Bình an, triều đại của Thiên Chúa đến gần

 

Bình an là dấu chỉ
Triều đại của Thiên Chúa đến gần
Isaia 66: 10-14; Tvịnh 66; Galát 6: 14-18;
Luca 10: 1-12, 17-20

Lm. Jude Siciliano, OP

Bình an, triều đại của Thiên Chúa đến gầnKinh Thánh thắm đượm tính thi ca, đặc biệt trong các Thánh vịnh, vì Thánh vịnh là những lời cầu nguyện đầy thi vị. Ngày hôm nay, ông Isaia là một mẫu gương ngôn sứ ưu tú, vì ông đã gây chú ý cho chúng ta qua tài năng thuyết phục và quyền uy trong phát biểu đầy thi vị. Ở đây các nhà thơ có thể được nổi bật vì họ đang nổ lực gây chúng ta chú ý, và họ đưa chúng ta từ những vị trí cố định đến những trải nghiệm và tầm nhìn mới. Đó là những điều mà ông Isaia đã làm cho chúng ta ngày hôm nay, vì ông dùng hình ảnh nữ tính để chuyển tải thông điệp hy vọng của mình.

Trước hết, ông Isaia áp dụng những hình ảnh người mẹ để nhân cách hóa Giêrusalem. Theo văn hóa thời đó, người phụ nữ hầu như không được kể đến, họ không có tiếng nói và cũng chẳng có uy quyền gì. Vào thời “Isaia I”, Giêrusalem (ví như người phụ nữ) bị khinh bỉ như một tội nhân và kẻ sa ngã (Is 3,25-26). Nhưng bây giờ, trong chương cuối về những điều được gọi là “Isaia III,” thì Giêrusalem đã cho một trẻ thơ chào đời (Is 66,7) và đất nước được tái sinh. Đất nước mới sinh này được người mẹ Giêrusalem nuôi nấng chu đáo và âu yếm quan tâm, được chăm sóc như một người mẹ nuôi con thơ. Dân chúng được hứa ban niềm hân hoan và sự sung túc từ “dòng sữa dồi dào của Giêrusalem”.

Ông Isaia diễn tả trí tưởng tượng thi ca của mình xa hơn nữa. Giêrusalem, thành phố đứng đầu, được so sánh với Thiên Chúa, Đấng chúc phúc sự quan tâm của người mẹ dành cho đất nước tái sinh và mới sinh. “Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy; tại Giê-ru-sa-lem, các ngươi sẽ được an ủi vỗ về”. Phần trích đoạn này của ngôn sứ Isaia được viết sau khi dân trở về từ chốn lưu đày. Lúc bấy giờ đất nước chưa được tái thiết và vì thế, vị ngôn sứ đã loan báo niềm hy vọng này đến với dân chúng. Thiên Chúa đang dành cho dân người sự chăm sóc của một người mẹ dịu dàng, và ban cho họ niềm hy vọng để duy trì “trong thời gian chờ đợi”.

Vượt qua nỗi sầu khổ không hề dễ dàng chút nào, vì nỗi sầu khổ thường làm cho thời gian dài thêm. Vị ngôn sứ Isaia bảo đảm cho những ai sầu khổ sẽ không còn than khóc nữa, vì rằng ở đây đã có quyền lực đổi mới của Thiên Chúa dành cho họ. Quyền lực này không phải được tỏ lộ bằng sức mạnh, nhưng được tỏ lộ theo cách thức mà chúng ta và một dân tộc được khổi phục cần đến, tựa như cần đến một bảo mẫu vậy. Thiên Chúa là Cha của dân tộc Israel, và khi dân tộc này cần đến thức ăn của trẻ thơ trong thời kỳ măng sữa, thì Thiên Chúa cũng chính là Người Mẹ của họ.

