Anh em hãy nên hoàn thiện

 

Anh em hãy nên hoàn thiệnMột ngày nọ, có một người thông luật hỏi Đức Giê-su: “Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất”. Đức Giê-su trả lời: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”.(x.Mt 22, 35-39).

Hai điều răn này, hôm nay chúng ta thường nói, đó là “trước kính mến một Đức Chúa Trời  trên hết mọi sự – sau lại yêu người như mình ta vậy. Amen”.

Thiên Chúa là tình yêu. Giới răn của Người là giới răn của tình yêu, và  tình yêu chính là điều người môn đệ của Đức Giê-su phải có. Trong những ngày còn tại thế, Đức Giê-su luôn nói tới việc phải yêu tha nhân, yêu bằng một tình yêu đi bước trước.

Để mọi người hiểu thế nào là “đi bước trước”, Đức Giê-su đã truyền dạy rằng: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta”.

Đi bước trước còn được hiểu như là một hành động nhẫn nại chịu đựng, nhẫn nại chịu đựng với tất cả lòng bao dung. Mà quả thật là vậy khi Đức Giê-su truyền dạy, rằng: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài”.

Có thể nói rằng, đó là những lời truyền dạy quá mới mẻ cũng như quá khó để thực hiện, đối với người đời, xưa cũng như nay.

Giả sử có ai đó phun vào mặt ta vài câu “tiếng Đức”, cứ sự thường, ta sẽ “trả đũa” bằng một loạt tiếng “Đan Mạch”, đúng không? Có ai đó xúc phạm, gây tổn thương, hoặc có vài cử chỉ khiếm nhã, khiến ta nổi giận,  làm gì thì làm, chúng ta sẽ tìm cách để trả đũa, trả thù, đúng không?

Con người, trải qua nhiều ngàn năm lịch sử, đã chứng kiến biết bao cuộc trả thù. Người ta có thể trả thù bằng cách tru di tam tộc, hoặc  tru di cửu tộc. Còn với ngày nay, để trả thù người ta đã truy xét “lý lịch ba đời” v.v…

Sự trả thù còn ngấm sâu vào đời sống tôn giáo. Với đạo người xưa, thì, “quân tử mười năm trả thù chưa muộn”. Với Do Thái giáo, khỏi chờ lâu, “mạng đền mạng”. Thế nhưng, với Đức Giê-su, Ngài không hoan nghênh kiểu “ăn miếng trả miếng” như thế.

Trái với những lời dạy dỗ của người xưa mang tính tiêu cực, những lời giáo huấn của Đức Giêsu luôn mang tính tích cực, đầy tình yêu thương.

Luật xưa dạy rằng: “Chớ giết người, ai giết người thì đáng bị đưa ra tòa”. Với lời giáo huấn của Đức Giêsu, chỉ cần “giận anh em mình…” cũng đủ để đưa ra tòa rồi.

Nếu luật xưa dạy rằng: “Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù”. Thì, với Đức Giê-su, Ngài dạy rằng: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (x.Mt 5, 44)

Hôm ấy, kết thúc cho những lời truyền dạy, Đức Giê-su nhấn mạnh: “Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh  em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao?”

Nhẫn nại và chịu đựng với lòng bao dung… Đó… đó chính là luật, là giới răn, là những gì mà người môn đệ của Đức Giê-su phải thực hiện, phải thực hiện để, như lời  Ngài nói: “Nên hoàn thiện, như Cha của anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”.

Có bao giờ chúng ta nghĩ rằng, khi thực hiện những điều Đức Giê-su truyền dạy (nêu trên), chúng ta trở thành những kẻ nhát đảm, sợ hãi, nhu nhược?  Có bao giờ chúng ta nghĩ rằng, thực thi lời truyền dạy này, không khác gì ta hoan nghinh tội ác mà kẻ thù đã gây ra, ta phớt lờ trước bất công do kẻ thù gây ra, ta khiếp nhược trước bạo lực của kẻ thù?

