Năm C

 
 

LỄ HIỂN LINH NĂM A, B, C
Is 60,1-6 / Ep 3,2-3a. 5-6 /Mt 2,1-12


Như Hạ op : Mùa Sao Sáng

Giacôbê Phạm Văn Phượng op : Truyền giáo

Giacôbê Phạm Văn Phượng op : Chúa tỏ ḿnh

Giacôbê Phạm Văn Phượng op : T́m Chúa -Ánh sao

Đỗ Lực op : Gần Nhà Xa Ngơ

Augustinô Trần Thế Hoàng op : Chúa Hiển Linh - Bổn Phận Tôn Vinh Danh Chúa

Giuse Vũ An Tôn op : Anh em hăy chiếu sáng như những v́ sao giữa đời

Đỗ Lực op : Nhu Cầu Tôn Giáo

Giuse Đỗ Văn Phi op :  Mỗi Tín Hữu Là Một Ánh Sao Dẫn Đường

Lời Chúa và Thánh Thể : Chúng tôi thấy ngôi sao của Người ở phương đông

 


Lm An Hạ op

MÙA SAO SÁNG

Một thế giới, hai bầu trời. Một ánh sao, hai cái nh́n. Ánh sao xưa đă thúc giục các chiêm tinh cất bước lên đường từ những miền xa xôi, hẻo lánh. Cũng ánh sao đó đă đẩy bạo chúa Hêrôđê vào bóng tối lo sợ, phập phồng. Ánh sao xưa có c̣n chiếu ánh sáng vào bóng tối trần gian hôm nay không ?

DƠI THEO ÁNH SAO

Sau bao năm tháng chờ đợi, các chiêm tinh đă thấy rơ niềm hi vọng trong ánh sao lạ trên bầu trời Bêlem. Ánh sao đă dẫn các vị đến thật gần. Bỗng nhiên niềm hi vọng tắt ngúm theo ánh sao băng. Tưởng chừng tất cả hi vọng đều tiêu tan. Sợ chuyến du hành mất mục tiêu, các ông vội vào yết kiến vua Hêrôđê ở Giêrusalem. Tuy là những nhà hiền triết, các ông cũng đơn sơ hỏi cáo già Hêrôđê : "Đức Vua dân Do thái mới sinh, hiện ở đâu ? Chúng tôi đă thấy v́ sao của Người xuất hiên bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người" (Mt 2:2). Có lẽ quá mải miết trong ngành chuyên môn, các ông đă không hề hay biết về t́nh h́nh chính trị quanh triều đại Hêrôđê. Lúc đó không ai ưa thích nhà vua, v́ ông bị coi là kẻ thoán nghịch ngai vua Đavít. Chung quanh ông rất nhiều kẻ thù. Biết đâu những chiêm tinh này không phải là ḍng dơi Do thái đến chào mừng ấu vương có sức qui tụ dân chúng thay đổi cán cân quyền lực Rôma ?

Đứng ngồi không yên v́ một tin động trời do các chiêm tinh mới tung ra, vua Hêrôđê vội "triệu tập tất cả các thượng tế, các kinh sư" (Mt 2:4) để tra cứu Kinh thánh. Cuối cùng mới biết ấu vương sinh ra "tại Bêlem, miền Giuđe"(c.5), quê hương của Jessê, thân phụ Đavít, đúng như lời ngôn sứ Mikha (5:1,3) và 2 Samuel (5:2) đă loan báo. Sấm ngôn của Balaam (Ds 24:17) cũng đá động tới một vị quân vương xuất thân từ ḍng họ Giacóp. Kết quả cuộc tra tầm Thánh kinh đó càng khoét sâu nỗi lo sợ của nhà vua. Dầu thế, ông ra vẻ b́nh tĩnh và thành tâm nói với các nhà chiêm tinh : "Xin quí ngài đi ḍ hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đă t́m thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người" (Mt 2:8).

Nhờ ánh sao, khi t́m thấy Hài Nhi, các nhà chiêm tinh "liền sấp ḿnh bái lạy Người, rồi mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến"(c.10). Khác hẳn với cáo già Hêrôđê, các ông đă thể hiện rơ tấm ḷng sùng mộ thành thực đối với vị Vua tương lai. Vàng để tôn nhận quyền vua. Nhũ hương dành riêng cho Thiên Chúa. Mộc dược đặc biệt dùng trong việc mai táng. Như thế tất cả những báu vật đó đều mang tính biểu tượng nói lên căn tính và sứ mệnh của Đức Kitô (x.The Application Study Bible:1991). Cùng một sự kiện, hai thái độ khác hẳn nhau. Kẻ ở xa hóa ra gần. Người ở gần lại hóa xa. Cả một truyền thống đạo đức và Kinh thánh cũng chẳng giúp ǵ cho kẻ gian manh, độc ác. Chân lư chỉ dành cho những tâm hồn chân thành, dù chẳng có phương tiện nào khác ngoài thiên nhiên.

Thiên Chúa giáng sinh cứu độ muôn dân. Ánh sao của Người đă chiếu khắp vùng trời, chứ không riêng cho người Do thái. Mặc dù tràn ngập ánh sao và có đủ bằng chứng Thánh kinh soi dẫn, họ vẫn không thể đến với Vua trời đất. Đam mê quyền lực và tiền bạc đă nhận ch́m họ trong "bóng tối bao trùm mặt đất" (Is 60:2). Dù trong cảnh "mây mù phủ lấp chư dân"(c.2), các nhà chiêm tinh vẫn t́m được "vinh quang của Đức Chúa như b́nh minh chiếu tỏa"(c.1). Họ đă nghe tiếng thúc giục từ bên trong nội tâm : "Đứng lên, bừng sáng lên ! V́ ánh sáng của ngươi đến rồi"(c.1). Khi đă đạt được tất cả mộng ước, họ đă "loan truyền lời ca tụng ĐỨC CHÚA"(c.6).

ƠN CỨU ĐỘ PHỔ QUÁT

Như thế không ai c̣n có quyền tự hào là dân riêng Chúa nữa. Trong Đức Kitô không c̣n phân biệt lương giáo. Chính "lương tâm là một mạc khải của Thiên Chúa" (Danielou : 1956), đang điều khiển cuộc sống con người. Nhưng nhất là "trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa" (Ep 3:6). Như thế "dân ngoại và Do thái hoàn toàn b́nh đẳng trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa" (Faley:1994).

Nhiều tổ phụ trước Abraham đă là những "vị thánh lương dân" v́ họ đă sống ngay chính trước Thiên Nhan, mặc dù không biết ǵ về Giao Ước Chúa kư kết với Abraham và Môsê (x.Dupuis:1997). "Thư Do thái chứng nhận có thể có đức tin cứu rỗi ngoài và cả trước hệ thống tôn giáo Do thái"(Dupuis:1997). Chính v́ thế ơn cứu độ luôn mang chiều kích phổ quát. Nếu bị đóng khung trong một khuôn khổ văn hóa, tôn giáo, xă hội, chắc chắn ơn cứu độ không phát xuất từ Thiên Chúa.

Bởi thế muốn mang ơn cứu độ tới muôn dân, người môn đệ Chúa Kitô cũng phải có một tầm nh́n như Thiên Chúa, Đấng không hề biết đến bất cứ một thứ giới hạn nào. Hoạt động Thánh Linh bao trùm khắp vũ trụ. Chẳng lẽ trái đất nhỏ xíu không đủ cho ánh sáng Người lan tỏa khắp nơi sao ? Theo Công đồng Vatican II, "Giáo hội Công giáo không hề phủ nhận nhũng ǵ là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo. Những phương thức hành động và lối sống, những huấn giới và giáo thuyết đó cũng thường đem lại ánh sáng của Chân lư, Chân Lư chiếu soi cho hết mọi người"(NA 2).

Nếu đă công nhận trong các tôn giáo khác cũng có "những ǵ là chân thật và thánh thiện", Giáo hội phải tôn trọng các giá trị đó. Biết bao giá trị đích thực trong các tôn giáo như Phật giáo, Khổng giáo, Lăo giáo, An giáo v.v. Tới nay, "Giáo hội giữ một niềm kính phục sâu xa nhất đối với các truyền thống này và t́m cách đối thoại chân t́nh với những người theo những tôn giáo đó"(ĐGH Gioan Phaolô II :1999).

