Ngày 01 tháng 11
Thánh Giêronimô HERMOSILLA LIÊM (VỌNG)
Giám mục Ḍng Đaminh – (1800 – 1861)

Cột trụ giáo hội Việt Nam

Thánh Hermosilla Liêm là một trong ba vị thừa sai lỗi lạc và can đảm nhất trong lịch sử Giáo Hội Việt Nam, sánh bước với Đức cha Cuénot Thể (1835-61 giáo phận Đàng Trong) và đức cha Retord Liêu (1940-58, giáo phận Tây Đàng Ngoài), ba cột trụ chống đỡ giáo hội Việt Nam trong những giai đoạn khó khăn thời bách hại. Riêng Thánh Giám mục Liêm luôn luôn đứng đầu sổ truy nă của ba triều vua và các Tổng đốc Nam Định, đă khéo léo khi ẩn khi hiện, hoàn thành trách nhiệm một cách tuyệt vời.

33 năm thừa sai không một ngày yên ổn. 20 năm Giám mục chứng kiến bao cảnh tang thương, nhưng chính ngài đă chủ phong cho bốn Giám mục (Đức cha Jimenô Lâm, Marti Gia, Alcazar Hy và Sanjurjo An), và truyền chức cho nhiều linh mục bản xứ, đă điều khiển giáo phận Đông Đàng Ngoài phát triển vững chắc, đủ khả năng tách làm hai, và khi gục ngă dưới lưỡi gươm của lư h́nh th́ theo sử gia Rodriguez: Ngón tay phải ngài vẫn chỉ lối cho nhân loại hướng đến một v́ sao.

Thỏa niềm ước mong

Thánh Jeronimô Hermosilla sinh ngày 30.9.1800 tại Santo Domingo de la Calzada trong một gia đ́nh tuy nghèo nhưng đạo đức (nước Tây Ban Nha). Từ nhỏ, cậu được theo học với các cha ḍng Biển Đức và có ư định xin vào ḍng này năm 15 tuổi. thời đó, nước Tây Ban Nha đang chịu sự thống trị của Napoléon I, các ḍng tu không được nhận người. Hermosilla được giới thiệu qua học tại chủng viện giáo phận Valencia do các cha ḍng Đaminh điều hành. Duyên kỳ ngộ này đă đưa cậu đến ḍng Thuyết Giáo và lănh tu phục năm 19 tuổi.

Năm sau (1820), nước Tây Ban Nha có loạn, một số tu viện phải giải tán, tài sản giáo hội bị xung công, các giáo sĩ không tuyên thệ trung thành với hiến pháp mới đều bị bắt giam, bị lưu đầy hoặc bị giết. Hermosilla đành phải rời nhà Ḍng, đăng kư vào quân đội. Khi vua Fernando khôi phục lại quyền bính, cậu xin vào nhà tập và khấn ḍng ngày 29.10.1823. Ba năm quân ngũ đă măi măi lưu lại với vị tu sĩ này tính xông pha, ḷng gan dạ, và đức kiên nhẫn.

Năm 1824 khi đọc thư kêu mời của tỉnh ḍng Rất Thánh Mân Côi Manila, thày Hermosilla và 11 người khác liền t́nh nguyện đi truyền giáo ở Viễn Đông. Sau sáu tháng lênh đênh trên biển, ngày 02.03 năm sau, 12 tu sĩ này đă đến Manila quỳ phục dưới chân cha Giám Tỉnh và thưa : "Này con đây xin hăy sai con". Quả là niềm vui lớn lao của tỉnh ḍng, v́ 20 năm qua, tỉnh ḍng chỉ nhận được 27 người, bên cạnh con số 86 vị đă qua đời v́ tuổi già. Năm 1826, thày Hermosilla lănh chức linh mục và làm giám đốc Hội Mân Côi

Năm 1828, cha t́nh nguyện đến Việt Nam cùng với ba thừa sai Pháp, khởi hành từ Macao đến Bắc Việt ngày 02.05.1929, 9 giờ tối, cha tới trụ cha chính Amandi Chiêu và sáng hôm sau cha tới tŕnh diện Đức cha Delgado Y.

