Kỷ Sửu nói về Trâu qua Thơ Văn

Kỷ Sửu nói về Trâu qua Thơ Văn(Sưu tầm trên mạng)

1/ Trâu trong tục Ngữ Ca Dao

 Rủ nhau đi cấy đi cầy,
Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu,
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
Chồng cầy, vợ cấy, con trâu đi bừa”.

“Trâu ơi ta bảo trâu này,
Trâu ra ngoài ruộng trâu cầy với ta,
Cầy cấy nối nghiệp nông gia,
Ta đây trâu đấy ai mà quản công.
Khi nào cây lúa còn bông,
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn”.

Lời Ca dao sao mà êm đềm thân thương thế, vẽ lên một bức tranh quê đơn sơ mộc mạc, nhưng không kém phần thi vị dễ thương. Phải có sợi giây chân tình giữa người và vật mới thốt lên những lời thơ ấy.

Người viết không là nhà động vật học luôn truy tìm nghiên cứu về loài vật, cũng không phải tử vi gia nghiên cứu xem vận mạng của Quí Vị có phù hợp với con Giáp trong năm hay không. Việc này đã có nhiều người bàn luận tiên đoán rất nhiều trên truyền thanh, báo chí…đôi lúc rất sôi nổi hào hứng về các nhân vật nổi tiếng nữa.

Năm nay Kỷ Sửu-năm con Trâu-con vật đứng thứ nhì trong 12 Giáp. Nhân dịp Xuân về, người viết chỉ muốn cùng Quí Vị tìm theo dấu vết Trâu trong thơ văn – một con vật gần gũi, thân thương nhất của người dân quê Việt nam trong loài gia súc như : chó, mèo, gà, heo, bò, ngựa ….

Trâu còn được gọi là Sửu hay Ngưu theo Hán tự, chính là người bạn sớm tối đói no cùng người dân quê xưa. Đúng vậy, vì nuôi Trâu không phải để làm cảnh, vui chơi ôm ấp…mà để đóng góp trong cuộc sống chân lấm tay bùn:

– Con trâu là đầu sự nghiệp.
– Làm ruộng phải có trâu, làm giàu phải có vợ.

Kỷ Sửu nói về Trâu qua Thơ Văn Vì thế mua Trâu người ta chọn lựa, đắn đo kỹ lưỡng:

– Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà,
Trong ba việc đó ắt là khó thay.

– Muốn giàu thì nuôi trâu cái,
Muốn lụn bại thì nuôi bồ câu.

– Thứ nhất vợ dại trong nhà,
Thứ nhì trâu chậm, thứ ba rựa cùn.

“Nái, vó, giống, nòi” đều quan trọng, nhưng cũng cần phải khoẻ, vì ngoài công việc đồng áng, trâu còn kéo xe, đạp lúa sinh sản giống tốt:

– Mua trâu xem nái, lấy gái chọn dòng,
– Mua trâu xem vó, lấy vợ xem nòi.

Từ gần gũi thân thương nhất trong gia súc, phát sinh nhiều thành ngữ, tục ngữ răn đời đơn sơ thâm thúy như:

– Trâu chậm uống nước đục
– Đầu trâu mặt ngựa
– Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã
– Trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết
– Đàn gảy tai trâu
– Thân trâu trâu lo, thân bò bò liệu
– Trâu cày không có, trâu ăn lúa lại đông
– Trâu lành không ai cắt cỏ, trâu ngã lắm kẻ cầm dao
– Trâu chết để da, người ta chết để tiếng
– Cứt trâu để lâu hoá bùn…

Trong Ca dao còn phong phú hơn nhiều:

– Trâu ta ăn cỏ đồng ta,
Tuy rằng cỏ cụt nhưng mà cỏ thơm.

– Trâu buộc ghét trâu ăn,
Quan võ lại ghét quan văn quần dài.

– Nghé ơi ta bảo nghé này,
Nghé ăn cho béo, nghé cầy cho sâu.
Ở đời khôn khéo chi đâu,
Chẳng qua cũng chỉ hơn nhau chữ cần.