Nếu không được chuẩn bị trong nền văn hóa Việt Nam nhuần nhuyễn đạo lư Khổng Phật, thử hỏi dân tộc chúng ta có sẵn sàng đón nhận Tin Mừng như thế không ? Hạt giống Tin Mừng như được gieo vào miền đất màu mỡ, được cầy bừa kỹ càng từ cả ngàn năm trước. Những đức tính bẩm sinh của dân tộc như "tinh thần bao dung tôn giáo và sống chung ḥa b́nh" (ĐGH Gioan Phaolô II :1999) rất cần thiết để đón nhận Tin Mừng vào ḷng văn hóa dân tộc. Càng ngày đạo càng thấm sâu vào sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, xă hội v.v. Chẳng hạn các đóng góp của các văn nghệ sĩ, các giáo chức, các cán sự y tế, xă hội Công giáo đang lăn xả vào mọi ngành sinh hoạt để xây dựng quê hương. Thơ nhạc ngày càng thấm nhiễm tinh thần Tin Mừng. Không biết ai đă bắt đầu gọi ngày đầu tuần là Chúa Nhật. Có lẽ đó là một Kitô hữu thuộc ḷng câu truyện tạo dựng trời đất trong Sáng Thế Kư. Nói ǵ chăng nữa, không ai có thể chối căi vai tṛ Thiên Chúa giáo trong việc sáng lập chữ Quốc Ngữ.

Nếu không có tính phổ quát, làm sao Tin Mừng có thể thấm sâu vào văn hóa dân tộc đến thế ? Tin Mừng đang gieo niềm hi vọng mănh liệt vào tâm hồn mọi người đầu thế kỷ 21. Chúng ta đă là người của thế kỷ 21 với mộng ước mang Chúa Kitô đến cho quê hương. Không ai có thể thay thế được Người v́ Người là vị Cứu Chúa độc nhất. Nơi Người "dân chúng tại Á Châu gặp được câu trả lời cho tất cả những vấn nạn sâu sắc nhất của họ, hi vọng của họ được hoàn thành, nhân phẩm của họ được nâng cao và sự ngă ḷng của họ được vượt thắng" (ĐGH Gioan Phaolô II :1999).


Lm Giacôbê Phạm Văn Phượng op

Truyền giáo (Mt 2,1-12)

Trước đây chúng ta quen gọi lễ hôm nay là lễ Ba Vua. Các ông ấy có phải là vua không ? Không phải, họ chỉ là những nhà quư phái thuộc về hoàng tộc, v́ nếu họ là vua th́ không lư ǵ mà vua Hê-rô-đê lại không biết đến xuất xứ của họ. Đàng khác, nếu họ là vua th́ không thể ra đi âm thầm như vậy, mà phải có tiền hô hậu hét với nhiều người hộ tống và với lễ nghi ngoại giao đàng hoàng. Một lư do nữa chứng tỏ họ không phải là vua, đó là căn cứ vào nghề nghiệp của họ, là nghề thiên văn. Ở vào thời đó chỉ có các nhà quư tộc mới ưa thích và chuyên về thiên văn. Tóm lại, họ chỉ là các đạo sĩ, học rộng, hiểu biết nhiều về chiêm tinh, nên có thể gọi họ là những nhà chiêm tinh như thuật lại trong Tin Mừng.

Một điều nữa, có ba ông hay nhiều hơn ? Tại Xy-ri và Ác-mê-ni, người ta nói có 12 ông, chúng ta thường kể có ba ông, hoặc là căn cứ vào ba sắc dân được nói đến trong sách ngôn sứ I-sai-a, hoặc là v́ lễ vật tiến dâng có ba thứ là vàng, mộc dược và nhũ hương. Nhưng theo chuyện kể, họ đă gây ảnh hưởng xôn xao cho cả thành Giê-ru-sa-lem, th́ có lẽ đông hơn số ba. Tin Mừng chỉ nói “có mấy nhà chiêm tinh”, tức là ở số nhiều, chứ không nói rơ bao nhiêu. Đến thế kỷ IX, người ta coi như quả quyết có ba ông và đặt tên cho một ông là Gát-pa, đại diện cho dân da vàng, một ông là Ban-tha-sa, đại diện cho dân da đen, một ông là Men-ki-o, đại diện cho dân da trắng. Nhưng điều quan trọng không phải là xác định họ là vua hay không phải là vua, có ba ông hay nhiều hơn, mà chính là hăy nh́n họ như h́nh ảnh sống động của tất cả những ai trong đời đă có một ḷng khao khát chân thành t́m kiếm Thiên Chúa, khởi đi từ những thiện hảo tốt lành, nghĩa là họ là dân ngoại, từ xa xôi, không biết Kinh Thánh, nhưng lại chân thành và sẵn sàng vượt qua những chặng đường gian khổ để t́m gặp Chúa, trong khi đó dân Do Thái ở gần, hiểu biết Kinh Thánh, lại không mảy may kiếm t́m.

Mặc dầu cách gọi Ba Vua vẫn giữ nguyên giá trị cổ kính, nhưng ngày nay phụng vụ sử dụng tên gọi Hiển Linh để làm nổi bật ư định mầu nhiệm chung nhất của Thiên Chúa trong mùa Giáng Sinh, đó là Ngài muốn tỏ ḿnh ra cho tất cả mọi người, mọi thời, bất luận họ là ai và ở đâu, miễn là họ biết chân thành kiếm t́m Ngài. V́ thế, đây không chỉ là một biến cố của ngày đă qua mà c̣n là một sứ điệp của ngày hôm nay và cho những ngày sẽ tới, Chúa vẫn tỏ ḿnh, nhưng vấn đề là người ta có thiện chí đến gặp Ngài không.

Thực vậy, Hiển Linh có nghĩa là Thiên Chúa tỏ ḿnh ra, cụ thể ở đây Chúa tỏ ḿnh ra cho các dân tộc ngoài Do Thái. Đúng vậy, Thiên Chúa không chỉ tỏ ḿnh cho dân Do Thái, Ngài c̣n tỏ ḿnh cho các dân tộc khác, v́ Ngài muốn cứu độ mọi người chẳng trừ ai. Đối với các nhà chiêm tinh phương Đông là đại diện cho dân ngoại, Ngài đă dùng một ngôi sao lạ để mời họ lên đường đi gặp Đấng Cứu Độ. Họ đă sẵn sàng mang theo lễ vật lên đường theo ánh sao để đi t́m Chúa, không quản gian nan vất vả, không ngại đường xa vô định, không sợ phải hy sinh công sức, thời giờ và tiền bạc, không nản chí thất vọng khi gặp trở ngại dọc đường. Chính v́ đầy thiện chí như vậy nên cuối cùng họ đă gặp được Chúa.

Ngày nay, Thiên Chúa vẫn ngỏ lời với những ai chưa biết Ngài bằng nhiều cách khác nhau, Ngài vẫn làm sáng lên muôn ánh sao, không phải ở trên trời cao, nhưng ở trong ḷng người. Ánh sao đó có thể là một lư tưởng, một khát vọng mănh liệt, khát vọng sự thật, tự do, ấm no, hạnh phúc...Ánh sao đưa con người lên đường t́m kiếm, nếu có thiện chí họ sẽ gặp được Chúa.

Đối với chúng ta cũng vậy, dù chúng ta đă gặp Chúa, dù chúng ta đă được rửa tội, dù chúng ta đă gia nhập Giáo hội, chúng ta vẫn c̣n phải đi t́m Chúa, cuộc đời chúng ta luôn là một cuộc lên đường theo ánh sao, và Chúa vẫn luôn gửi tới chúng ta nhiều dấu chỉ như những ánh sao để chỉ dẫn cho chúng ta. Ánh sao đó có thể là những biến cố vui buồn của cuộc sống, có thể là những người sống quanh chúng ta, có thể là một lời dạy dỗ, nhủ khuyên, có thể là một gương sáng chúng ta được nghe, được thấy. Nhưng muốn nh́n những điều tốt đẹp đó như ánh sao của Chúa, chúng ta phải chuẩn bị tâm hồn như những thửa đất đă cày bừa dọn sạch gai góc, sỏi đá, sẵn sàng đón nhận hạt giống tốt. Phải biết t́m hiểu ư Chúa nơi mỗi biến cố trong cuộc sống và cố gắng thực hiện những gợi ư Chúa gửi tới.

