Chỉ cần ta “quyết từ nay thờ Chúa…”

 

Chỉ cần ta “quyết từ nay thờ Chúa…”Mùa Chay đã khép lại. Và hôm nay, chúng ta bước vào một tuần được gọi là Tuần Thánh. Tuần Thánh, bắt đầu bằng việc Giáo hội cử hành Lễ Lá, một ngày lễ nhớ tới việc Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem, được dân chúng đón rước và tôn vinh như một vị quân vương.

Về sự kiện này, thánh Luca đã tường thuật lại như sau: “Người đi tới đâu, dân chúng cũng lấy áo choàng trải xuống mặt đường”. Và “Khi Người đến gần chỗ dốc xuống núi Ô-liu, tất cả đoàn môn đệ vui mừng bắt đầu lớn tiếng ca tụng Thiên Chúa, vì các phép lạ họ đã được thấy. Họ hô lên: Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời!”… Sau lễ lá, Giáo hội dành riêng ba ngày được gọi là “Tam Nhật Thánh”.

Tam Nhật Thánh được bắt đầu vào thứ Năm, với ngày này, Giáo hội cử hành nghi thức rửa chân và nhắc lại việc Chúa Giê-su lập Bí Tích Thánh Thể. Kế đến là thứ sáu, với ngày này, Giáo Hội tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa Giê-su. Sau đó, vươn tới cao điểm là một thánh lễ long trọng vào chiều tối thứ bảy, chúng ta quen gọi là Lễ Vọng Phục Sinh. Cuối cùng được kết thúc với một thánh lễ Mừng Chúa Phục Sinh. Thánh Lễ cử hành chính ngày Chúa Nhật Phục Sinh.

Chúa Giê-su lập Bí Tích Thánh Thể. Tưởng niệm cuộc thương khó của Ngài. Mừng Chúa Phục Sinh. Đó là điều người tín hữu Công Giáo tin và tôn vinh. Điều này không tự Giáo Hội đặt ra, nhưng đó là niềm tin tông truyền và được ghi chép đầy đủ trong các sách Tin Mừng.

Việc Chúa Giê-su lập Bí Tích Thánh Thể, thánh sử Mác-cô đã kể lại rằng: Hôm ấy, là ngày lễ Vượt Qua. Đang khi dùng bữa, “Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: ‘Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy’. Và Người cầm chén rượu, dâng lời Tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này Người bảo các ông: ‘Đây là Máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người. Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Thiên Chúa”. (x.Mc 14, 22-25).

Còn với việc tưởng niệm cuộc thương khó của Đức Giê-su ư! Vâng, đã có người biểu lộ ý tưởng của mình như sau: “Có thể nói được rằng đây là lễ giỗ hằng năm Giáo Hội kính nhớ Thầy Chí Thánh của mình.”(trích nguồn: internet). Ví von như thế, e rằng có khập khiễng quá chăng!

Tưởng niệm cuộc thương khó của Đức Giê-su, mà lại xem đó như là “một lễ giỗ” ư!  Cái chết của Ngài, có phải là một cái chết của phàm nhân, để rồi mỗi năm đến ngày đó, làm một đám giỗ ăn nhậu linh đình (như người không có đạo) hoặc xin một thánh lễ cầu cho linh hồn (như người có đạo)!!! Cái chết của Đức Giê-su là một cái chết “thánh thiêng”, một cái chết sinh “ơn cứu chuộc chứa chan nơi Ngài”

Tưởng niệm cuộc thương khó của Đức Giê-su là tưởng nhớ đến những bất công và bạo lực của thần quyền cũng như thế quyền (thời đó), là nhớ lại sự phản bội và nhát đảm của các môn đệ, mà Ngài đã phải gánh chịu trong thinh lặng và đớn đau, để coi đó như một bài học, một bài học về sự trung tín, cho chúng ta, hôm nay.

Tưởng niệm cuộc thương khó của Đức Giê-su là hướng đến một Thiên Chúa là tình yêu, Người đã “…Yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”(x.Ga 3, 16)

Giờ đây, chúng ta hãy trở lại Ghết-si-ma-ni, nơi được cho là đã xảy ra cuộc bố ráp, bắt bớ để rồi dẫn đến “cuộc thương khó” của Đức Giê-su, chúng ta sẽ thấy cái chết của Ngài đúng là một cái chết thánh thiêng, một cái chết “vì người mình yêu”.