Tả sao cho xiết niềm vui của vị Giám mục. Cả giáo phận Đông Đàng Ngoài chỉ có ba vị thừa sai, gồm hai Đức cha Y và Hernares Minh, cha chính hiền, nhưng cả ba vị đều già và bệnh tật. Vừa thấy vị thừa sai mới, Đức cha đă chạy ra và vui sướng : "Vọng ! Vọng ! Ước Vọng !". Và từ đó, Vọng trở thành tên gọi chính thức của cha Hermosilla.

Sau vài tháng miệt mài học tiếng Việt, cha Vọng đă không phụ ḷng mong đợi của các bậc đàn anh. Cha ḥa ḿnh rất nhanh với các tín hữu cũng như người ngoại giáo, tất cả là hy sinh và yêu thương. Không hề mệt mỏi, vị thừa sai 30 tuổi không ngừng di chuyển thăm viếng các họ đạo, giảng dạy, rửa tội, và giải tội. Nỗi buồn duy nhất của cha là việc nhiều quá mà làm không xuể. Cha liền viết thư xin bề trên gởi thêm những tu sĩ trẻ, khỏe mạnh và hăng hái khác.

Danh "Trùm Vọng" thời vua Minh Mạng.

11 năm thừa sai đầu tiên, cha Vọng là linh hồn các hoạt động truyền giáo của ḍng Đaminh trong giáo phận : Bốn năm phụ tá cha chính Amandi Chiêu, ba năm bề trên ḍng, một năm phụ tá cha chính Hiền, rồi thay thế ngài từ năm 1838. Nhưng thực tế, những khi làm phụ tá, v́ cha chính già yếu, mọi công việc đều do cha Vọng điều hành. Cha đă nâng số linh mục bản xứ lên đến 40, đủ sức đương đầu với cơn bách hại sắp tới.

Băo tố đă thực sự bừng lên trên giáo phận Đông Đàng Ngoài từ năm 1838, khởi từ sau các lá thư của cha Đặng Đ́nh Viên gửi cho bốn thừa sai và hai linh mục Việt Nam bị phát hiện. Hai Giám mục và cha Chính Hiền chịu tử đạo, nhiều linh mục, tu sĩ, giáo dân đổ máu v́ đức tin. Cũng v́ một trong sáu lá thư gửi cho cha Vọng, nên "danh trùm Vọng" được ghi vào đầu sổ bộ truy lùng của vua Minh Mạng và quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh. Chiếu chỉ ngày 18.01.1839 dành một đoạn nói về cha : "Hăy c̣n danh trùm Vọng chưa bắt được, dù quan truyền, dù thứ dân, chẳng kỳ ai, hễ bắt được sẽ lănh thưởng mười ngàn quan tiền…"

Để giúp dân dễ nhận diện, vô t́nh vua Minh Mạng lại cho chúng ta biết đôi điều về chân dung vị thừa sai này : "Người cao lớn, mũi dài, râu rậm, cặp mắt tinh anh và hơi xám, nước da trắng trẻo, khuôn mặt phương phi…" Đúng là chân dung của một con người nghị lực không bao giờ chịu lùi bước. Quả thực, trong giai đọan này tuy rất thận trọng, cha Vọng vẫn đi khắp nơi an ủi người này, khích lệ kẻ kia, và trao ban các bí tích như coi thường cơn giận dữ của "hỏa ngục". Dĩ nhiên là không phải không có những giây phút hồi hộp, khi th́ suưt bị bắt với Đức cha Y khi bị cắm đầu cắm cổ vượt ṿng vây chạy trốn. Có những lần, một ḿnh đi giữa đêm tối trên những đoạn đường quanh co xa lạ.

Thoát chết trong đường tơ kẽ tóc

Chúa ǵn giữ cha Vọng trong nhiều trường hợp kỳ lạ. Lần kia, tại xứ Liễu Dinh, một người lính đă thấy cha trong pḥng, liền gọi đồng đội ra tiếp sức. Đến khi họ vào, cha ngồi sau màn cầu nguyện : "Xin cho ư Chúa được thể hiện …" Thế mà lính không thấy ǵ cả, cho đến khi họ nh́n thấy một cụ già có râu ngoài sân, liền nhào ra bắt nhầm, và cha có thời giờ chạy trốn thoát.
Lần khác, quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh dẫn 800 lính với hàng chục chiếc thuyền bao vây làng cha đang ẩn trốn, bỗng trời nổi dông băo, thế là quan quân hoàn toàn thất bại : hai thuyền bị đắm và nhiều chiếc bị trôi dạt kéo theo ba sĩ quan và các lính thủy.