Đàng khác, chúng ta vừa là người đi t́m kiếm vừa là ánh sao cho người khác đi t́m Chúa. Đúng vậy, mỗi Kitô hữu luôn phải là một ánh sao : lời nói, việc làm, cách xử thế của mỗi người phải nên gương mẫu cho bạn bè, cho người c̣n xa cách Chúa. Một nụ vười, một ánh mắt, một lời khích lệ, một sự cảm thông, chia sẻ, giúp đỡ… là những ánh sao đưa anh em về với Chúa. Như vậy, lễ Hiển Linh cũng nhắc nhở chúng ta về việc truyền giáo.

Xưa kia, Thiên Chúa đă tỏ ḿnh ra cho các nhà chiêm tinh bằng ánh sao lạ, chính nhờ ánh sao ấy các ông đă đi t́m và gặp thấy Chúa Giêsu giáng sinh để thờ lạy. Từ đó Thiên Chúa vẫn tiếp tục tỏ ḿnh ra cho nhân loại để con người nhận biết sự thật và đón nhận sự sống. Cũng như ngày xưa, Thiên Chúa đă mời gọi các ngôn sứ cộng tác, cũng như Đức Kitô đă mời gọi các môn đệ cộng tác, ngày nay Ngài cũng mời gọi chúng ta cộng tác vào công cuộc cao cả ấy. Vẫn cần có những ánh sao để chỉ đường dẫn lối cho những người khác gặp thấy Chúa. Người Kitô hữu được mời gọi trở thành những ánh sao cho những người chung quanh ngay trong cuộc sống b́nh thường hằng ngày của ḿnh, để trong sinh hoạt b́nh thường ấy, người ta có thể gặp được những tín hiệu dẫn đưa đến Thiên Chúa, đó là ánh sao của cho đi, của quên ḿnh, của bác ái, của phục vụ… những ánh sao đó có sức tỏa sáng giúp ngưới ta nhận ra Thiên Chúa, nhận ra t́nh thương của Ngài.


Giacôbê Phạm Văn Phượng op

Chúa tỏ ḿnh
(Mt 2,1-12)

Trước đây chúng ta gọi ngày lễ hôm nay là lễ Ba Vua, đây là cách gọi quen thuộc đối với giáo dân Việt Nam để nói về việc các nhà chiêm tinh phương Đông t́m đến Bê-lem viếng Chúa Hài Đồng. Gọi là vua v́ họ mặc phẩm phục như các vị đế vương, và xác định là ba người, v́ có ba sắc dân được nói đến trong sách ngôn sứ I-sai-a, mà cũng v́ lễ vật tiến dâng có ba thứ rơ ràng là vàng, nhũ hương và mộc dược như Tin Mừng thuật lại. Cứ thế, theo truyền thống, Ba Vua trở nên tên gọi cho ngày lễ.

Nhưng điều quan trọng không phải là xác định họ là vua hay không phải là vua, họ có ba vị hay bao nhiêu vị, mà chính là hăy nh́n họ như h́nh ảnh sống động của tất cả những ai trong đời đă có một ḷng khao khát chân thành t́m kiếm Thiên Chúa khởi đi từ những thiện hảo tốt lành, nghĩa là họ là dân ngoại từ xa, không biết Kinh Thánh, nhưng lại chân thành và sẵn sàng vượt qua những chặng đường gian khổ để t́m gặp Chúa, trong khi đó dân Do Thái ở gần, hiểu biết Kinh Thánh, lại không mảy may kiếm t́m.

Mặc dầu tên gọi Ba Vua vẫn giữ nguyên giá trị cổ kính, nhưng ngày nay Phụng vụ sử dụng tên gọi Hiển Linh để làm nổi bật ư định mầu nhiệm chung nhất của Thiên Chúa trong Mùa Giáng Sinh, đó là Ngài muốn tỏ ḿnh ra cho tất cả mọi người, mọi thời, bất luận họ là ai và ở đâu, miễn là họ biết chân thành kiếm t́m Ngài. V́ thế, đây không chỉ là một biến cố của ngày đă qua mà c̣n là một sứ điệp của ngày hôm nay và cho những ngày sẽ tới, Chúa vẫn tỏ ḿnh, nhưng vấn đề là người ta có thiện chí đến gặp Ngài không.

Trong một tập truyện ngụ ngôn xuất bản gần đây, một linh mục đă tưởng tượng ra một câu chuyện như sau : có một người đạo đức kia ước ao được xem thấy Chúa trước khi chết, ngày ngày bà ăn chay, cầu nguyện để ước nguyện này được Chúa nhận lời. Thế là một đêm nọ trong một giấc mơ, bà được Chúa cho biết sẽ đến thăm bà, suốt ngày hôm sau, bà quét dọn và trang hoàng nhà cửa để đón rước Chúa, thế nhưng bà chờ măi mà không thấy Chúa đến.

Trong đêm kế tiếp, có tiếng Chúa hỏi : tại sao bà không tiếp đón Ngài ? Người đàn bà trả lời bà đă chờ đợi Chúa ở cửa trước. Chúa cho bà biết Chúa đă chờ đợi ở cửa sau. Ngày hôm sau, người đàn bà lại chờ đợi Chúa ở cửa sau, nhưng bà vẫn không thấy bóng dáng Chúa. Đêm đến lại có tiếng Chúa hỏi tại sao bà không đón tiếp Chúa, bởi v́ Ngài đến qua các cửa sổ. Suốt ngày hôm sau, người đàn bà hết ra cửa trước lại về cửa sau và nh́n qua các cửa sổ, nhưng bà cũng không hề thấy tăm hơi của Chúa. Đêm đến, bà lại nghe có tiếng nói của Chúa, và lần này Chúa bảo bà hăy t́m Ngài bên giếng sau nhà. Cũng thế, người đàn bà đă chạy ra bờ giếng, nhưng cũng không thấy Chúa đâu. Không c̣n đủ kiên nhẫn nữa, bà đă trách Chúa tại sao lại chơi tṛ cút bắt với bà. Bấy giờ Chúa mới nói : “Nếu con định đón rước Ta ở một nơi nào đó th́ măi măi sẽ không bao giờ thấy Ta ở đâu cả, thay v́ t́m kiếm khắp nơi, con hăy mở mắt tâm hồn và con sẽ thấy Ta”.

Đêm đó, người đàn bà không c̣n nghe thấy tiếng Chúa nữa, nhưng chung quanh ḿnh, bà chỉ thấy bóng đêm dầy đặc, nhưng chính lúc đó, khi con mắt tâm hồn bà đă được mở rộng, bà đă nh́n thấy Chúa ở khắp mọi nơi. Đúng vậy, chúng ta chỉ có thể thấy Chúa bằng con mắt tâm hồn mà thôi, nếu tâm hồn chúng ta rộng mở, nếu tâm hồn chúng ta trong sạch, nghĩa là không bị ngăn chặn bởi bất cứ bức tường nào của dục vọng, của đam mê, ích kỷ, tiền bạc…th́ chúng ta có thể thấy Chúa ngay cả trong mỗi người chúng ta gặp gỡ.

Xưa kia Thiên Chúa đă tỏ ḿnh ra cho ba nhà chiêm tinh bằng ánh sao lạ, chính nhờ ánh sao này, các ông đă đi t́m và đă gặp được Chúa Giêsu giáng sinh để thờ lạy. Từ đó Thiên Chúa vẫn tiếp tục tỏ ḿnh ra cho nhân loại để con người nhận biết sự thật và đón nhận sự sống. Cũng như ngày xưa Thiên Chúa đă mời gọi các ngôn sứ cộng tác, cũng như Chúa Giêsu đă mời gọi các môn đệ cộng tác, ngày nay Ngài cũng mời gọi chúng ta cộng tác vào công cuộc cao cả ấy, vẫn cần có những ánh sao để chỉ đường dẫn lối cho những người khác gặp thấy Chúa. Người Kitô hữu được mời gọi trở thành ánh sao cho những người chung quanh ngay trong cuộc sống b́nh thường hằng ngày của ḿnh, để trong sinh hoạt b́nh thường ấy, người ta có thể gặp được những tín hiệu dẫn đưa đến Thiên Chúa, đó là ánh sao của cho đi, của quên ḿnh, của bác ái, của phục vụ…những ánh sao đó có sức tỏa sáng, giúp người ta nhận ra Thiên Chúa, nhận ra t́nh thương của Ngài.