Vâng, vài hôm trước đó, nhóm thượng tế  đã sắp đặt một kế hoạch truy bắt Ngài. Kế hoạch đó được Giuđa Iscariot vạch ra. Trước đó, y đã lén lút đi gặp các thượng tế và lãnh binh Đền Thờ để bàn về cách thức nộp Đức Giêsu cho họ.

Được các thượng tế hứa hẹn sẽ “cho ba mươi đồng bạc”, vì thế cho nên “từ lúc đó, hắn cố tìm dịp thuận tiện để nộp Đức Giê-su.” .Và khi mọi sự đã được họ hoạch định. Một nhóm người được các thượng tế và kỳ mục sai đi tầm nã Đức Giêsu.

Trong lúc đó, tại Ghếtsimani, Đức Giê-su đang  nguyện cầu. Ngài cảm thấy “buồn đến chết được”. Vâng, làm sao không buồn, vì kẻ phản bội lại là một người trong nhóm mười hai.

Ánh đuốc bập bùng cộng tiếng vó ngựa vang rền đã phá tan sự thĩnh lặng của Giết-si-ma-ni. Tiếng gươm giáo và gậy gộc va chạm  đã khiến cho ai nấy phải rợn người. Vòng vây mỗi lúc một xiết chặt hơn. Ghếtsimani bỗng chốc phủ trùm bầu khí của bạo lực và chết chóc. Và  khi Giuda Iscariot xuất hiện. Như một con hổ đói, y xông đến Đức Giê-su, hôn Ngài.

Nụ hôn ư!… Đó là  một cử chỉ biểu lộ tình yêu thương, sao nay lại là một ám hiệu để bắt bớ! Thưa, đúng vậy. Đó là ám hiệu mà y đã nói với đồng bọn: “Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy.” Ôi! nụ hôn của thần chết…

Ba năm công khai rao giảng Tin Mừng, không ít lần người ta tìm cách giết Ngài, đe dọa và ném đá Ngài. Đức Giêsu đều tìm cách lánh đi. (x.Ga 8,59). Nhưng hôm nay, tại vườn Ghếtsimani, Giêsu người Nazareth, Ngài đứng lặng… Ngài đứng lặng… lặng như “chiên bị dẫn đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng”. (Isaia)

Toán quân và viên chỉ huy cùng đám thuộc hạ người Do Thái ập đến bắt Đức Giêsu. Họ trói Ngài rồi điệu đến dinh thượng tế Caipha. Toàn thể những thành viên Hội Đồng Công Tọa quá đỗi bất ngờ trước chiến tích của tên “phản thùng” Giuđa Iscariot.

Tại đây, Đức Giêsu đã phải hứng chịu suốt đêm màn tố khổ tại dinh thượng hội đồng, đầy bất công và tàn nhẫn. Thế nhưng, điều đó cũng chưa làm Hội Đồng Công Tọa mãn nguyện. Họ muốn Ngài phải chết.  Thế nên, không có  kế nào tốt hơn là “dẫn độ” Đức Giê-su đến Phi-la-tô, một quan tổng trấn La-mã, người có quyền tuyên án tử hình. Và họ đã làm.

Trên đường tới dinh tổng trấn, ngoài những sự đau đớn do bị đánh đập, Đức Giê-su còn đau đớn hơn khi “gà chưa kịp gáy” thì người môn đệ của mình “đã ba lần chối là không biết Thầy”.

Tại dinh tổng trấn, khi Philatô xuất hiện. Ông ta chết lặng nhìn thân thể tiều tụy rã rời của Đức Giêsu. Hình hài của Đức Giêsu, thật đúng như những gì ngôn sứ Isaia đã mô tả: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi người ta phỉ nhổ” (x.Is 50, 6).

Chỉ qua vài lời thẩm vấn, Phi-la-tô cho rằng, Đức Giê-su “chẳng can tội gì đáng chết” (Lc 23,14). Thế nhưng, dù có thẩm quyền, ông ta vẫn không đủ can đảm trả tự do cho Đức Giê-su, vì ông ta sợ, sợ trước những tiếng gào thét, ném về Đức Giê-su: “Giết! Giết nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá”.

Sau một chút do dự, Philato “chữa cháy” bằng việc đem ra một tù nhân, một gã cướp khét tiếng, phạm nhiều tội ác và sa lưới pháp luật, tên là Baraba. Và, như một thông lệ, vào những ngày lễ lớn, quan tổng trấn đại diện cho Rôma, có thói quen ân xá cho một phạm nhân. Hôm đó, Philatô đã đưa Đức Giêsu và Baraba ra trước mặt dân chúng cho họ chọn lựa.Tiếc thay, kế hoạch của quan tổng trấn “phá sản”. Hôm đó, toàn dân đã la lớn: tha Baraba và đóng đinh Giêsu.