Vào cuối thời vua Minh Mạng, giáo phận chịu thiệt hại đáng kể. Trên 1.000 nhà thờ bị rỡ xuống, có nơi phải nộp gỗ ván cho quan tỉnh. Các chủng viện, 40 nhà chung, 60 họ đạo, 22 nhà phước Đaminh, 3 nhà phước Mến Thánh Giá, đều bị triệt hạ và giải tán mỗi người mỗi nơi, giáo dân th́ bơ vơ, hai Giám mục và cha chính chịu tử đạo, mọi gánh nặng đổ trên vai cha Vọng. Tuy nhiên, với sự cộng tác của hai thừa sai, 37 cha ḍng Việt và một số linh mục triều, năm 1840, giáo phận đă rửa tội thêm 143 người lớn, hơn 1.000 trẻ em, giải tội 118.000 người và chứng hôn 1.630 đôi.

Thời gian này có hai mẩu chuyện về cha Vọng.

Thứ nhất về lá thư cha báo cáo về t́nh h́nh Bắc Việt cho Bề Trên Tỉnh Ḍng về sự kiên cường của các vị tử đạo và "sức sống ngầm" của Giáo Hội Việt Nam trong những năm giông tố. Lá thư đă làm cho cả tỉnh ḍng vui mừng. Tại nhà thờ thánh Đaminh ở Manila, cộng đoàn tu sĩ đă sốt sắng hát kinh "Te Deum" và cử hành một lễ tạ ơn. Lá thư này được phổ biến khắp nơi, làm cả thế giới ngạc nhiên và khâm phục. Đức Grêgoriô XIV viết cho Giáo Hội Việt Nam một lá thư mục vụ khích lệ, ngài họp hội đồng cơ mật trù liệu việc phong thánh cho các vị tử đạo Việt Nam.

Chuyện thứ hai là chuyện thừa sai Marti Gia đă đến Yên Tŕ được gần một năm mà không có cách nào tŕnh diện để tuyên thệ theo luật bấy giờ (sắc Ex Quo). Lúc ấy, cha Vọng đang làm Bề trên phải bỏ chỗ ẩn an toàn để đến gặp người bề dưới tiến hành việc nghi thức này, cũng như đưa ra những lời khuyên thực tiễn.

Dưới thời vua Thiệu Trị, cuộc bách hại tuy lắng dịu, nhưng vẫn c̣n xảy ra ở một vài nơi. Ṭa thánh đặt cha Vọng làm Đại diện Tông ṭa thay thế hai Đức cha Delgado Y và Henares Minh đă tử đạo. Theo dự định, lễ tấn phong cử hành vào ngày 14.4.1841 tại Vĩnh Trị, Phúc Nhạc, nơi Đức cha Retordd Liêu ẩn trú. Tổng đốc Trịnh Quang Khanh được mật báo đem quân bao vây bắt lầm được hai vị thừa sai Pháp là Berneux Nhân và Galy Lư. Trên đường áp giải về dinh, dân chúng kháo với nhau: "Ḱa ! Đó là danh Trùm vọng !". Tổng đốc Trịnh Quang Khanh cũng không giấu được vui mừng cho đến khi biết ḿnh đă lầm, liền tức giận, cho đóng cũi, tra tấn dă man và lột trần cả hai vị, trói ngoài công đường cho mọi người sỉ nhục. Về sau nhờ áp lực của quân Pháp, nhà vua cho lệnh tha hai vị về (1843) (xem thêm hạnh bà Thánh Annê Đê).

Hai ngày sau, cha Vọng mới khởi hành từ Hải Dương đến Vĩnh Trị. V́ đă biết vụ hai vị thừa sai bị bắt, cha nhờ giáo hữu dẫn đi đường khác. Tất cả chỉ có thể đi vào ban đêm, băng rừng, lội suối, có khi đi thuyền nhưng thường là đi bộ, c̣n ban ngày th́ ẩn nấp trong bụi cây, ngoài đồng lúc hoặc bụi tre. Tổng đốc Trịnh Quang Khanh đă cho đặt các tram canh khắp nơi. Đặc biệt có một trạm canh rất cẩn mật, cha phải hối lộ cho viên phó tổng, và theo kế hoạch của ông ta để lọt được qua trạm. Đêm ấy, theo lời chỉ dẫn, cha mặc áo cộc, quần nâu xắn lên tới dầu gối, lấy bùn xoa đen hết mặt mũi chân tay, buộc túm râu tóc lại, đầu đội nón lá… rồi nắm đuôi ngựa của viên phó tổng đang cưỡi, chạy lăng xăng theo sau, như tên đầy tớ để qua trạm.