Giacôbê Phạm Văn Phượng op

T́m Chúa -Ánh sao
(Mt 2,1-12)

Trước đây chúng ta gọi ngày lễ hôm nay là lễ Ba Vua, đây là tên gọi quen thuộc đối với giáo dân Việt Nam để nói về việc các nhà chiêm tinh phương Đông t́m đến hang đá Bê-lem kính viếng, thờ lạy Chúa Hài Đồng. Gọi là vua v́ thấy họ mặc phẩm phục như các vị đế vương, và xác định là có ba vị, v́ có ba sắc dân được nói đến trong sách ngôn sứ I-sai-a, mà cũng v́ lễ vật tiến dâng có ba thứ là vàng, mộc dược, và nhũ hương.

Nhưng điều quan trọng không phải là xác định họ là vua hay không phải là vua, họ có ba người hay có thể có nhiều hơn nữa, mà chính là hăy nh́n họ như h́nh ảnh sống động của tất cả những ai trong đời đă có một ḷng khao khát chân thành t́m kiếm Thiên Chúa, khởi đi từ những thiện hảo tốt lành. V́ thế, ngày nay phụng vụ sử dụng tên gọi “Hiển Linh” để làm nổi bật ư định mầu nhiệm chung nhất của Thiên Chúa trong mầu nhiệm Giáng Sinh, đó là Ngài muốn tỏ ḿnh ra cho tất cả mọi người, mọi thời đại, bất luận họ là ai và ở đâu, miễn là họ biết chân thành kiếm t́m Ngài. V́ thế, đây không chỉ là một biến cố của ngày đă qua, mà c̣n là một sứ điệp của ngày hôm nay và cho những ngày sẽ tới, đó là Thiên Chúa vẫn tỏ ḿnh ra, nhưng vấn đề là người ta có thiện chí đến gặp Ngài không.

Trở lại bài Tin Mừng, chúng ta thấy với một dấu hiệu không rơ rệt, không chắc chắn, không đầy đủ là ngôi sao lạ, thế mà các nhà chiêm tinh đă nhất định ra đi t́m “vua mới”, đúng là “trên vạn nẻo đường”, biết bắt đầu đi về đâu ? Thực là “đáy biển ṃ kim”, và thực là một cuộc phiêu lưu nguy hiểm.

Nhưng bất chấp tất cả mọi nguy hiểm, mọi khó khăn, các ông kiên quyết dơi theo ánh sao thực hiện ḷng tin của ḿnh, cuối cùng các ông cũng t́m đến nơi, các ông không gặp thấy một trẻ sơ sinh nằm trong nhung lụa mà chỉ thấy một hài nhi nằm trong máng cỏ. Các ông đi t́m vua Do Thái mà lại chỉ gặp một hài nhi nghèo khó. Nhưng không v́ thế mà các ông thất vọng, ngược lại, các ông vẫn tin, và ḷng tin đó được biểu lộ một cách cụ thể bằng việc phủ phục xuống một cách khiêm tốn để thờ lạy và dâng lễ vật.

Câu chuyện các nhà chiêm tinh đi t́m kiếm Chúa vẫn luôn luôn hợp thời và có giá trị cho mọi người, bởi v́ cuộc đời chúng ta ở trần gian luôn phải đi t́m kiếm Chúa và sống vai tṛ “ngôi sao dẫn lối” cho người khác. Đó là hai điều chúng ta cần ghi nhớ hôm nay. Qua đoạn Tin Mừng, có thể nói có ba hạng người đối với việc t́m Chúa : hạng thứ nhất, là các nhà chiêm tinh, là những người tuy chưa biết Chúa, nhưng khi vừa nhận được một tia sáng đă vội vă đi t́m. Hạng thứ hai là các tư tế, những người Pha-ri-sêu và kinh sư, họ là những người thông thạo Kinh Thánh, biết rất nhiều về Chúa, đến nỗi có thể chỉ đường chính xác cho kẻ khác t́m gặp Chúa ở Bê-lem, nhưng chính họ lại không đi t́m. Hạng thứ ba là vua Hê-rô-đê và những người thuộc hạ, khi được các nhà chiêm tinh cho biết Chúa sinh ra, họ không những không vui mừng mà c̣n bày mưu tính kế để sát hại Ngài, do ḷng gian ác thúc đẩy. Ngày nay, trong xă hội, chúng ta thấy vẫn luôn có ba hạng người trên : có những người chân thành t́m kiếm để thờ phượng Chúa, những người khác lại dửng dưng với đức tin tôn giáo, và thậm chí có những người c̣n thù ghét và t́m cách tiêu diệt Chúa.

Riêng đối với chúng ta, dù chúng ta đă gặp Chúa, dù chúng ta đă được rửa tội, dù chúng ta đă gia nhập Giáo Hội, chúng ta vẫn c̣n phải đi t́m Chúa, chúng ta có thể t́m thấy Chúa ở đâu ? Trong một tập truyện ngụ ngôn xuất bản gần đây, một linh mục đă tưởng tượng ra một câu chuyện như sau :

Có một người đàn bà đạo đức kia ước ao được xem thấy Chúa trước khi chết, ngày ngày bà ăn chay cầu nguyện để điều ước mong này được Chúa nhận lời. Thế là một đêm nọ trong một giấc mơ, bà được Chúa cho biết Chúa sẽ đến thăm bà. Suốt ngày hôm sau, bà quét dọn và trang hoàng nhà cửa để đón rước Chúa, nhưng bà chờ măi mà không thấy Chúa đến.

Trong đêm kế tiếp, có tiếng Chúa nói : tại sao bà không tiếp đón Ngài ? Người đàn bà thưa bà đă chờ đợi Chúa suốt đêm ngay ở cửa trước. Chúa cho bà biết Chúa đă chờ đợi ở cửa sau. Ngày hôm sau, người đàn bà lại chờ đợi Chúa ở cửa sau, nhưng bà vẫn không thấy bóng dáng Chúa. Đêm đến lại có tiếng Chúa nói tại sao bà không đón tiếp Chúa ? bởi v́ Ngài đến qua ngă cửa sổ. Suốt ngày hôm sau, người đàn bà hết ra cửa trước, lại về cửa sau và nh́n qua các cửa sổ, nhưng bà cũng chẳng thấy Chúa. Đêm đến, bà cũng lại nghe có tiếng Chúa nói, và lần này Chúa bảo bà hăy t́m kiếm Ngài ở bờ giếng sau nhà. Cũng thế, người đàn bà ngồi đợi Chúa ở bờ giếng suốt ngày, nhưng cũng không thấy Chúa đâu. không c̣n đủ kiên nhẫn nữa, bà trách Chúa tại sao lại chơi cút bắt với bà. Bấy giờ Chúa mới nói : “Nếu con định t́m kiếm và tiếp đón Ta ở một nơi nào đó, th́ măi măi sẽ không bao giờ thấy Ta ở đâu cả. Thay v́ t́m kiếm khắp nơi, con hăy mở mắt tâm hồn và con sẽ thấy Ta”.

Đêm đó, người đàn bà không c̣n nghe thấy tiếng Chúa nói ǵ nữa, chung quanh bà chỉ thấy bóng đêm dầy đặc, nhưng chính lúc đó, khi con mắt tâm hồn bà đă được mở rộng, bà đă nhận thấy Chúa ở khắp mọi nơi.

Đúng vậy, chúng ta chỉ có thể thấy Chúa bằng con mắt tâm hồn mà thôi. Nếu tâm hồn chúng ta rộng mở, nếu tâm hồn chúng ta trong sạch, nghĩa là không bị ngăn cản bởi bất cứ bức tường nào của dục vọng, của đam mê, ích kỷ, của tiền bạc, của lạc thú, th́ chúng ta có thể thấy Chúa ngay cả trong mỗi người.

