Thần Học Đại Kết 2-4

 

Thần Học Đại Kết 2-4

Bài 2. Lịch Sử Phong Trào Đại Kết

Lm Giuse Phan Tấn Thành op

Thần Học Đại Kết 2-4Trong bài trước, chúng ta đã đi ngược lại dòng lịch sử để tìm hiểu những lý do đã đưa các tín đồ của đức Kitô đền chỗ phân rẽ trong 20 thế kỷ qua. Trong bài hôm nay thì chúng ta quan sát một hiện tượng ngược lại, đó là lịch sử của những nỗ lực để tái lập sự hiệp nhất.

Chúng tôi đã có dịp nhắc đến hai công đồng Lyon II (1274) và Firenze (1439) đã gắng tìm ra những công thức thỏa hiệp giữa Rôma và Constantinôpôli; nhưng sự hợp nhất không được bền lâu. Vào thời Cải cách, nhiều cuộc gặp gỡ giữa Luther với Tòa thánh đã diễn ra trước và trong công đồng Trentô. Hồi triệu tập công đồng Vaticano I, đức Piô IX đã mời các Giáo hội chính thống đến dự, nhưng thư mời bị gửi trả lại.

Thực ra, thì cho tới đầu thế kỷ 20, Giáo Hội Công giáo hiểu sự hợp nhất theo nghĩa là các phe phái kia hãy ăn năn trở lại phục tùng đức Giáo hoàng: đó là hình ảnh lý tưởng của một đàn chiên với một chủ chiên. Công tác hợp nhất được ủy thác cho bộ Truyền giáo: cơ quan này phải tìm cách để cho người ngoại giáo lẫn người lạc giáo trở lại với chính đạo. Dưới viễn ảnh đó, không có chuyện “đối thoại đại kết”. Danh từ này được đặt lên do một phong trào bắt nguồn từ các nhóm Cải cách. Chúng ta hãy theo dõi lịch sử của nó, trước tiên là ở ngoài Giáo hội công giáo, và sau đó trong Giáo hội Công giáo.

 

I. Phong trào đại kết

Tiếng “đại kết” dịch  bởi từ ngữ oecumenismus. Thực ra, thì  từ này trong nguyên ngữ Hy lạp và Latinh mang rất nhiều nghĩa. Trong tiếng Hy lạp, từ “oikouméne” (bởi danh từ “oikos”: nhà) lúc đầu có nghĩa là những vùng đất đã có người cư ngụ (đã xây cất nhà cửa), rồi dần dần mở rộng ra đến toàn thể thế giới. Cách riêng hoàng đế Rôma mang tước là “oikumêne”, nghĩa là bá chủ khắp thế giới (chỉ trừ những vùng đất hoang dã của quân man di, barbaroi). Từ đó mà sinh ra tính từ “oecumenicus” (thí dụ: “concilium oecumenicum”: công đồng do hoàng đế triệu tập, hay là công đồng quy tụ hàng giám mục thế giới). – Khi phong trào hợp nhất các Kitô hữu ra đời vào thế kỷ 20, người ta muốn lấy lại tiếng “oecumenismus” để biểu lộ niềm khát khao được thấy Giáo hội mang chiều kích hoàn vũ, vượt qua hết mọi hình thức phân ly chia rẽ.

Có thể lấy năm 1910 như khởi điểm của phong trào đại kết cận đại.  Vào năm ấy một Đại Hội của các Hội truyền giáo Tin lành (World Missionary Conference) được tổ chức Edinburgh, (Scotland). Lý do đưa tới việc tổ chức Đại hội là thực trạng chua chát của các xứ truyền giáo, khi mà các giáo đoàn trẻ chất vấn những nhóm thừa sai: “Tại sao các ông đều rao giảng một đức Kitô như nhau, mà các ông lại chia rẽ thành bao nhiêu là phe nhóm, nào là metodist, nào là luteranist, nào là episcopalist? Tại sao các ông vừa mang cho chúng tôi Tin mừng của đức Kitô mà vừa mang theo các sự phân hóa từ Âu Mỹ sang đây làm gì?” . Chính vì ý thức rằng sự chia rẽ giữa các Kitô hữu là một chướng ngại cho việc Truyền giáo, cho nên các Hội Truyền giáo mới quyết định nhóm họp lại để tìm cách thức giải quyết. Cuộc gặp gỡ giữa các Hội Truyền giáo đã dần dần đưa tới sự gặp gỡ giữa các Giáo hội dưới danh nghĩa của Hội đồng quốc tế truyền giáo (International Missionary Council) ra đời năm 1921.