Có những lúc chúng ta cần Thiên Chúa ban sức mạnh, đặc biệt khi chúng ta phải đương đầu với thách đố căm go như là: sự đè ép của cơ quan quản lý Thành phố; sức ép của cộng đồng về việc thu nhập sống thấp; thành kiến trong gia đình chúng ta; những bày tỏ tán thành phá thai tàn nhẫn; những chính sách tù nhân dã man. v.v… Vào những lúc này chúng ta cần Thiên Chúa “cho ta điểm tựa” và ban cho ta ân sủng bằng chính cánh tay hữu mạnh mẽ của Người.

Vào những lúc khác, đặc biệt sau khi người thân qua đời; sụp đổ một kế hoạch; mất việc; con cái đau yếu, v.v… chúng ta cần Thiên Chúa an ủi và gìn giữ như hôm nay ngôn sứ Isaia mô tả cho chúng ta. Những lúc này, chúng ta khao khát một đường lối mà Thánh vịnh 131 miêu tả một em bé ngoan ngoãn và tin tưởng, “Như trẻ thơ no sữa nép mình bên lòng mẹ”.

Có sự so sánh tương đương với ngôn từ Tin mừng ngày hôm nay theo thánh Máccô và thánh Mátthêu, nhưng trong các trình thuật đó, 12 sứ đồ đều được phái đi. Theo thánh Luca thì có 72 người. Con số đó nổi tiếng trong Kinh thánh. Theo sách Sáng thế chương 10, trong toàn thể thế giới có 72 người. Sử dụng cùng con số đó, thánh Luca ám chỉ rằng Đức Giêsu có ý định cho toàn thể thế giới đón nhận sứ điệp của Người. Mùa gặt bội thu là nói đến ngày xưa cũng như ngày nay. Những “người thợ gặt” này phải cầu nguyện, phải kết hợp lời cầu nguyện của họ với lời cầu nguyện của Đức Giêsu, để còn người khác nữa sẽ kết hợp với họ trong việc làm.

Đang khi chúng ta cầu nguyện cho nhiều linh mục, phó tế và ơn gọi tu sĩ khác nữa trong Thánh Thể, thì chúng ta cũng tạ ơn những người giáo dân lao động đã kết hợp với chúng ta trong những lĩnh vực phục vụ Thiên Chúa. Nhiều năm qua chúng ta vẫn cầu nguyện cho ơn gọi. Vì thế, chúng ta đừng nhắm mắt làm ngơ trước những lời cầu nguyện được đón nhận qua các ơn gọi khác nhau, và hôm nay chúng ta phải biết dâng lời tạ ơn.

Có sự cấp bách trong những lời giảng dạy của Đức Giêsu với các nhà truyền giáo của Người. Vì vậy, đường lối hướng dẫn mà Đức Giêsu ban truyền cho họ là: đừng mang theo túi tiền, bao bị, vì những người Trung Đông này có thể bị trì hoãn do những nhu cầu thông thường về phép lịch sự và lòng hiếu khách, cũng “đừng chào hỏi ai dọc đường”, do thời gian ngắn ngủi.

Những người giảng thuyết này có một thông điệp bình dị và cấp bách muốn truyền đạt, đó là “Triều đại của Thiên Chúa đã đến gần các ông”. Thiên Chúa ở cạnh dân chúng và bình an là dấu chỉ về sự hiện diện của Người. Có người tiếp nhận tin vui này, có người không tiếp nhận. Những của cải chúng ta mang theo để phục vụ Thiên Chúa không bao gồm những đồ dùng. Thay vào đó, chúng ta là những người mang bình an khi dân chúng phải gánh chịu sầu khổ, sợ hãi, lo âu, kỳ thị và tuyệt vọng. Bình an (shalom) là ân sủng mà Đấng Mêsia (Cứu Độ) sẽ mang đến, và vì thế, ân sủng của Đức Giêsu dành cho các môn đệ là sự bình an mà họ sẽ đón nhận đối với những ai cần đến.