Xưa kia, Thiên Chúa đă tỏ ḿnh ra cho ba người chiêm tinh bằng ánh sao lạ, chính nhờ ánh sao này, các ông đă đi t́m và đă gặp thấy Chúa Giêsu giáng sinh để thờ lạy. Từ đó Thiên Chúa vẫn tiếp tục tỏ ḿnh ra cho nhân loại để con người nhận biết sự thật và đón nhận sự sống. Cũng như ngày xưa, Thiên Chúa đă mời gọi các ngôn sứ cộng tác, cũng như Đức Kitô đă mời gọi các môn đệ cộng tác, ngày nay, Ngài cũng mời gọi chúng ta cộng tác vào công cuộc cao cả này, bởi v́ vẫn cần có những ánh sao để chỉ đường dẫn lối cho những người khác gặp thấy Chúa. Mỗi người Kitô được mời gọi trở thành ánh sao cho những người chung quanh ngay trong cuộc sống b́nh thường hằng ngày, đó là ánh sao của cho đi, của quên ḿnh, của bác ái, của phục vụ, hoặc một nụ cười, một ánh mắt, một lời hỏi thăm, một lời khích lệ, một sự cảm thông, chia sẻ, giúp đỡ… đó là những ánh sao đưa anh em về với Chúa, những ánh sao đó có sức tỏa sáng, giúp anh em nhận ra Chúa và nhận ra t́nh yêu thương của Ngài.


Đỗ Lực 07.01.2007

GẦN NHÀ XA NGƠ
(Mt 2:1-12)

 Sau kỳ Đại Hội Truyền Giáo Châu Á lần I tại Chiang Mai, Thái Lan, tháng 10, 2006, có lẽ các Giáo Hội Á Châu đang gia tăng những cuộc tiếp xúc với các tôn giáo và văn hóa địa phương để t́m cách đối thoại và học hỏi. Tương lai sẽ rộ lên một phong trào nhập thể văn hóa. Ánh sáng sẽ lóe lên trong đêm trường Á châu chăng ? Những cuộc trao đổi rất hữu ích, v́ trong các tôn giáo đó cũng có những hoạt động của Chúa Thánh Thần. Thật vậy, theo Công đồng Vatican II, “Giáo hội Công giáo không hề phủ nhận nhũng ǵ là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo. Những phương thức hành động và lối sống, những huấn giới và giáo thuyết đó cũng thường đem lại ánh sáng của Chân lư, Chân Lư chiếu soi cho hết mọi người”(NA 2).

Phải chăng đó là một cuộc t́m kiếm ngược chiều với các đạo sĩ hôm xưa ? Ngày xưa, các đạo sĩ đă từ nơi xa đến t́m Vua vũ trụ mới sinh tại Bêlem. Nhờ ánh sáng thiên nhiên, các ông đă t́m đến tận đỉnh cao của mọi ước vọng, đó là Đấng Cứu Độ muôn dân. Các ông xuất hiện như những con người thiện chí và ngay thẳng. Đó là những con người sẵn sàng lên đường t́m kiếm.

Khi không c̣n t́m thấy sự trợ giúp nơi thiên nhiên, họ đă t́m đến gơ cửa nhà vua. Cánh cửa đă mở ra. Những trang sách vội vàng xác định phương hướng. Nhưng ḷng người vẫn khép kín trước những tin tức bổ ích từ những pho sách. Khi không có thiện chí, dù gần nhà nhưng vẫn xa ngơ. Ngay cả khi đầy đủ phương tiện nhất, người ta vẫn ngần ngại lên đường. Óc phán đoán bị tê liệt. Những sai lầm, ngu đần, cố chấp, tàn bạo từ đó mọc lên. Theo thánh Thomas, khi muốn phạt một xă hội nào, Thiên Chúa để bọn người ngu dốt cai trị xă hội đó. Có lẽ điều đó đúng cả ngoài đời lẫn trong đạo.

Các chiêm tinh gia là những nhà lănh đạo tài ba, những tư tế được kính trọng, các nhà thiên văn và bói toán đại tài. Dưới quyền lănh đạo của họ, có lẽ dân chúng sống rất hạnh phúc. Nhưng khi bỏ lại tất cả để đi t́m Ấu Chúa nơi một chân trời vô định, họ c̣n khôn ngoan không ? Theo tiêu chuẩn tự nhiên, ai cũng đánh giá họ là những người dại dột khi lên đường phiêu lưu như thế. Nhưng cũng như ông Abraham, họ không biết ḿnh đi đâu, nhưng biết rơ ḿnh đang đi theo tiếng gọi lương tâm.

Bước chân họ khua vang như nói lên chiều kích phổ quát của ơn cứu độ. Chúa có thể t́m thấy thân hữu nơi những con người bất ngờ. Sau này, ai ngờ Chúa tuyển mộ các môn đệ từ những ngư dân thất học ? Tin Mừng dành cho người nghèo ? Người ngoại trở thành những tấm gương bác ái ? Như thế, phải chăng Chúa đă tự đồng hóa với những người kém may mắn cả về của cải vật chất lẫn tinh thần ? Phải chăng có thể t́m thấy Chúa nơi cả người nghèo và ngoại giáo ? Nhiều khi không biết chúng ta đem Chúa đến cho dân ngoại hay ngược lại ? Thật khó biết được sự thật !

Sự thật hôm nay được phơi bày qua những lễ vật các nhà chiêm tinh kính dâng Ấu Chúa. Trong xă hội Do thái, nhất là trong hoàng cung, thiếu ǵ những thứ như vàng, nhũ hương và mộc dược ? Nhưng những đó vẫn nằm bất động trong một xó góc vắng tanh trong các chiếc ḥm cồng kềnh. Khi được trưng bày, các báu vật đó cũng chỉ để khoe khoang hay tăng thêm vẻ kiêu hănh của con người. Trái lại, những thứ báu vật đó đă mang một ư nghĩa rất lớn trong tay các chiêm tinh gia khi họ cung kính “dâng tiến” mà “thờ lạy”(Mt 2:11) Thiên Chúa làm người. Họ thật khiêm tốn, hy sinh, và khôn ngoan.

Dù có cả một đoàn cố vấn khôn ngoan và tài giỏi vây quanh, vua Hêrôđê cũng không thể có một thái độ khôn ngoan như thế. Dù cả lực lượng quân sự hùng hậu, ông cũng không thể biểu dương được sức mạnh. Bằng chứng, ông không t́m nổi các chiêm tinh gia và không giết được Ấu Chúa để thực thi ư đồ tàn bạo và thâm độc. Đúng là, “mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên.” Kinh thánh cũng dạy : “Chúa đối xử tốt lành với những người thiện hảo. Nhưng với kẻ gian hùng, Chúa lại dùng mưu.” Chỉ cần một ánh sao và một chút mộng báo, Chúa đă vô hiệu hóa những mưu đồ thâm độc và sức mạnh thế quyền.

Sự hiện diện và cung cách của các nhà chiêm tinh cho thấy ơn cứu độ dành cho muôn dân. Ngay từ thời thơ ấu, Chúa Giêsu đă mạc khải Nước Trời là gia nghiệp chung cho mọi người. Lời hứa cứu độ không dành riêng cho dân tộc nào. Như vậy, không có biên giới nào trong Nước Chúa. Không có nam nữ, giàu nghèo, giỏi dốt, sang hèn. Không chỉ thấy người tốt trong hàng ngũ những người có đạo hay địa vị. Bất cứ đâu cũng có thể kiếm thấy các thân hữu của Chúa.

Từ lúc c̣n ẵm ngửa, Chúa đă trở thành điểm quy tụ muôn dân. Chúa mời gọi những người từ xa đến. Xa cả về không gian lẫn văn hóa, tôn giáo. Các nhà chiêm tinh là những tâm hồn chân thực và sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa mời gọi tận thâm tâm. Các ông đi t́m Ấu Chúa để thờ lạy, chứ không đi t́m người tài vào làm việc trong cung. Họ đă xác định rơ được địa vị cao cả của Ấu Chúa, vượt xa mọi bậc thánh hiền trên đời. Bởi thế, họ đă đích thân đi t́m. Họ đi t́m sự thật, chứ không t́m địa vị hay thế lực như vua Hêrôđê. T́m t́nh thương, ḥa b́nh, nên họ đă thấy an b́nh thư thái nơi Chúa. Thiên Chúa đến nơi đây để chạm tới mút cùng trái đất và mọi biên giới vũ trụ.

Chúa Giêsu là Mặt Trời Công Chính. Mặt Trời chiếu sáng khắp vũ trụ và tới mọi người. Dĩ nhiên, vẫn c̣n những nơi ẩn khuất và những con người chạy trốn Mặt Trời. Nhưng không phải v́ thế mà có thể nói Mặt Trời chỉ chiếu soi cho nhiều người, chứ không cho mọi người. Cũng thế, để cho mọi người được hưởng ơn cứu độ, Chúa đă chết đi. Máu Chúa đổ ra cho mọi người, chứ không phải cho một số hay nhiều người. Nói ngược lại là vô t́nh phủ nhận sức mạnh của ơn cứu độ và giới hạn tính phổ quát của hồng ân cứu rỗi.