Từ kinh nghiệm gặp gỡ vừa nói, dần dần nảy ra hai cơ quan khác, biểu lộ cho hai đường lối để tiến tới sự hiệp nhất: một đàng về đạo lý, một đàng về hoạt động. Cơ quan thứ nhất mang tên là Faith and Order (Pháp: Foi et Constitution. “Đức tin và Định chế) chuyên về các vấn đề đức tin và thể chế của Giáo hội. Họ đã tổ chức hai Hội nghị quốc tế ở Lausanne (1927) và Edinburgh (1937). Cơ quan thứ hai mang danh là Life and Work (Pháp: Vie et Action. “Đời sống và Hành động”) được thành hình ngay từ năm 1925 tại Hội nghị Stockholm (Thụy điển). Phương châm của họ là: “đạo lý năng gây chia rẽ, còn hành động thì sẽ gây đoàn kết”. Vì vậy việc hợp tác vào các công tác phụng sự xây dựng xã hội sẽ dần dần đưa các giáo hội xích lại với nhau.

Tuy nhiên sau hội nghị lần thứ hai tại Oxford năm 1937, họ nhận thấy rằng sự chia rẽ về đạo lý cũng mang theo những chia rẽ về quan điểm hành động. Do đó mà hai cơ quan đã đồng ý sát nhập lại thành một Tổ chức mang danh là “Hội đồng thế giới các Giáo hội” (World Council of Churches), với quy chế tạm thời được biểu quyết tại Utrecht năm 1938. (Lưu ý: dựa theo Pháp ngữ, Conseil Oecuménique des Églises trong tiếng Việt thường hay dịch là “Hội đồng đại kết các Giáo hội”, nhưng có lẽ không chỉnh lắm; có thể đối chiếu với tiếng Tây ban nha Consejo Mundial de las Iglesias). Tiếc rằng thế chiến thứ hai bùng nổ, cho nên phải chờ tới năm 1948 thì mới có thể triệu tập Đại hội đầu tiên tại Amsterdam (Hòa lan) từ ngày 22/8 tới 4/9. Tiêu chuẩn đạo lý căn bản để gia nhập Hội đồng là chấp nhận đức Kitô là Chúa Cứu thế.

Phải chờ tới năm 1961, Đại hội New Delhi mới hoàn chỉnh công thức phát biểu đạo lý căn bản như sau: “Hội đồng thế giới các Giáo hội là một hội nghị của các Giáo hội tuyên xưng đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa và là Đấng Cứu thế theo Kinh thánh; do đó họ nỗ lực thể hiện ơn gọi chung hầu làm vinh danh Thiên Chúa duy nhất, Cha, Con và Thánh Thần”. Đúng ra đây không phải là một tín biểu mới, nhưng chỉ muốn đặt ra một cơ sở tối thiểu cho các cuộc đối thoại giữa các thành viên. Thực vậy, trong quá khứ cũng như trong hiện tại, không thiếu lần có những nhóm tự xưng là Kitô hữu nhưng lại không chấp nhận thiên tính của đức Kitô hoặc không chấp nhận tín điều Chúa Ba Ngôi. Hội đồng thế giới các Giáo hội không phải là một thứ siêu Giáo hội, cũng chẳng phải là Giáo hội duy nhất mà phong trào đại kết mong đạt đến. Tổ chức này chỉ là nơi để các Giáo hội đến gặp gỡ học hỏi lẫn nhau, và tương trợ nhau trong sứ mạng truyền giáo. Trụ sở của Hội đồng đặt tại Genève.

Từ ngày thành lập tại Amsterdam năm 1948 đến nay, Hội đồng đã tổ chức các Đại hội sau đây: Evanston (1954), New Delhi (1961), Uppsala (1968), Nairobi (1975), Vancouver (1983) Canberra (1991). Đại hội lần tới được dự trù sẽ họp vào năm 1998 tại Harare (Zimbabwe).