Phiên tòa chấm dứt, chấm dứt qua việc “rửa tay”,  phủi bỏ trách nhiệm của ngài tổng trấn Philato. Hôm ấy, mệt mỏi vì những tiếng gào thét cuồng nộ của đám đông, Philato ngượng ngùng “trao Người cho họ đóng đinh vào thập giá”.

Con đường  thương khó bắt đầu trải ra cho Đức Giêsu. Mấy hôm trước, Ngài đã được đón tiếp như một quân vương. Nhưng hôm nay, ôi thật đúng là con đường của chết chóc! Lưỡi gươm và mũi đòng đã được thay cho những nhành thiên tuế.

Người ta thấy có một nhóm phụ nữ “vừa đấm ngực vừa than khóc Người”, thế nhưng, Đức Giêsu đã quay lại và cho họ một lời khuyên: “Đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu.”.  Các bà quên rằng, Đức Giêsu, nếu muốn, Ngài đã có thể cầu xin Thiên Chúa Cha “cấp ngay cho (Ngài) hơn mười hai đạo binh thiên thần” để giải thoát Ngài. Nhưng! “như thế, thì lời Kinh Thánh ứng nghiệm sao được?”.

Đức Giê-su đã chấp nhận cuộc “thương khó” dẫu cho những điều xảy ra cho Ngài “khó thương”; cũng chỉ vì… “vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta”.

Chiều tối thư sáu, lúc màn đêm buông xuống cũng là lúc Đức Giê-su được mai táng trong mồ, phụng vụ không có thánh lễ. Suốt ngày thứ bảy, tất cả giáo đường đều thinh lặng, thinh lặng kính viếng thánh giá Chúa Ki-tô.

Nhắc tới điều này để làm gì? Thưa, để chúng ta cũng thinh lặng, không chỉ thinh lặng kính viếng thánh giá Chúa Ki-tô, nhưng còn thinh lặng để hỏi mình, rằng: tôi đã đến với Tuần Thánh như thế nào? Tôi có xem Tuần Tam Nhật như là một cơ hội để thẩm định lại niềm tin mình?

Vâng, hãy tự hỏi, như người Do Thái xưa, vào ngày này (Lễ Lá), họ đã không ngớt reo hò hoan hô Đức Giê-su: “Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa”, còn hôm nay, chúng ta…  chúng ta cũng hoan hô chúc tụng Ngài! Chúng ta cùng kính thờ Ngài!

Hay, chỉ vì muốn có một cuộc sống giàu sang phú quí, chúng ta quay sang hoan hô, chúc tụng: thần tiền bạc, thần danh vọng, thần quyền lực v.v…? Nếu có, thì đừng quên, Đức Giê-su có lời truyền dạy: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì ích gì”

Hoặc, chỉ vì một phút yếu lòng nghĩ rằng “chẳng chết chóc gì đâu”, chúng ta lại hoan hô, lại đón mời, lại lăn sả vào: “thần dâm bôn, thần phóng đãng, thần say sưa chè chén” v.v…Nếu có, hãy coi chừng, đi theo những vị thần này, thánh Phao-lô cảnh báo: “những kẻ làm các điều đó sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa” (x.Gl 5, 21)

Câu trả lời là của mỗi chúng ta. Thế nhưng, đừng quên, tại Golgotha, một trong hai tên gian phi, nhờ đã nhận Đức Giê-su chính là “vị thần” của đời mình, y đã được cứu. Vâng,  y đã được cứu chỉ một lời khẩn khoản nài xin: “Ông Giê-su ơi! Khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi”.

Thế nên, đừng để Tuần Thánh đi qua mà chúng ta vẫn chưa có sự lựa chọn. Thế nên, hãy tự hỏi mình: “Tôi chọn Đức Giê-su, hay chọn Baraba – một biểu tượng của gian ác, của bạo lực”!

Nếu chọn Giê-su! Vậy thì, hãy đến với Tuần Thánh trong tâm tình cầu nguyện, nguyện rằng: “Xin giúp con đường thiêng liêng theo lối. Quyết từ nay thờ Chúa hết tâm tình”.

Nói cách khác, để được “vào Nước của Chúa”, để được “ông Giê-su nhớ đến” chỉ cần…chỉ cần chúng ta quyết-từ-nay-thờ-Chúa-hết-tâm-tình.

Vâng,  chỉ cần ta “quyết từ nay thờ Chúa hết tâm tình”.

Petrus.tran

Trả lời