Lạy Chúa, xin giúp con dơi bước theo ánh sáng ngôi sao là lương tâm để con t́m ra Chúa mà thờ lạy như các nhà chiêm tinh. Xin làm cho ánh sáng ấy bừng lên trong tâm hồn các nhà lănh đạo trong Giáo hội và xă hội Việt nam hôm nay. Amen.


Augustino Trần Thế Hoàng op

Chúa Hiển Linh : Bổn Phận Tôn Vinh Danh Chúa

Các nhà chiêm tinh đích thực là những người dân ngoại. Họ không phải là con dân được tuyển chọn của Ítraen. Nhờ sự hiểu biết của ḿnh, các ông đă nhận ra ánh sao là lời mời gọi của Vị Vua cao cả vừa ra đời. Không quản ngại khó khăn gian khổ trước mắt, các ông đă lên đường đi theo ánh sao. Những lúc ánh sao ẩn khuất là những lúc các ông lần ṃ trong đêm tối. Dựa vào lư trí các ông đă đến vua Hêrôdê để hỏi thăm vị vua mới sinh ra. Sau khi ḍ hỏi cặn kẽ, vua Hêrôđê đă phái các ông đi Belem và khi t́m thấy Hài Nhi th́ báo lại cho vua, để vua cũng đến bái lạy Người.

Các ông ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho các ông đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. Trông thấy ngôi sao, các ông mừng rỡ vô cùng. Các ông không ngạc nhiên khi ngôi sao dẫn các ông đến một nơi hẻo lánh của một ngôi làng ở Bêlem và dừng lại trên một ngôi nhà đơn sơ bé nhỏ. Ngược lại, niềm vui hân hoan của các ông đă dâng trào khi thấy Hài Nhi. Các ông liền sấp ḿnh bái lạy Người rồi mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể

Hiển linh là việc Chúa tỏ ḿnh ra cho nhân loại. Xưa kia Người đă hiện diện trên trái đất này. Các đạo sĩ là những người đầu tiên tin vào ánh sao là tiếng mời gọi của Chúa. Các ông đến và bái lạy Ngài. Đấng mà các ông thờ lạy cũng chính là Ngài đang hiện diện nơi đây trong nhà tạm, nơi Mặt Nhật này. Nhưng lạy Chúa, có lẽ chúng con là những người không nhận ra sự hiện diện rất đỗi gần gũi của Ngài. Ngài không thể hiện ḿnh cách hào nhoáng trong vinh quang. Ngài cũng không bộc lộ cách minh nhiên đến mức buộc chúng con phải tin. Ngài ẩn thân trong tấm bánh nhỏ, để rồi len vào và ngự trong tâm hồn những ai đón nhận Ngài với ḷng tin yêu cảm mến.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể

Được ơn riêng, ba nhà đạo sĩ đă nhận ra Hài Nhi Giêsu c̣n măng sữa là Đấng cao cả đáng để các ông bái lạy muôn đời. Xin cho chúng con cũng nhận ra Chúa trong những sự kiện b́nh thường xảy ra trong cuộc sống. Xin khơi dậy nguồn sáng nội tâm ở nơi mỗi người chúng con để chúng con t́m thấy Chúa trong những ngày tẻ nhạt, hay những ngày gặp khốn đốn, lo toan, vất vả của chuỗi ngày mệt nhọc trong công việc làm ăn, học hành, nghiên cứu…

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể

Các nhà đạo sĩ đă vượt chặng đường xa để được bái lạy Ngài. Các ông đă dâng vàng, nhũ hương, mộc dược để tôn vinh danh Ngài. Xin cho chúng con biết dâng lên Ngài tấm ḷng yếu đuối và tội lỗi để được Ngài chữa lành. Xin cho chúng con được nhận ra Chúa đang hiện diện trong bí tích Thánh Thể để tỏ ḷng tôn sùng thờ lạy Ngài và thánh danh Ngài đến muôn thuở muôn đời. Amen.


Giuse Vũ An Tôn op

Anh em hăy chiếu sáng như những v́ sao giữa đời
(Mt 2,1-12)

Thiên Chúa yêu thương và muốn cứu độ hết thảy mọi người. Người không ngừng tự mạc khải chính ḿnh cho con người qua những dấu chỉ tự nhiên của trời đất, qua từng biến cố lịch sử, qua lời Người trong Kinh Thánh và đặc biệt qua Người con là Đức Giêsu Kitô, Đấng trung gian và viên măn của mạc khải (X. GLHTCG 50-53; 65-66; 73). Ngay khi vừa giáng trần, Chúa Giêsu đă bày tỏ Ơn Cứu Độ cho muôn dân, mà đại diện là ba nhà chiêm tinh đến từ phương đông được Tin Mừng tường thuật hôm nay.

Đặt ḿnh trước Thánh Thể Chúa Giêsu trong ngày đầu năm mới này, chúng ta cùng nhau nh́n lại lối sống đạo của chúng ta trong thời gian qua, và nguyện xin Chúa cho đời sống chúng ta được thấm đẫm Lời Chúa, để Chúa được hiển linh trong và qua cuộc đời của chúng ta.

Nhờ kinh nghiệm nghiên cứu về sự chuyển động của các v́ sao, các nhà chiêm tinh đă thấy ánh sao lạ và nhận ra sự xuất hiện của Đấng Cứu Độ, Vua dân Do Thái. Các ngài hăm hở lên đường t́m kiếm. Hành tŕnh ấy không mấy suôn sẻ, có lúc ngôi sao dẫn đường biến mất, nhưng với ḷng tin và sự quyết tâm, các ngài đă t́m đến tận nơi vị vua mới sinh ra để bái lạy và dâng lễ vật.

Nh́n lại chặng đường ba nhà chiêm tinh đă đi, để nhận thấy rằng, con đường ấy cũng chính là hành tŕnh cuộc sống của chúng ta ; hành tŕnh có thể đưa chúng ta đến cuộc gặp gỡ thú vị và ngạc nhiên : đó là cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa với loài người. Trong cuộc đời của mỗi chúng ta luôn có những ánh sao, khi âm thầm, lúc mănh liệt, hướng dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa. Đó là Kinh Thánh, là Giáo lư, là anh chị em, là những biến cố trong cuộc sống,... Tuy nhiên, liệu chúng ta có can đảm và đủ tin tưởng vào sự hướng dẫn của Thiên Chúa để thực hiện một cuộc khám phá thiêng liêng đầy mạo hiểm như các nhà chiêm tinh xưa không ?

Hơn nữa, nhờ ánh sao dẫn đường, các nhà chiêm tinh đă đến được tận nơi Hài Nhi sinh hạ. Là Kitô hữu, mỗi chúng ta c̣n được mời gọi, được thúc bách nên ánh sao chỉ đường cho những người chưa nhận biết Chúa bằng nhiều cách thức khác nhau.

Nếu ánh sao xưa là phương tiện dẫn ba nhà chiêm tinh đến với Chúa, th́ nay, nhờ Tin Mừng, lối sống của chúng ta cần toả sáng để nối dài ánh sao năm xưa. Có thể chúng ta không có khả năng rao giảng bằng lời, nhưng luôn có cả cuộc đời để sống yêu thương, cảm thông, tha thứ, chia sẻ, ủi an hay phục vụ. Thực vậy, một học sinh chăm ngoan ở trường, một công nhân viên gương mẫu chuyên cần trong công việc, một gia đ́nh đạo hạnh sống hoà thuận trong khu phố,... chẳng phải là muối cho đời, là ánh sáng cho trần gian đó sao ? (X. Mt 5,13-14)

Nếu như xưa kia các nhà chiêm tinh đă sử dụng khả năng và kiến thức của ḿnh để t́m đến Chân Lư, th́ nay, chúng ta cũng cần tận dụng mọi khả năng Chúa ban để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân.