Đức Giêsu dạy bảo các môn đệ phải giảm thiểu hết mức những hành trang mang theo. Chúng ta biết rằng Đức Giêsu không muốn chúng ta bị quấy rầy bởi những của cải vật chất, vì những thứ đó làm chúng ta sao lãng. Chúng ta cần nhớ rằng Đức Giêsu ở với chúng ta, Người là cội nguồn của mọi vụ mùa mà chúng ta đi thu gặt. Chúng ta không phải đi tìm tiện nghi hay những ân huệ đặc biệt vì chúng ta biết mình là ai rồi. Dân chúng sẽ quan tâm chăm sóc những sứ giả, không phải vì chức vụ hay địa vị của họ, nhưng chính xác hơn họ chăm sóc vì họ cũng là những sứ giả của Đức Kitô, họ loan báo về sự hiện hữu của Thiên Chúa: “Triều đại của Thiên Chúa đã đến gần”.

Chúng ta không phải là những người bảo thủ. Chúng ta cảm phục những lời dạy bảo của Đức Giêsu khi đi đường với hành lý gọn nhẹ; Người dạy phải tin tưởng vào Người và tin tưởng sứ điệp mà chúng ta mang theo. Tuy nhiên, có những nơi và những tình huống đòi buộc, thì chúng ta phải dùng đến những nguồn vật chất để cung cấp cho những nhu cầu thể lý của người dân. Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ chúng ta cả thân xác lẫn linh hồn. Vì vậy, những Kitô hữu phải dâng tiền bạc để xây dựng bệnh viện, trại mồ côi, trường học, nhà trọ hoặc nhà tình thương cho những ai lâm cảnh khốn khó.

Có những Kitô hữu mẫu mực đã thực hiện những công việc thiện tâm này, trong số đó, có người được phong thánh, có người được biết đến như những người tốt lành và là người yêu quý của những kẻ cơ hàn. Họ có thể giỏi giang với những viên gạch hay nơi đống hồ. Nhưng trong trái tim họ, họ không đặt sự tin tưởng của mình vào “túi tiền”, “bao bị” hay “giày dép”, nhưng họ đặt tin tưởng vào Đấng đã sai họ đi với những lời, “Hãy ra đi…” Nhiều người đã đối diện với “những con sói” tham ăn, tham vọng và uy quyền chống lại họ. Họ đã vượt qua những thế lực tiêu cực này, không phải bằng việc đọ súng với nhau, nhưng vượt qua bằng cách nhớ lại Đức Giêsu đã nói rằng họ sẽ có Thánh Thần cùng đồng hành.

Một trong những mẫu gương yêu thích của tôi về lòng dũng cảm và tin tưởng vào Thiên Chúa là (Mẹ) thánh Phanxicô Xaviê Cabrini (1850-1917). Chị sinh ra tại Ý và muốn trở thành người truyền giáo đến Trung Hoa, nhưng lại được Đức giáo hoàng Lêo XIII gởi đi cùng với sáu chị em khác để phục vụ cho hàng ngàn người Ý nhập cư đang sinh sống ở thành phố New York. Trong vòng 35 năm, chị đã thành lập được 67 trụ sở được dâng tặng để phục vụ người nghèo, kẻ bị bỏ rơi, người thất học hoặc đau yếu. Chị đã hãi hùng với nước và sợ chết đuối. Bởi lẽ chị đã vượt đại dương hơn 30 lần. Trong dịp phong thánh cho chị, Đức Piô XII đã công bố rằng: “Mặc dù thể trạng rất mỏng manh… nhưng thánh nhân không cho phép điều gì ngăn cản mình hoàn thành những công việc xem ra vượt quá sức mạnh của một người phụ nữ”.

Một câu chuyện về Mẹ Cabrini mà tôi thích nhất là khi mẹ đang thảo luận với chị em mình việc xây thêm một bệnh viện nữa. Họ phản đối rằng họ không có kinh phí cho công trình như thế. Câu trả lời của mẹ là “Công việc đó của ai, của Thiên Chúa hay của chúng ta”? Thế là bệnh viện được xây lên.

Một mùa gặt đem lại bội thu hoa trái và cho dù người thợ gặt không nhiều và chúng ta được sai đi như những chiên con giữa bầy sói, nhưng “Công việc đó là của ai, của Thiên Chúa hay của chúng ta”

Chuyển ngữ: Anh em HV Đaminh Vò Vấp

 

 

Trả lời