Hiện nay có tới hơn 300 Giáo Hội đã làm thành viên của Hội đồng, trong đó có cả các Giáo hội chính thống. Giáo hội Công giáo không gia nhập Hội đồng, vì quan điểm khác nhau về Giáo hội học. Tuy nhiên, từ năm 1961, Giáo hội Công giáo gửi quan sát viên tham dự các Đại hội, và nhất là từ năm 1965 đã thành lập một nhóm làm việc chung với Hội đồng. Ngoài ra, Giáo hội Công giáo còn cử 12 đại biểu làm thành viên chính thức của Ủy ban “Đức Tin và Định chế”. Như đã nói trên đây, vai trò của ủy ban này là nghiên cứu những khía cạnh thần học nhằm tiến tới sự hợp nhất các Kitô hữu. Theo quan điểm của ủy ban, sự hợp nhất các Kitô hữu có nghĩa là sự thông hiệp trong đức tin, trong đời sống làm chứng tá Phúc âm và trong sứ mạng truyền giáo. Để tiến tới sự hiệp nhất đó, càn phải qua 3 chặng sau đây:

1/ Cùng nhau tuyên xưng một đức tin tông truyền;

2/ Nhìn nhận nơi các Giáo hội cùng có chung những yếu tố tông truyền, đặc biệt là bí tích rửa tội, Thánh thể và các tác vụ;

3/ Thiết lập những cơ chế chung nhằm bảo đảm việc chung nhau làm chứng tá, cũng như những cơ quan có thẩm quyền quyết định đường lối hành động và giảng dạy.

Chặng thứ nhất được đánh dấu với văn kiện “Tuyên xưng một niềm tin” (Confessing the One Faith) được hoàn chỉnh vào năm 1993 trong phiên họp tại Santiago de Compostela. Chặng thứ hai được tiến hành với việc tham khảo lược đồ mang tên “Rửa tội – Thánh thể – Tác vụ” (Baptism, Eucharist, Ministry, gọi tắt bằng 3 chữ đầu là BEM, soạn tại Lima năm 1982).

 

II. Giáo hội công giáo với Phong trào đại kết

Trong số các nhân vật mở đường cho phong trào đại kết về phía công giáo, ta có thể đến Hồng y John Henry Newman (1801-90) hồi cuối thế kỷ 19. Khi còn là phần tử của Giáo hội Anh quốc, cha Newman đã mở những cuộc hội thảo để xích lại gần Giáo hội công giáo. Ý nguyện đó vẫn tiếp tục sau khi cha gia nhập công giáo. Sang thế kỷ 20, vào những năm 1921-26, tại Malines đã có những cuộc đối thoại giữa Lord Halifax, một giáo dân Anh giáo với linh mục Portal người Pháp, dưới sự điều động của Hồng y Mercier.

Năm 1925, cha Lambert Beauduin (1873-1960) thành lập đan viện Biển đức tại Chevretogne và năm 1926, cha C.J. Dumont mở trung tâm “Istina” hướng tới việc học hỏi và đối thoại với các Giáo hội Đông phương. Năm 1933, cha Paul Couturier (1881-1953) đã mở trung tâm công giáo đại kết ở Lyon, cổ động việc cầu nguyện cho các Kito hữu được hợp nhất. Năm 1937, cha Yves Congar (1904-95) xuất bản quyển sách Chrétiens désunis. Principes d’un “oecuménisme catholique”, một tác phẩm thần học công giáo đầu tiên về đại kết.

Thế nhưng đó chỉ là những sáng kiến cá nhân. Tòa thánh tỏ ra dè dặt đối với phong trào đại kết: thông điệp Mortalium animos của đức Piô XI (6/1/1928) chấp nhận một đường lối hợp nhất duy nhất là các nhóm ly khai phải trở về với Giáo hội công giáo.

Dưới thời đức Piô XII, huấn thị De motione ecumenica của Bộ Thánh vụ (20/12/1949) hé mở cho người công giáo được phép tham gia vào các hội nghị đại kết với một số điều kiện.

Phải chờ tới khi đức Gioan XXIII đắc cử Giáo hoàng thì lập trường của Tòa thánh mới thay đổi. Sau khi loan báo triệu tập công đồng Vaticano II, vào ngày lễ Hiện xuống năm 1960 (5/6), ngài đã cho thành lập Văn phòng cổ võ sự hợp nhất các Kitô hữu do đức Hồng y Augustinô Bea (1881-1968) làm chủ tịch. Việc đối thoại đại kết trở thành một điểm then chốt trong chương trình của công đồng.

 

Trả lời