Vị Giám mục khôn ngoan

Đến Vĩnh Trị, cha Vọng t́m đến ṭa Giám mục của Đức cha Liêu. Đó là một cái cḥi có lối chạy xuống hầm để đề pḥng mỗi khi quan quân bất ưng đến thăm. Tại đây, ngày 25.04, cha được tấn phong. Đức tân Giám mục t́m đường trở về giáo phận và đổi tên là Liêm, thay cho danh trùm Vọng vẫn được treo giá cả vạn quan. Ít lâu sau, Tổng đốc Trịnh Quang Khanh ngă bệnh và qua đời.

Lợi dụng t́nh h́nh lắng dịu, Đức cha Liêm hoạt động không ngừng. Ngày 26.6, ngài tấn phong Giám mục cho cha Jimenô Lâm làm phụ tá. Sau lễ, ngài tập họp các linh mục để lập chương tŕnh truyền giáo trong hoàn cảnh mới. Từ đó cả giáo phận bừng lên sức sống mới. Các nhà thờ, nhà xứ được tái thiết, các nữ tu viện, nhà Đức Chúa Trời được tu sửa. Giáo hữu góp tiền chuộc các anh em khác c̣n bị giam giữ. Trường Latinh được xây dựng lại tại Nam An (Hải Dương), sau dời về Lục Thủy. Trường Thần học được thiết lập ở Mỹ Động, Hải Dương. Đức cha khuyên giáo dân đặc biệt tin tưởng, cậy trông vào Đức Mẹ, siêng năng đọc kinh Mân Côi và kêu cầu nữ Thánh Philomêna tử đạo. Sau này, ngài chọn thánh nữ làm bổn mạng giáo phận và xin phép ṭa Thánh mừng lễ hàng năm (1).

Nhờ sự cộng tác của nhiều tân linh mục trong giáo phận và nhiều thừa sai mới được gửi tới, t́nh h́nh giáo phận Đông phục hồi rất nhanh. Việc trao ban bí tích được gia tăng thêm mỗi năm. Chỉ cần cẩn thận đôi chút, các Giám mục có thể đi ban Bí Tích Thêm sức nhiều nơi.
Năm 1844, ngài mở lễ kính thánh Tổ phụ Đaminh rất trọng thể. Các linh mục tu sĩ, giáo dân thay nhau về thánh đường Nam Am suốt tám ngày liền. Họ gặp nhau chia sẻ tin tức, kinh nghiệm sống đạo của ḿnh. Thánh lễ đại trào duy nhất của Đức cha Liêm, sau này sẽ trở thành tập tục "Lễ Đầu Ḍng" trong giáo phận. Số tân ṭng ngày càng gia tăng. Ngày 22.08.1844 tại Đông Xuyên, Đức cha rửa tội cho 44 người lớn, trong đó có một Chánh tổng, một Phó tổng, tám lư trưởng, một thày cúng.

Sự phát triển ngày càng phấn khởi hơn. Năm 1848, khi số tín hữu lên tới 184.000, Đức cha xin ṭa Thánh chấp thuận chia giáo phận thành hai : Giáo phận Trung (nay là Bùi Chu, Thái B́nh) được trao cho Đức cha Marti Gia, c̣n Đức cha Liêm giữ lại phần đất đông dân cư với hơn mười triệu, mà ít tín hữu, chỉ 0,4 phần trăm. Từ đó hai giáo phận ngày càng phát triển vững mạnh hơn, mặc dù vua Tự Đức bắt dầu bách hại đạo. Năm 1852, giáo phận Đông Đàng Ngoài rửa tội được 388 người lớn, 2.824 trẻ em, trong đó đa số là trẻ em ngoại.

