| Ngày 18 tháng 12 Ba thày giảng cùng bị bắt một ngày, cùng bị giam một nơi, cùng tử đạo một giờ, cùng được suy tôn Chân Phước và Hiển Thánh một lượt là các thày: Phaolô Nguyễn Văn Mỹ, 40 tuổi; Phêrô Trương Văn Đường, 30 tuổi và Phêrô Vũ Truật, 21 tuổi. Thánh Phaolô NGUYỄN VĂN MỸ Thày giảng - (1798 – 1838)
Là người lớn tuổi nhất, thày Phaolô Mỹ như người anh cả, và là chỗ dựa cho hai thày giảng cùng bị giam chung. Trong một lá thư gửi cho thừa sai Marette, thày Đường viết : "… Từ ngày được diễm phúc chịu khó v́ đức tin, thày Mỹ thay chúng con vẫn viết thư cho cha. V́ chúng con coi thày như thay mặt cha ở giữa chúng con…" Phaolô Nguyễn Văn Mỹ chào đời năm 1798 ở làng Kẻ Non, c̣n gọi là Sơn Nga, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Tên thật của cậu là Nguyễn Văn Hữu. Năm 13 tuổi, được phép cha mẹ, cậu Mỹ theo giúp việc Đức cha Giacôbê Longer Gia rồi sau giúp cha Luật xứ Kẻ Đầm bốn năm. Đến năm 19 tuổi, cậu theo học tại chủng viện Kẻ Vĩnh (Vĩnh Trị). Khi làm thày giảng thực thụ, thày Mỹ được gửi đến giúp thừa sai Marette. Ít lâu sau, Đức cha Harvard Du giám quản giáo phận Tây Đàng Ngoài, đă chọn thày phụ giúp linh mục Cornay Tân, xứ Bầu Nọ, tỉnh Sơn Tây. Nhiều kinh nghiệm và khả năng, thày Mỹ đă hỗ trợ đắc lực cho vị thừa sai trẻ tuổi nhiệt thành, nhưng thường đau ốm nặng nề này. thày Mỹ luôn hoàn thành công tác mục vụ một cách chu đáo: Từ giảng lư tân ṭng và trẻ em, đến khuyên bảo tội nhân hối cải. Khi t́nh h́nh cấm đạo lên cao độ, thày là vị tông đồ nhiệt thành và hữu hiệu, đi thăm từng gia đ́nh để khích lệ các tín hữu sống đức tin, và c̣n hơn thế, được nhiều người ngoại giáo về đón nhận niềm tin Kitô giáo. Thánh Phêrô TRƯƠNG VĂN ĐƯỜNG Thày giảng - (1808 – 1838)
"Nhất định chúng tôi không đạp lên ảnh chuộc tội, v́ như vậy là chọn cái chết đời đời cả linh hồn lẫn xác". Lời nói trên cho ta thấy tâm t́nh của thánh Phêrô Đường, vị thày giảng đă hơn 20 năm dâng ḿnh cho Chúa, để t́m kiếm hạnh phúc đích thực cho chính ḿnh và ta nhân. Sinh năm 1808 ở làng Kẻ Sở, xă Ninh Phú, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Gia đ́nh Phêrô Đường tuy nghèo nhưng nổi tiếng thánh thiện. Được cậu là linh mục Trương Văn Thi phụ trách xứ Sông Chảy đỡ đầu, nên ngay khi chú Đường mới 9 tuổi, cha Phương xứ Yên Tập đă nhận khai tâm cho chú vào đời sống tu tŕ. 15 tuổi, anh Phêrô Đường đă được gủi đến giúp xứ Bầu Nọ dưới quyền thừa sai Marette. Với sự khích lệ của cha, anh chuyên tâm học chữ Hán và Latinh để chuẩn bị cho tương lai. Khả năng và nhân cách của anh Phêrô đường được xác nhận ngay năm sau. Anh được Đức cha Havard Du nhận vào bậc thày giảng dù mới 16 tuổi, thày giảng trẻ tuổi nhất. Thày tiếp tục giúp xứ Bầu Nọ thời cha Cornay Tân, cho đến ngày bị bắt. Tính t́nh vui tươi, hiền lành, thày được mọi người trong xứ mến chuộng. Thánh Phêrô VŨ TRUẬT Thày giảng - (1817 – 1838)
