ngoài các tín hữu, số lương dân đến tham dự đông đảo như ngày hội. Nhiều người nhờ dịp này thêm quư mến đạo, trong đó có một số quan đại thần và bà chị các Đức Vua.

Người "lính" của vua Minh Mạng

Tháng 9.1831, làng Dương Sơn do cha Phan phụ trách bị dân làng Cổ Lăo gây chuyện và tố cáo về tội chiếm đất. Đến sau v́ không có bằng cớ, họ đổi qua tố cáo về tội theo đạo. Lập tức 73 người bị giam tù, mỗi người lănh 100 roi đ̣n, viên phó lư bị lưu đầy, Lư trưởng và cha Phan bị án tử h́nh. Riêng với cha Phan, vua Minh Mạng tỏ vẻ nhân đạo hơn, đổi từ án xung quân, bắt nhập ngũ trong quân đội hoàng gia, và được điệu về giam lỏng ở Cung Quán để tiếp tục dịch sách vở, thơ từ …

Giai đoạn này cha Phan nhiều lần tiếp xúc với vua Minh Mạng. Chính Vua nhờ cắt nghĩa các tranh ảnh Cựu ước và Tân ước… Vị tông đồ của Chúa liền tranh thủ giải thích cho vua hiểu về giáo lư trong đạo, về Thiên Chúa sáng tạo, linh hồn bất tử và thưởng phạt đời sau. Một lần cha Phan đánh bạo gởi cho vua cuốn giáo lư dành cho người xin học đạo. Đối lại nhà vua sai quan Thượng thư bộ lễ đến bắt cha phải đốt hết các sách tôn giáo đó, nhưng cha cương quyết từ chối. Quan nói: "Tôi tha cho ông, nhưng khi ra trước hội đồng các quan, ông phải nói đă gởi sách và đồ lễ về Tây rồi, và hứa không giảng đạo nữa". Cha đáp: "Thưa quan, quan biết là đạo cấm nói dối, c̣n việc ngừng giảng đạo, tôi không thể vâng được". Viên quan tiếp: "Vậy ông sẽ bị án xử tử". Cha trả lời: "Tôi đă bị lên án một lần, có lên án lần nữa cũng chẳng sao". Vua Minh Mạng biết chuyện nhưng lờ đi v́ thấy chưa đến lúc, chỉ ra lệnh cho người canh gác cha nghiêm ngặt hơn trước.

Người tù lưu đày bất khuất

Tháng giêng năm 1833, sau sắc lệnh cấm đạo toàn quốc, cha Phan có thêm người bạn đồng hàng, cha Odorico Phương ḍng Phanxicô mới bị bắt ở Cái Nhum. Mỗi đêm, hai cha âm thầm dâng lễ với nhau ở Cung Quán, đồ lễ giấu ở sàn nhà. Từ đây hai vị sống bên nhau trong một năm rưỡi, cùng chia sẻ ngọt bùi đắng cay, cùng đón nhận người bạn tù đặc biệt, cha Gagelin Kính và hiệp thông với hy lễ tử đạo của ngài. Nhiều tuần lễ liền, mỗi buổi sáng khi thức dậy, hai vị lại giúp nhau chuẩn bị dọn ḿnh lănh phúc tử đạo, nhưng giờ Chúa chưa đến.

Thời gian này miền Nam có cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi. Vua Minh Mạng nghe đồn các tín hữu tham gia rất đông, nên lo sợ và thảo một lá thư dụ hàng, đưa cho thừa sai kư. Hai cha thức suốt một đêm để viết một lá thư khác kêu gọi các anh em tín hữu. Theo lá thư, việc chống lại triều đ́nh có hại cho đạo, và Tin Mừng không bao giờ chấp nhận việc huynh đệ tương tàn. Thế nhưng số tín hữu theo Lê Văn Khôi thực tế không đông, nên lá thư này không mang lại hiệu quả bao nhiêu.

"Giận cá chém thớt", vua Ming Mạng nổi cơn thịnh nộ, truyền xử tử hai vị giáo sĩ. May có sự can thiệp của Hoàng Thái Hậu Thuận Thiên. Bà không muốc con làm điều thất nhân ác đức, và nhắc con coi chừng nước Pháp trả thù. Thế là bản án được đổi thành lưu đày chung thân tại Lao Bảo (ở biên giới Lào), nơi rừng sâu nước độc. Sau mười ngày trèo non lội suối, ngày 12.12.1833, hai cha đến đất lưu đầy, phải sống trong trại tù có rào chắn và chông nhọn xung quanh. Niềm an ủi lớn lao của hai cha là vẫn được nhiều tín hữu viếng thăm tiếp tế lương thực.

Nhưng chưa được một tháng, Vua thay viên cai ngục khó tính hơn, và nhắn lời dụ dỗ hai vị xuất giáo. Việc dụ dỗ thất bại, viên cai ngục liền chuyển hai cha sang trại cấm cố, cho giam riêng trong một túp lều trật hẹp, bớt phần cơm và cấm tiếp tế. Thêm vào đó, ông c̣n cho tịch thu toàn bộ sách kinh, giấy viết. Cha Odorico Phương hay nói đùa : "Chúa thấy tôi làm thừa sai vụng về nên cho đổi qua nghề làm bếp. Tôi là đầu bếp, cha Jaccard rửa chén. Nhưng vấn đề là không có ǵ bỏ vào nồi để nấu thôi".