Vâng, nếu suy nghĩ theo lối suy nghĩ của người đời thì câu trả lời là: đúng vậy. Thế nhưng, là một Ki-tô hữu, khi chúng ta thực thi lời khuyên của Đức Giê-su, chúng ta lại là những người can đảm, là những kẻ chiến thắng, trước hết, chiến thắng chính bản thân mình, và sau là chiến thắng “thói đời”, nơi luôn tạo ra sự mua thù chuốc oán.

Khi chúng ta bỏ qua sự thù oán, chúng ta đã thực hiện được đức ái, đúng như thánh Phaolô đã nói: “Đức ái thì nhẫn nhục… không nóng giận, không nuôi hận thù…” (1Cor 13, 4-7).

Không nuôi sự thù oán, có phần chắc chúng ta  quên đi hận thù. Mà, một khi quên đi hận thù, chắc hẳn rằng, chẳng ai còn cần thiết đến gặp kẻ thù để đòi cho được “mắt đền mắt, răng đền răng”, và cũng không còn cần thiết để đòi “mạng đền mạng”.

Vâng, “Kẻ thù ta đâu có phải là người. Giết người đi thì ta ở với ai? Kẻ thù ta tên nó là gian ác. Kẻ thù ta tên nó là vô lương. Tên nó là hận thù. Tên nó là một lũ ma (thế thì)…”

Thế thì sao nhỉ? Thế thì, cớ gì ta không vui mừng thực thi lời truyền dạy của Thầy Giê-su, truyền dạy rằng: “Chớ trả thù và phải yêu kẻ thù”!

Có bao giớ chúng ta cho rằng Đức Giê-su khờ khạo và các lời truyền dạy của Ngài phi thực tế!

Thưa, hãy suy nghĩ lại. Hãy nhìn Đức Giê-su và bản lĩnh của Ngài, trước dinh thượng hội đồng, nơi Ngài bị quân dữ dẫn đến để hài tội. Hôm đó, khi bị “một tên trong nhóm thuộc hạ đứng đó vả vào mặt Ngài”, Đức Giê-su đã không đưa tiếp má bên kia, như Ngài từng dạy bảo. Ngược lại, Ngài đã đáp trả lại bạo lực bằng một câu hỏi khiến cho cả thượng hội đồng phải câm lặng, câu hỏi rằng: “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi” (x.Ga 18, 23).

“Chớ trả thù (và) phải yêu kẻ thù”. Thực thi lệnh truyền này cũng chính là ta đã chứng minh được “tình yêu, lòng bao dung và sự tha thứ” của một người Ki-tô hữu.

Khó… khó thực hiện đấy! Nhưng, không phải là không thực hiện được. Chúng ta hãy nhìn vào các thánh, như là mẫu mực cho việc thực thi lời truyền dạy.

Thánh Maria Goretti, như một điển hình. Chuyện kể rằng: “khi cô 11 tuổi, người hàng xóm của cô, Alessandro Serenelli, trở nên ám ảnh tình dục đối với cô, và tiếp cận cô vài lần với đề nghị tình dục. Ngày 5/07/1902, Alessandro tấn công Maria và đe doạ cô bằng dao; khi cô không khuất phục và phản đối rằng ‘đó là tội lỗi’ và ‘Thiên Chúa không muốn điều này’, Serenelli đâm cô 14 nhát. Vào ngày hôm sau, sau khi bày tỏ sự tha thứ đối với kẻ giết mình, Goretti nói rằng, cô muốn anh ta cùng lên thiên đàng với cô, Maria Goretti chết vì thương tích”.

Nếu câu chuyện dừng ở đây thì không có gì đáng nói. Vâng, “Alessandro Serenelli bị tuyên phạt tù. Anh ta vẫn không ăn năn. Một đêm nọ, anh ta mơ thấy Maria đưa cho anh ta 14 đoá hoa huệ cho 14 lần cô bị đâm. Sau giấc mơ, anh ta trở nên hối hận sâu sắc. Sau khi ra khỏi tù, anh đến nhà mẹ của Maria, bà Assunta, và khẩn cầu cho sự tha thứ của bà. Bà đã tha thứ anh ta, và họ cùng dự thánh lễ vào ngày hôm sau, rước Mình Thánh bên cạnh nhau. Alessandro Serenelli trở thành phần tử dòng ba của dòng Capuchin”.(nguồn: internet)

Maria Goretti và bà Assunta, quả đúng là mẫu mực cho việc thực thi lời Đức Giê-su truyền dạy: “Chớ trả thù (và) phải yêu kẻ thù”.