Thày Phêrô Vũ Truật, 21 tuổi, đáng lưu danh muôn thuở cho câu nói bất hủ, trả lời lại những viên quan chê dại dột lăng phí tuổi thanh xuân : "Chưa chắc là tôi dại. Ai khôn mới biết hiến ḿnh cho chân lư, để chiếm hữu phần gia nghiệp muôn đời". Phêrô Vũ Truật sinh năm 1817 ở làng Hà Thạch, họ Kẻ Thiếc, huyện Sơn Vy, trấn Sơn Tây. Gia đ́nh anh rất nghèo, cha chết sớm, vốn liếng lại chẳng có, mẹ anh phải đầu tắt mặt tối suốt ngày,để nuôi ba con dại, nên Phêrô Truật không được đi học và gầy yếu xanh xao. Tuy nhiên, anh Truật có ḷng đạo đức, thường lui tới nhà thờ kinh lễ, nên được cha Tân chánh xứ Bầu Nọ chọn vào phục vụ những việc nhẹ trong xứ và tạo điều kiện cho ăn học. Dầu thế mặc ḷng, anh Truật cũng chẳng bằng ai, phần trí khôn hơi chậm, phần hay bị đau ốm luôn, anh chỉ có thể biết đọc biết viết sơ sơ. Bù lại, anh rất thuộc kinh, nên đặc trách việc dạy kinh truyền khẩu cho các thiếu nhi nhỏ tuổi. Măi đến khi bị bắt giam trong ngục tù rồi, Đức cha Havard Du mới chứng nhận anh là thày giảng, vừa để ḷng tin làm chứng cho đức tin. Thày Truật tuy không c̣n cơ hội để giảng bằng lời nói, nhưng thái độ kiên tín của thày chính là lời giảng có sức thuyết phục hơn nhiều. Ba tấm ḷng vàng
Ở Bầu Nọ có người ngoại giáo tên Đức cầm đầu một băng cướp đă bị bắt. Để nhẹ tội, y nói với vợ là Yến vu oan cho cha Cornay Tân tội tổ chức phản loạn. Chị ta liền giả vờ đến xin học đạo để ḍ xét những nơi cha thường trú ẩn. Khi biết được, chị ta liền giấu vũ khí trong vườn nhà cha, rồi đi mật báo cho các quan tỉnh Sơn Tây. Ngày 20-6-1837, quan Sơn Tây phái 1500 quân lính đến làng Bầu Nọ, bắt linh mục Tân. Hai thày Mỹ và Đường cũng như anh Truật ngồi lẫn vào đám đông dân chúng bị tập trung nơi đ́nh làng. Lính lục soát từ sáng tới trưa vẫn không thấy cha Tân đâu cả. Bà Yến liền bày cho họ bắt anh Truật và hai thày Mỹ, Đường, là những người thân thiết với cha xứ để tra hỏi. Chiều hôm đó, lính phát hiện được cha đang ẩn trong bụi rậm. Nhưng để có thêm nhân chứng ghép tội cha, ba vị phụ tá này cũng bị áp giải với ngài hơn sáu dặm đường, về nhà lao tỉnh Sơn Tây. Tại công đường, ba vị đă khéo léo minh chứng cha xứ không theo giặc nổi loạn, và giải thích những lời đồn đại sai về đạo. Thí dụ quan hỏi : "Sao các ông móc mắt người chết để luyện bùa phép ?" Thày Mỹ trả lời : "Không lẽ quan tin những lời đồn đăi vô lư đó sao ? Bởi nếu chúng tôi làm như thế, cha mẹ vợ con họ đâu để cho chúng tôi yên. Vậy mà chúng tôi vẫn ra vào nhà họ, gặp gỡ thân ái và vui vẻ" Các cuộc thẩm vấn thường đi liền với những tra tấn dă man. Đây là chứng thư của thày Mỹ: "Lính lột áo chúng tôi ra, bắt chúng tôi nằm xuống lấy dây thừng cột tay chân, rồi kéo căng cột vào bốn góc, nguyên sự căng nọc cũng làm chúng tôi đau đớn vô cùng, thế rồi họ bắt đầu đánh đ̣n… Cuối cùng họ không đánh bằng một chiếc roi nữa mà là cả bó. Mỗi lần đánh hằng trăm đầu roi mây in lằn trên da thịt chúng tôi, tạo nên nhiều vết thương đẫm máu…" Riêng thày Truật v́ ốm yếu nên được đeo gông nhẹ hơn và bị ít đ̣n hơn. Nhưng sau mỗi kỳ tra tấn cả ba người đều bị kiệt sức, phải khiêng về ngục thất. Ngày 20-9, lính canh tù loan tin cha Tân đă bị trảm quyết, và khuyên các thày bỏ đạo cả ba vị cùng nói : "Chúng tôi mừng v́ thày chúng tôi được tử đạo, chúng tôi nguyện theo gương Ngài." Giai đoạn này thày Mỹ ghi lại