Nếu trước kia các nhà chiêm tinh vẫn tiếp tục hành tŕnh cả khi các ngài không c̣n thấy ngôi sao lạ dẫn đường, không t́m đâu ra phương hướng để đi, th́ những lúc cuộc đời tràn đầy u tối và những lúc tưởng chừng như không biết sẽ về đâu, chúng ta cũng cần bền chí và tín thác vào Thiên Chúa, để mỗi lúc càng tiến sâu hơn vào mầu nhiệm t́nh yêu của Người.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xưa Chúa đă cho ánh sao lạ dẫn đường đưa ba nhà chiêm tinh t́m gặp Chúa, nay xin Chúa soi ḷng mở trí chúng con, giúp chúng con đọc ra được ư nghĩa của những ánh sao trong cuộc sống. Xin thêm ḷng can đảm và nghị lực, để từ đó chúng con hân hoan cất bước ra đi và đem lại cho cuộc sống, cho đời ḿnh một sinh lực mới.

Xin Chúa hăy chiếu sáng qua chúng con,
để những người chúng con tiếp xúc
cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.

Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,
không phải bằng lời nói suông,
nhưng bằng cuộc sống chứng tá,
và bằng trái tim tràn đầy t́nh yêu của Chúa. Amen.
(Mẹ Têrêxa Calcutta)


Đỗ Lực op

Nhu Cầu Tôn Giáo
(Mt 2:1-12)

Tới nay, mọi người đều kinh ngạc trước thông tin sau đây về t́nh trạng tôn giáo tại Việt Nam. “Cuối năm 2005, các cộng đoàn công giáo tại Sơn La đă chính thức đệ đơn lên các cấp chính quyền, đăng kư được phép sinh hoạt công khai theo như Pháp lệnh đă qui định. Cũng trong giai đoạn này, nhiều lần Toà Giám mục Hưng Hoá đă gửi công văn tới Chính quyền Sơn La “đề nghị cho các linh mục lên làm việc mục vụ tại Sơn La” , nhưng đều bị Chính quyền Sơn La từ chối với một lư do lăng nhách : “Sơn La không có nhu cầu tôn giáo.” (1)

Nếu chỉ là mảnh đất vô tri trên miền thượng du Bắc Việt, Sơn La không có nhu cầu tôn giáo, đúng như chính quyền quả quyết. Nhưng chính quyền có phải là tập hợp những cục đất vô tri không ? Nếu là những cục đất vô tri, làm sao chính quyền có thể đại diện những con người trên mảnh đất ấy để quả quyết : “Sơn La không có nhu cầu tôn giáo’ ? Chẳng lẽ tôn giáo là một sản phẩm địa phương nào đó dân chúng Sơn La không quen tiêu thụ ? C̣n nếu tôn giáo là một đặc tính xác định bản chất con người, chính quyền Sơn La có gồm những con người không ?

Ngay từ thời xa xưa, từ những miền đất rất xa lạ, các nhà chiêm tinh cũng thấy có nhu cầu tôn giáo. Nếu không, họ đă không đến thờ lạy Chúa Hài Nhi. Có lẽ Hêrôđê cũng không thấy nhu cầu tôn giáo, nên dù ở rất gần, ông cũng không đến làm một nghi lễ như họ. Trái lại, ông c̣n t́m cách giết Hài Nhi, để đề pḥng hậu họa. Chỉ mới nghe các nhà chiêm tinh nhắc đến “Đức Vua dân Do thái,” ông đă bất an và có những mưu đồ đen tối. Trong khi đó, các nhà chiêm tinh phải bỏ nhà cửa và phong tục, vượt qua bao nhiêu hiểm nguy, dơi ánh sao lên đường t́m kiếm để tỏ một thái độ tôn giáo trước Hài Nhi. Tại sao có t́nh cảnh trái ngược đó? Như thế mới rơ nhu cầu tôn giáo vượt qua mọi biên giới và trở thành của toàn thể nhân loại. Nhu cầu này c̣n vượt qua những án lệnh của nhà vua. Nhà vua bảo các nhà chiêm tinh quay lại để báo cáo t́nh h́nh, họ đi về quê nhà luôn.

LÊN ĐƯỜNG

Từ những miền xa lạ, v́ nhu cầu tôn giáo thúc đẩy, ba nhà chiêm tinh đă lên đường theo ánh sao lạ. Họ đi t́m thờ lạy Hài Nhi Giêsu. Họ chỉ tin tưởng vào thiên nhiên. Không Kinh thánh. Không truyền thống đạo đức như Do thái. Nhưng chính Thiên Chúa đă mạc khải cho họ qua những phương tiện thích hợp trong tôn giáo của họ. Nhờ ngôi sao thiên mệnh, họ có thể học biết về ngày sinh của Chúa Giêsu và t́m đường đến với Người.

Nhưng khi họ gần tới nơi, đă lọt vào lănh địa của người Do thái, ngôi sao biến mất. Một sự kiện nhỏ nhoi, nhưng lại làm xáo trộn chương tŕnh của họ. Bao nhiêu mộng ước tan tành trong giây phút. Gần tới mục tiêu th́ mọi sự đều xoay chiều. Thế là họ ghé vào cung điện nhà vua t́m câu giải đáp. Dĩ nhiên khi thấy các nhà chiêm tinh, tức những người trí thức đến với ḿnh, vua Hêrôđê rất vui mừng. Khi nghe báo tin về “Vua dân Do Thái” mới sinh, tuy trong bụng xốn xang, nhà vua vẫn lịch sự mở tiệc khoản đăi họ để có thời giờ tra cứu và lên kế hoạch. Vua ra lệnh các nhà trí thức Do thái tra cứu Kinh Thánh Họ chỉ xác định được địa điểm Ấu Chúa sinh ra, chứ không biết ǵ về thời gian.

Thế là, nhà vua phải khéo léo hỏi các nhà chiêm tinh về “ngày giờ ngôi sao đă xuất hiện.” (Mt 2:7) Như thế cũng chưa nắm chắc. Chẳng lẽ bây giờ lại sai quân lính đi theo họ ? Làm thế, sợ họ sẽ cho ḿnh là bất lịch sự. Nghĩ thế, nên nhà vua lại t́m cách dặn ḍ để mong đón nhận được thông tin đầy đủ và chính xác. Ông đă khéo léo che dấu ư đồ hiểm độc bằng một câu nói đạo đức : “Xin quư ngài đi ḍ hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đă t́m thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người." (Mt 2:8) Bái lạy Người hay giết Người để củng cố ngai vàng? Lịch sử đă phơi bày tất cả sự thật.

Nhà vua đă không ngăn cản hành vi tôn giáo của các nhà chiêm tinh. Nhưng ông hiểm độc hơn nhiều. Ông diệt tận gốc, chứ không trừ ngọn. Giết Thiên Chúa hay hủy diệt ḷng tin của các tín hữu vẫn là giấc mơ ngàn đời của các bạo chúa.

Nhưng làm sao hủy diệt ḷng tin ? Dù sống ở một nơi xa xăm và phải vượt qua nhiều nguy hiểm, các nhà chiêm tinh vẫn không ngại lên đường. Họ đến như những người dân ngoại. Họ thờ phượng Chúa Giêsu như những người dân ngoại. Họ trở về quê nhà vẫn như những dân ngoại. Họ không cải đạo thành các tín hữu Do thái hay Kitô giáo. Thiên Chúa chấp nhận ḷng tin và việc thờ phượng của họ. Thiên Chúa hướng dẫn họ trên đường về quê nhà qua giấc mơ. Điều này chứng tỏ Thiên Chúa có liên hệ với dân chúng trong các tôn giáo khác, ngoài Do thái và Kitô giáo.