Mười năm cuối đời của Đức cha Liêm là những năm đầy vất vả và gian lao. Vua Tự Đức ra thêm chiếu chỉ cấm đạo. Năm 1855, khi qua giáo phận Trung, hai thày giảng tháp tùng Đức cha Liêm bị cướp bắt, Đức cha phải năn nỉ cả ngày họ mới chịu tha. Năm sau, chính Đức cha bị bắt, khi ngài đi kinh lư xứ Hữu Bàng, phải chuộc mất 300 quan. Năm 1858, trước t́nh h́nh bách hại gay gắt, sợ sẽ không c̣n ai sống sót, Đức cha họp và quyết định chia một nửa số thừa sai về Macao, chờ ngày thuận tiện hơn sẽ trở lại giáo phận hoạt động. Ngài chỉ giữ lại 5 thừa sai Đaminh cho cả giáo phận. Năm 1859, một lần nữa, Đức cha phải đổi tên là Tuấn, để khỏi bị lộ cho tới ngày chiếu chỉ phân tháp ra đời.

Nỗi đau của vị chủ chăn

Tả sao cho hết nỗi đau của vị chủ chăn ḍng Thuyết Giáo. Hai cuộc tử đạo của hai Đức cha Sanjurjo An và Sampedro Xuyên, biết bao hung tin mỗi ngày : các thánh đường bị phá hủy, nhiều linh mục và thày giảng bị ngă gục. Giờ đây chiếu chỉ phân tháp lại nhắm đến giáo dân. Ư thức bổn phận chủ chăn, ngài liền viết thư luân lưu cho khắp giáo phận, kêu gọi mọi người thống hối, để Chúa mở tay ban phát mọi sự lành, kêu gọi tín hữu tin vào Chúa pḥng, v́ "lá cây nhỏ mọn mặc ḷng, nếu Chúa chẳng cho động, nó chẳng động được đâu", khích lệ mọi người can đảm xưng đạo cho vững vàng, năng suy niệm cuộc thương khó mà Chúa đă chịu v́ nhân loại hầu được thêm can đảm.

Đêm thu 14.8 năm tân Dậu (18.9.1861), trong khung cảnh tĩnh mịch của đêm trăng rực sáng, Đức cha Liêm ngước mắt nh́n cảnh vật mà ḷng xúc động trào dâng. Ngài nghĩ đến số phận đàn chiên đang bơ vơ thiếu chủ chăn, những gia đ́nh tín hữu bị phân tán, vợ một nơi chồng một nẻo, con cái phải xa cha mẹ… Nhưng nỗi khổ tâm nhất của ngài là cũng đêm đó, chủng viện Kẻ Mốt phải giải tán, những mầm non của giáo hội thiếu điều kiện phát triển. Cha Khoa thay mặt ngài, giờ đây đang nói với chủng sinh những lời cuối cùng xiết bao xúc động :

"Từ trước tới nay Đức cha cố giữ anh em ở đây, và lo liệu cho anh em học hành … Bây giờ Đức cha buộc ḷng phải giải tán nhà trường. nếu Chúa để chúng ta c̣n sống th́ rồi đây có ngày Đức cha sẽ gọi anh em trở lại. Đức cha nhắn lời chúc lành và dặn ḍ anh em sống sao cho tốt, trông cậy vào Chúa là cha nhân lành và đừng quên cầu nguyện cho ngài, cho giáo phận và cho cả giáo hội Việt Nam. Anh em hăy thu xếp đi ngay trong đêm nay, khỏi cần bái chào Đức cha, kẻo ngài không cầm được nước mắt…"

Cũng đêm đó, Đức cha Liêm phải rời làng Kẻ Mốt đến trú ẩn ở Thọ Đức. 33 năm hoạt động trên quê hương Việt Nam đă chất chứa những gánh nặng trên vai ngài. Giờ đây sức khỏe ngài đă giảm sút, râu tóc đă bạc phơ chỉ duy đôi mắt vẫn giữ được vẻ tinh anh. Cảm thương thay vị cha già bước từng bước mệt nhọc trên quăng đường trơn trượt như trèo lên đỉnh núi Sọ. Ngày mai sẽ ra sao ? Không địa sở, không nơi ẩn náu, chỉ c̣n chờ cái ngày cũng chẳng xa, rơi vào tay những kẻ đang truy nă.