một lá thư : "Suốt bốn tháng liền chúng tôi bị gông cùm xiềng xích, chịu lính canh ngược đăi, pḥng giam ẩm thấp hôi hám, ruồi muỗi tự do hoành hành, trên người th́ đầy những vết thương bị tra tấn." Tháng 10 bản án tỉnh Sơn Tây tâu vua Minh Mạng được chuẩn phê và gởi về. Nhưng thay v́ giết ngay bản án quyết định "giam hậu" nghĩa là khoan xử chờ quyết định mới, bề ngoài có vẻ nhân đạo, nhưng thật ra bên trong rất thâm độc. Với thời gian nhiệt t́nh ban đầu có nguy cơ phai nhạt, v́ tử tội luôn bị ám ảnh đến chuyện phải ngồi tù không biết đến bao giờ. Đàng khác sự chịu đựng con người có hạn, quá khổ đau, quá ṃn mỏi, quá thất vọng, con người dễ bị lung lạc và dễ bị thay đổi ư định. Thực tế ba thày giảng phải chờ thêm 14 tháng, vị chi tất cả là một năm rưỡi bị giam cầm. Nhưng suốt thời gian bị giam cầm thử thách lâu dài đó, ba thày vẫn gắn bó với nhau trong nhẫn nại, can đảm và giữ măi phúc tử đạo, mỗi sáng cũng như mỗi tối, các thày lớn tiếng đọc kinh Mân Côi chung, cầu nguyện chung, các đồ ăn thức uống, thuốc men nhận được ba vị chia sẻ cho lính canh, ai đến thăm đều được khuyên nhủ : "Anh em hăy sống ḥa thuận với mọi người trong gia đ́nh, làng nước, hăy là giáo hữu nhiệt thành, v́ đời sống trần gian chẳng là bao. Chúng tôi đă vâng theo ư Chúa định đoạt, hy vọng mai này chúng ta sẽ đoàn tụ trên Nước trời" Cha Triệu giả làm thường dân mang Ḿnh Thánh Chúa cho các thày, đó quả là hồng phúc lớn lao. Ta thử đọc tâm sự của thày Đường gởi cho cha Marette trong thư : "Hôm nay là ngày trọng đại chúng con được rước Ḿnh Thánh Chúa. Xin tạ ơn Chúa đă viếng thăm và làm vơi nhẹ những xiềng xích của chúng con… cửa Thiên Đàng đă gần kề, nghĩ đến hạnh phúc đang chờ đợi, chúng con chẳng c̣n ước ao sự ǵ khác nữa…" Cùng Chiến Thắng Vinh Quang Năm 1838, triều đ́nh duyệt lại bản án và chỉ thị cho quan tỉnh Sơn Tây thi hành. Ngày 18-12 ba chứng nhân anh dũng bị điệu ra pháp trường ở G̣ Vôi làng Mông Phụ, tỉnh Sơn Tây. Mỗi người mang trên ngực tấm thẻ ghi tên họ, nguyên quán, tội theo đạo Giatô, đă thú nhận, truyền xử trảm. Trên đường đến nơi hành quyết, như đă hẹn trước ba thày cùng làm dấu khi thấy cha Triệu đứng giữa dân chúng ban phép lành tha tội. Một người lính cho các Ngài uống rượu, ba vị cám ơn, uống nước trà và nói : "Thày giảng chúng tôi kiêng rượu như kiêng sắc dục và kiêng phản bội." Đến nơi xử, ba thày nằm dài trên chiếu, quân lính quây thành một ṿng tṛn lớn, để ngăn cản dân chúng. Từng vị một bị trói chân vào cột và trói chéo tay ra sau lưng. Dây thừng tṛng sẵn vào cổ. Giữa tiếng chiêng trống vang rền, theo lệnh quan mỗi tên lính nắm chặt đầu dây xiết thật căng, chờ tới khi tất cả tắt thở, máu ứa ra miệng. Sau đó lấy lửa đốt gan bàn chân để xác nhận các tử tội đă chết thật rồi. Cha Marette và giáo dân đưa thi hài ba thày về họ Kẻ Măng gần đấy tẩm liệm. Ngài dâng lễ cầu hồn tạ ơn Chúa đă cho các bậc tôi trung thắng trận khải hoàn. Đức Lêô XIII suy tôn ba thày Phaolô Nguyễn Văn Mỹ, Phêrô Trương Văn Đường và Phêrô Vũ Truật lên bậc chân phước ngày 27-05-1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh. |