Còn… còn rất nhiều những người cũng chỉ là “phàm nhân”, như chúng ta, thế mà họ cũng đã thực thi trọn vẹn lời truyền dạy của Đức Giê-su.

Đó là vị cố Hồng Y Phanxico Xavie Nguyễn Văn Thuận đáng kính. Khi còn ở trong ngục tù, ngài đã nói với những người giam giữ mình rằng: “Cho dù các anh giết tôi, tôi vẫn yêu thương các anh. Tại vì Chúa Kitô đã dạy tôi phải yêu thương tất cả mọi người, cả những kẻ thù. Nếu tôi không làm như vậy, tôi không đáng được gọi là Kitô hữu”. Cuối cùng, chúng ta đừng quên tấm gương Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.

Chuyện xảy ra vào năm 1981, một tay súng Thổ Nhĩ Kỳ tên là Mehmet Ali Agca, y   đã bắn 2 viên đạn vào Đức Gioan Phaolô II trong lúc Ngài đi chào giữa đám đông các đoàn hành hương tại quãng trường Thánh Phêrô vào ngày 13/5/1981, một viên đạn suýt nửa trúng động mạch chủ.

Đức Giáo Hoàng đã tha thứ cho Agca  trong bài huấn từ đầu tiên từ bệnh viện Gemilli tại Roma và đã viếng thăm Agca tại nhà tù vào ngày 27/12/1983.

Tờ Rzecpospolita nói viếng thăm Agca tại nhà tù  “chắc chắn là một dấu chỉ cảm động hơn nhiều và chứng thực mạnh mẽ đến sự tha thứ hơn bất cứ một lá thư nào”. Nhưng đối với Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô, Ngài đã tha thứ Agca kẻ ám sát ngài ngay từ khi trên đường đưa tới bệnh viện cấp cứu sau khi bị ám sát.

Trong cuốn “Ký Ức và Căn Tính” Đức Gioan Phaolô kể lại: “Đúng, tôi nhớ tới chặng đường tới bệnh viện. Chỉ trong một lúc ngắn ngủi tôi vẫn còn tỉnh táo. Tôi có cảm giác rằng tôi sẽ sống sót. Tôi đã thấy đau, và đây là một lý do để sợ sệt, nhưng tôi có một sự phó thác lạ thường. Tôi đã nói với Cha Stanislaw rằng tôi đã tha thứ cho kẻ ám sát tôi. Nhũng gì đã xảy ra tại bệnh viện, tôi chẳng còn nhớ”.(nguồn: vietcatholicnews.net)

Vâng, với những tấm gương nêu trên, tại sao chúng ta không “thử… dù chỉ một lần” tha thứ… tha thứ cho một ai đó đã “làm mất lòng ta”!

Câu trả lời là của mỗi chúng ta. Thế nhưng, đừng quên, Thánh Phanxico Assisi đã nói: “chính khi thứ tha là khi được tha thứ”.

Chúng ta cũng đừng quên, mặc dù đã phải lãnh chịu sự đánh đập tàn bạo, với một mão gai trên đầu, và những lời phỉ báng, Đức Giêsu, trên thập giá tại đồi Golgotha, Ngài vẫn “yêu kẻ thù” với lời cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, xin tha cho họ”.

Vì thế, là người môn đệ của Đức Giê-su, chúng ta không thể không thực hiện theo lời truyền dạy của Ngài.  Là một Ki-tô hữu, chúng ta hãy như Đức Giê-su: “tha kẻ dể ta (và) nhịn kẻ mất lòng ta”.

“Một sự nhịn, chín sự lành”. Thế nên, phải tha và nhịn, thưa quý vị. Bởi có như thế chúng ta mới chứng minh rằng, mình đã thực thi lời Đức Giê-su truyền dạy: “anh em hãy nên hoàn thiện”.

Petrus.tran

 

 

Trả lời