Cùng đi với Đức cha có thày giảng Giuse Khang. Hai cha con trọ ở Thọ Đức được ba tuần th́ bị lộ. Lại phải xuống thuyền qua thị xă Hải Dương và tá túc trên thuyền của một giáo hữu, gia đ́nh ông Trương Bính. Được vài ngày, hai vị t́nh cờ gặp Đức cha Valentino Vinh và cha Almato B́nh dọc theo đường thủy từ Kẻ Nê xuống. Thật là cuộc hội ngộ đặc biệt, các vị trao đổi, khích lệ nhau thêm can đảm và tạ ơn Chúa v́ dịp may hiếm có này. Sau đó, các vị chia tay nhau mỗi người một nẻo.

Dưới sự tận t́nh che giấu của ông Trương Bính, Đức cha và thày giảng Khang được ít ngày bằng yên cho đến hôm xảy ra cuộc căi vả giữa cha con ông Trương Bính, người con trai v́ tức giận cha mẹ, đă đi tố cáo ông bà về tội chứa chấp Tây Dương đạo trưởng. Đội Bằng lúc đó làm Chánh tổng liền đem gia nhân đến bắt Đức cha vào ngày 20.10.1861. Khi bị bắt, Đức cha đưa cho đội Bằng một số tiền và nói : "Xin bắt và giam giữ một ḿnh tôi thôi. Hăy để những người đánh cá nghèo nàn này đi". Khi thày Khang nhổ cây sào thuyền định chống cự th́ Đức cha cản lại rằng : "Đừng chống trả làm ǵ, hăy phó mặc cho Thánh ư Chúa". Thế là cả hai bị bắt trói và đưa về Hải Dương.

Đồng hành về trời

Sau khi lấy khẩu cung, Đức cha bị giam trong chiếc cũi chật hẹp, nằm không nổi, ứung cũng chẳng được, cứ phải khom lưng suốt ngày, chân tay ră rời. Dầu vậy, ngài vẫn t́m cách giảng đạo cho các bạn tù, rà rửa tội cho con trai viên đội Bái, cậu cũng bị xử tử với Đức cha.
Chiều ngày 26.10, sau khi bắt được Đức cha Valentino Vinh và cha Almato B́nh, quân lính ḥ reo ầm ĩ, Đức cha đang thiếp ngủ bừng tỉnh dậy. Ba chiến sĩ đức tin trong ba chiếc cũi ngậm ngùi nh́n nhau, nhưng ḷng đầy hân hoan, v́ thấy được đoàn tụ bên nhau trong những ngày cuối cùng.

Ngày xử được ấn định là 01.11.1861. Ba chiếc cũi được khiêng đi sau đội quân 500 người. Đức cha Liêm cũi cuối cùng, trang nghiêm như ngày đại lễ, thỉnh thoảng ngài giơ tay ban phép lành cho các giáo hữu đứng hai bên đường.

Tại pháp trường Năm Mẫu, ba vị được đưa ra khỏi cũi, cùng cầu nguyện ít phút, rồi đưa tay cho lư h́nh trói vào ba cọc. Bản án được đọc lên. ba hồi chiêng trống, ba lưỡi gươm vung lên một lúc, chém rơi đầu ba vị anh hùng. Khi các quan ra về, dân chúng dù lương hay giáo,tranh nhau thấm máu tử đạo. Ba thi hài được bọc trong ba chiếc khăn và chôn tại chỗ. Thủ cấp các ngài được treo ở bến đ̣ Hàn ba ngày (nhưng sau đó giáo dân đánh tráo bỏ vào đó ba củ chuối) rồi đưa về Yên Dật, và sau lại đưa về an táng tại Thọ Ninh một thời gian, cuối cùng, đi dời về đền Các Thánh Tử Đạo Hải Dương.

Đức Piô X suy tôn Đức cha Jeronimô Hermosilla Liêm lên bậc Chân Phước ngày 20.05.1906. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

Đức cha đă nằm xuống, nhưng chân lư ngài đă truyền giảng, phong thái và nhiệt tâm của ngài vẫn sống măi trong các tín hữu và hàng giáo sĩ của giáo phận. Tất cả sẽ nắm tay nhau theo dấu chân vị cha chung để tiếp tục làm chứng cho đức tin.