– Trâu kia kén cỏ bờ ao,
Anh kia kén vợ khi nào có con.

– Trâu, dê lúc chết tế ruồi,
Sao bằng lúc sống ngọt bùi là hơn.

– Phình phình lớn giữa lớn ra,
Mẹ ơi con chẳng ở nhà được đâu,
Ở nhà làng bắt mất trâu,
Cho nên con phải đâm đầu ra đi.
(tục xưa con gái chửa hoang phải đền trâu cho làng)

– Một trâu anh sắm đôi cầy,
Một chàng đôi thiếp có ngày oan gia,
Chàng ơi chàng bỏ em ra,
Nhẽ đâu một ổ đôi gà ấp chung.
 (các bà không muốn người đắp chăn bông kẻ lạnh lùng )

Đôi lúc lại còn xót xa, bạc bẽo, chua chát thế thài nhân tình hơn:

– Công anh chăm nghé bây lâu,
Bây giờ nghé đã thành trâu ai cầy?
– Phù thủy, thày bói, lái trâu,
Nghe ba anh ấy đầu lâu không còn.


Kỷ Sửu nói về Trâu qua Thơ Văn2/ Trâu trong truyện xưa tích cũ và thơ văn

Lục súc tranh công kể lại 6 con vật : trâu, bò, dê, lơn, gà, ngựa tượng trưng cho 6 Vị quan đầu triều tranh nhau công trạng và ai cũng cho mình đóng góp nhiều công sức hơn cho Dân Nước. Hãy nghe quan Sửu kể công:

– Trâu mỏi mệt trâu liền thăn thỉ (năn nỉ)
Một mình trâu ghe nỗi gian nan,
Lóng canh gà vừa mới gáy tan,
Chủ đã gọi thằng chăn vội vã….
Từ tháng giêng cho tới tháng chạp,
Kế Xuân, Hè, nhẫn đến Thu, Đông,
Việc cầy bừa nông cụ vừa xong,
Lại xe gỗ giầm công liên khói

Bà Huyện Thanh Quan nữ sĩ đa tài, nổi tiếng qua nhiều bài thơ như : Qua Đèo Ngang,

Thăng long hoài cổ, Chiều hôm nhớ nhà…

– Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc xa đưa lẫn trống dồn,
Gác mái ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng mục tử lại cô thôn….

Bà còn lưu lại nhiều giai thoại nhẹ nhàng lý thú nhân khi ông Huyện vắng nhà, bà đã phê vào tờ đơn thày Hương Cống xin phép mổ trâu giỗ bố trong lúc đang thiếu trâu cầy :

– Người ta thì chẳng đuợc đâu,
‘Ừ’ thì ông Cống làm trâu thì làm.

Học Lạc nhà nho nghĩa khí Miền Nam, không chịu hợp tác với Pháp, làm bài thơ trào phúng Vịnh con trâu, chế diễu những kẻ xu thời, nghêng ngang mũ áo, nham nhở như phường tuồng theo gót ngoại xâm :

– Mài sừng cho lắm cũng là trâu,
Nghĩ lại mà coi thực lớn đầu,
Trong bụng lam nham ba lá sách,
Ngoài cầm lun phún một chòm râu.

Kẻ theo giặc chỉ là những con cờ thí, bị vắt chanh bỏ vỏ sau khi không còn dùng được nữa. Tú Mỡ nhà thơ trào phúng nổi tiếng, đặt cho hạng người này cái tên Ngài trâu như trong cuộc Chọi Trâu chí tử: con thua phanh thây nằm đó, con thắng mũ lọng nghênh ngang rước về làng làm lễ sát tế cúng Thành hoàng:

– Tưởng rằng danh giá những gì,
Kiếp trâu khốn nạn vẫn là kiếp trâu,
Nào người qúi hóa gì đâu,
Rước về làm thịt xúm nhau người sài.
Lắm anh danh vọng trên đời,
Chung qui cũng chỉ như Ngài Trâu thôi.