Ngoài nắm cơm mỗi ngày mỗi nhỏ bớt, hai cha phải đi hái hoa cỏ dại, chuối xanh về luộc với một ít muối để đủ sống qua ngày. Đời sống kham khổ, đói khát và cơn bệnh sốt rét ác tính đă cướp đi sinh mạng của người bạn của cha Phan. Cha Odorico Phương đă từ trần ngày 25.5.1834 sau một tuần liệt giường. C̣n lại một ḿnh cha Phan đă sống sót cách tài t́nh cho tṛn hai mươi tháng lưu đầy. Cũng sốt rét, cũng kiết lỵ, nhưng ngài đă khuất phục được chúng. Không những thế, cha tiếp tục làm việc tông đồ trong trại, học tiếng lào để nếu có cơ hội sẽ qua đó truyền giáo. Cha cũng soạn được một cuốn ngữ vựng tiếng Chàm, nhờ sự hỗ trợ của các bạn tù người Chàm.

Vắt chanh bỏ vỏ

Đến tháng 9 năm 1835, v́ cần người, vua Minh Mạng đưa cha về giam ở Cam Lộ (Quảng trị) để làm giáo sư. Vua gửi đến sáu thanh niên học tiếng Pháp nhưng cấm không được nói chuyện về đạo. Vua nhờ cha hướng dẫn về địa lư và lịch sử Au Mỹ, giải thích các phong tục, tập quán và luật lệ của họ. Đặc biệt cha giúp Vua t́m hiểu về Châu Au, nhất là luật pháp nước Nhật. Dầu bận rộn vất vả, nhưng cha rất tận tụy với Vua, v́ như cha nói: "Tôi muốn chứng tỏ phải dùng điều thiện để thắng điều ác".

Ba năm trời ở Cam Lộ, niềm vui lớn nhất của cha Phan là được dâng lễ trong ngục. Một tấm ván bắc qua hai chiếc ghế làm bàn thờ, cha dâng lễ vào giữa đêm khuya, rồi thu xếp dọn dẹp ngay sau đó. V́ được quan quân kính nể, cha có thể chốn thoát dễ dàng. Chính Đức cha Thể cũng gợi ư điều đó, nhưng cha không thực hiện, v́ cha biết quan quân sẽ truy lùng gắt gao. Việc truy lùng đó sẽ làm hại các tín hữu và lỡ ra nhiều người sẽ bị bắt v́ ḿnh.

Đầu năm 1838, một biến cố lớn làm thay đổi hoàn cảnh cha Phan. Số là khi triệt hạ chủng viện An Ninh gần Di Loan, cha gíam đốc Candalk Kim chạy thoát nên vùng núi, vua liền trút cơn thịnh nộ lên cha Phan "Kẻ thông đồng với tội nhân qua thư từ". Ngày 07.3 cha bị bắt trói, hỏi cung rồi bị mang gông xiềng áp giải về Quảng Trị.

Đường lên núi sọ

Tại Quảng Trị, quan cho căng nọc vị thừa sai và cho đánh từ 9 giờ đến trưa, nát nhiều chiếc roi, để bắt cha phải bỏ đạo. Cha trả lời : "Đạo của tôi không do Đức Vua, nên tôi không buộc phải bỏ đạo theo ư Vua được". Lần khác, cha bị tra tấn bằng ḱm nung đỏ kẹp vào đùi, thịt cháy khét, đau đớn vô cùng, nhưng cha vẫn cương quyết không chối đạo.

Từ 18.7.1838, cha được giam chung với chủng sinh Tôma Thiện. Hai cha con tạ ơn Chúa, và cùng nhau nguyện cầu xin Ngài trợ giúp. Bản án từ Quảng Trị gởi vào kinh đô xin xử trảm, nhưng vua Minh Mạng đổi thành xử giảo và kư ngày 17.9. Sáng ngày 21.9.1838, quan quân dẫn hai cha con ra khỏi trại giam, đến một ngọn đồi ở làng Nhan Biều (Quảng Trị). Tới nơi xử, hai cha con từ chối bữa ăn ân huệ, và quỳ đối diện quay vào nhau cùng cầu nguyện.

Theo ư cha Phan, muốn thấy tận mắt sự trung thành của người môn sinh trẻ tuổi, nên quân lính hành xử chủng sinh Tôma Thiện trước. Sau đó, ṿng dây qua cổ vị giáo sĩ rồi kéo mạnh hai đầu, đưa linh hồn ngài về Thiên Quốc.

Bà mẹ của cha Phan khi hay biết, đă reo lên "Thật là tin vui, gia đ́nh ta có một vị tử đạo". Bà nói : "Xin chúc tụng Chúa. tôi vẫn sợ sẽ buồn khổ biết bao, nếu con tôi bị khuất phục trước gian khổ, trước cực h́nh’.

Thi hài vị tử đạo được chôn cất ngay tại pháp trường, đến năm 1847 được cải táng về chủng viện Thừa Sai Paris. Đức Lêo XIII suy tôn linh mục Phanxicô Jaccard Phan lên hàng Chân Phước ngày 27.5.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.