Phải chăng Nhà thơ Nguyễn huy Thiệp khắc khoải than thở cuộc sống ‘Trâu cầy’ đời người qua hình ảnh con trâu ?

– Sinh ra làm kiếp con trâu,
Suốt đời tăm tối dãi dầu nắng mưa,
Thân tôi cổ cầy vai bừa,
Nào thừng buộc, nào mõ khua rộn ràng,
Xin ông, ông cứ nhẹ nhàng,
Tôi xin nộp đủ thóc vàng cho ông.

Trong những tháng năm thơ ấu, tôi luôn nhớ hình ảnh đơn sơ tràn đầy kỷ niệm bài học trong Quốc văn giáo khoa thư: “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ. Đầu đội nón mê như lọng che, tay cầm cành tre như roi ngựa, ngất nghểnh ngồi trên mình trâu, tôi nghe chim hót trong chòm cây, mắt trông bướm lượn trên đám cỏ…. ”

“Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ. ” cũng là lời bài hát quen thuộc của Phạm Duy, mà thưở bé nhiều người trong chúng ta vẫn nghêu ngao hát cách khoái chí. Diễn tả niềm vui đơn sơ của những người thích hưởng thú thanh nhàn, tìm ra niềm vui đơn gỉan trong công việc.

Hay say mê truyện Con Trâu của Trần Tiêu – một nhà văn có biệt tài mô tả loài vật –mà ông nhân cách hoá phản ảnh về cuộc sống vất vả của con người.

… Gần đây nhất, Trâu còn nhảy vào nghệ thuật điện ảnh qua phim Mùa len Trâu do Nguyễn Võ Nghiêm Minh đạo diễn, phóng tác theo tập truyện ngắn của nhà văn Sơn Nam. Nhìn trong phim, đàn trâu hàng trăm con lướt đi như vũ bão trên cánh đồng mênh mông ngập nước, cho ta thấy một cuộc sống cuốn trôi tàn bạo, nhưng cần thiết cho đời sống kinh tế nông nghiệp người dân Miền Tây. Hy vọng hình ảnh này sẽ xuất hiện trong năm Kỷ Sửu 2009, để thấy từng đàn trâu can trường dũng mãnh giúp cho nhà nông chân lấm tay bùn.

Tuy kẻ viết bài không phải là thiền sư hay thiền giả, nhưng thường thảnh thơi ngồi thiền, qui hướng nội tâm, sực nhớ lời khuyên trong Phật giáo Thiền Tông qua bức tranh Thập Mục Ngưu Đồ :

‘Chăn Trâu’ 10 bước : 1- Tìm trâu 2-Thấy vết trâu 3- Thấy trâu 4- Bắt trâu 5- Chăn trâu 6-Cưỡi trâu 7- Quên trâu 8- Quên cả người và trâu 9- Trở về cội nguồn 10- Thong dong vào chợ đời. Lời thiền làm cho tâm hồn thấy lâng lâng phiêu bồng, thi hứng bỗng bật thành thơ:

Kỷ Sửu nói về Trâu qua Thơ Văn– Một đời mải miết tìm trâu,
Dõi theo dấu vết nông sâu mà tìm,
Thấy trâu ta phải bắt liền,
Chăn trâu ngày tháng ưu phiền lánh xa,
Cưỡi trâu miệng hát hoan ca,
Quên trâu quên cả thân ta nữa rồi,
Cội nguồn hiện thực người ơi,
Lỏng buông tay khấu chợ đời thong dong,
Phù sinh dấu ấn hóa công,
Hành trình tâm thức trong vòng chăn trâu.

Kính chúc Quí Vị Năm Mới luôn mạnh khoẻ để đủ sức nối tiếp cuộc sống ‘trâu cầy’, trước khi bước sang phần đời thiền giả ‘cỡi trâu’ thong dong ngao du sơn thủy.

Phỏng theo : Đinh văn Tiến Hùng


Trả lời