Bởi đó, khi lên đường cũng như lúc về quê nhà, họ luôn được b́nh an trên những nẻo đường Chúa hướng dẫn. Dù có trải qua đêm đen hay lang thang qua những miền đất lạ, tâm hồn họ vẫn không bối rối như vua Hêrôđê và hay xôn xao như dân thành Giêrusalem (Mt 2:3). Ông và dân thành chỉ nghĩ đến những quyền lợi vật chất. Các nhà chiêm tinh cũng chỉ thấy một sao lạ báo hiệu về “Đức Vua dân Do thái,” chứ không có Kinh Thánh để thấy sâu xa hơn. Nếu có Kinh Thánh, hẳn các ông đă đọc sách Dân Số chương 24 để hiểu sâu xa hơn ư nghĩa lời Thiên Chúa qua lời sấm Balaam:

“Sấm ngôn của người nghe các lời Thiên Chúa,
và biết những tư tưởng của Đấng Tối Cao,
được Đấng Toàn Năng cho nh́n linh thị,
của người ngủ mà mắt vẫn mở trong lúc xuất thần.
Tôi thấy nó, nhưng bây giờ chưa phải lúc,
tôi nh́n, nhưng chưa thấy nó kề bên;
một v́ sao xuất hiện từ Gia-cóp,
một vương trượng trỗi dậy từ Ít-ra-en
sẽ đập vào màng tang Mô-áp, đánh vỡ sọ tất cả con cái Sết,
và xâm chiếm Ê-đôm,
cả Xê-ia cũng bị xâm chiếm nữa.
Ít-ra-en sẽ biểu dương sức mạnh,
Gia-cóp sẽ thống trị quân thù,
và tiêu diệt kẻ trốn khỏi thành phố." (Ds 24:16-19)

Như thế, ngôi sao biểu thị Vị Vua, Đấng nắm vương trượng. Dĩ nhiên, đối với chúng ta, lời sấm đó có một ư nghĩa lớn hơn điều đă nói trong Cựu ước về vương triều Đavít và việc chiến thắng những kẻ thù quốc gia của người Do thái. Vua Do Thái hôm nay các nhà chiêm tinh đến tôn thờ là Vua các Vua, Vua mọi dân mọi nước, Vua đem Tin Mừng chinh phục cả thế giới.

Hơn nữa, “một vương trượng trỗi dậy từ Ít-ra-en” không phải để chinh phục mọi dân tộc cho Israel thống trị, nhưng chịu nộp mạng vào tay vương quốc hùng mạnh nhất. Đó là vương triều đă nổi lên để giải thoát tất cả chúng ta khỏi ách thống trị của bất cứ vua chúa trần gian nào.

Sau cùng, những ư nghĩa sâu xa hơn của ngôi sao phương đông c̣n thấy trong biểu tượng truyền thống do các món quà của các nhà chiêm tinh mang tới : vàng tuyên dương Đức Kitô là Vua. Nhũ hương tượng trưng Chúa Kitô là Thương Tế. Mộc dược nói lên Chúa Kitô là Hy Lễ. Hài Nhi đă “sinh ra để làm Vua,” Vua sẽ cai trị cả thế giới từ cây thập giá.

Như thế, “các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.”(Ep 3:6) Chúa Giêsu Kitô đă đem một chân lư phổ quát và tối cao vào lịch sử nhân loại. Người đă làm cho trái tim con người không bao giờ nghỉ yên. Từ đó họ luôn sống trong tinh thần liên kết với con cái Abraham, làm thành một dân Israel duy nhất của Thiên Chúa. Nhờ truyền thống đó, mới thấy các ṇi giống, dân tộc và ngôn ngữ quy tụ quanh một Cứu Chúa duy nhất. Quả thật, Thiên Chúa “muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lư.”(1 Tm 2:4)

Khi các nhà chiêm tinh đến thờ lạy Chúa là thời đại cuối cùng đă bắt đầu. Cũng như họ, mỗi người chúng ta được kêu gọi nhận biết Chúa là “tận điểm của lịch sử nhân loại, điểm quy tụ những ước vọng của lịch sử và các nền văn minh, trung tâm điểm của nhân loại, niềm vui của mọi con tim và sự hoàn thành mọi ước vọng. Quả quyết như thế, không phải là đặt dấu chấm hết cho các cá nhân và các dân tộc, nhưng là loan truyền cho họ Tin Mừng : bên kia những giới hạn hữu h́nh của Giáo hội, Chúa Kitô không ngừng tác động đến tận con tim mỗi người bằng ân sủng vô h́nh.

Như thế, vương quốc Thiên Chúa không xâm lấn nhưng thăng hoa những thực tại trần gian. Khi sinh ra, Hài Nhi không ngừng đem lại cho nhân loại ân sủng để mọi người có thể sống hiệp thông và phục vụ lẫn nhau mà sống trong b́nh an và hạnh phúc. Những ai có ḷng tin, đều phải lên đường như các nhà chiêm tinh, theo ánh sao là lương tâm hằng chiếu sáng trong tâm hồn. Như thế, tôn giáo là một nhu cầu xuất phát từ bản chất và tận thâm tâm con người, chứ không do xă hội hay truyền thống sắp đặt.

TỰ DO TÔN GIÁO

Tôn giáo là một nhu cầu bức thiết của con người. Chỉ có con vật mới không có nhu cầu tôn giáo. Đúng hơn, thay v́ quả quyết “Sơn La không có nhu cầu tôn giáo,” nhà nước phải nói : “Sơn La không có quyền tự do tôn giáo.” Không phải Sơn La mà thôi, nhưng c̣n bao nhiêu nơi khác đang bị tước đoạt quyền tự do tôn giáo.

Tự do tôn giáo là quyền tối thượng của con người. Khi quyền làm người không được tôn trọng, làm ǵ c̣n quyền theo tôn giáo ? Thật vậy, “tự do sống theo lương tâm và theo tôn giáo liên quan tới con người về phương diện cá nhân cũng như xă hội. Quyền tự do tôn giáo phải được nh́n nhận theo pháp lư và phê chuẩn như một quyền dân sự. Tuy nhiên, tự bản chất đó không phải là một quyền vô giới hạn. Những giới hạn chính đáng cho việc thi hành quyền tự do tôn giáo phải được quy định một cách thận trọng trong mỗi hoàn cảnh xă hội chính trị, theo những đ̣i hỏi công ích và được chính quyền phê chuẩn qua các luật pháp phù hợp với trật tự luân lư khách quan. Cần có những luật lệ đó v́ nhu cầu bảo vệ hữu hiệu quyền của mọi công dân và giải quyết những tranh chấp quyền lợi một cách ôn ḥa, đồng thời v́ nhu cầu thích đáng trong việc ǵn giữ ḥa b́nh nơi công cộng, để con người sống chung với nhau trong một trật tự tốt đẹp và một nền công lư thực sự. Sau cùng, cần phải có luật lệ ấy v́ phải đặc biệt ǵn giữ nếp sống đạo đức của quần chúng.” (2) Nhà nước không thể tùy tiện đặt những giới hạn quyền tự do tôn giáo, bất chấp những tiêu chuẩn công lư và đạo đức khách quan.

Sở dĩ chính quyền Sơn La có thể ăn nói trơ trẽn như thế, v́ quyền tự do tôn giáo chỉ được phê chuẩn trên bản văn hiến pháp, chứ chưa có bộ luật tôn giáo. Thực tế, tùy địa phương, quyền đó sẽ được ban ra như một ân huệ nhỏ giọt. Nơi nào có tai mắt quốc tế, th́ người ta tŕnh diễn màn tự do tôn giáo tối đa. C̣n những nơi xa xôi như Sơn La, địa phương xử theo luật rừng. Không có một định chế pháp lư về tôn giáo, không thể buộc họ tôn trọng công ích và trật tự luân lư khách quan. Càng không thể đ̣i hỏi có việc xét xử theo công lư, khi chẳng có một cơ quan độc lập để xét xử những vi phạm nhân quyền.

Bao giờ mới có sự nh́n nhận “Giáo hội có quyền đ̣i hỏi phải được pháp luật thừa nhận có bản sắc đặc thù” ? (3) Theo công tâm, nhà cầm quyền phải hiểu rằng “hiển nhiên v́ có sứ mệnh đối với toàn thể nhân loại, đồng thời biết ḿnh thực sự liên kết với loài người và lịch sử nhân loại một cách sâu xa, nên Giáo hội có quyền đ̣i hỏi quyền tự do phán quyết về mặt đạo đức các thực tại nhân loại, bất cứ khi nào cần bảo vệ những quyền căn bản của con người hay công cuộc cứu rỗi các linh hồn.” (4)

Không cần phải có niềm tin mới thấy được quyền tự do tôn giáo. Nếu luật đ̣i người khác tôn trọng quyền tự do không theo một tôn giáo nào, th́ luật cũng không được quyền ngăn cản và phủ nhận quyền tự do tôn giáo. Chỉ những ai khăng khăng bảo vệ ư kiến và quyền lợi riêng, mới “cả vú lấp miệng em” hay “lấy thịt đè người” mà thôi. Những người nắm quyền sợ rằng khi được nh́n nhận như một thực thể có quyền riêng, tôn giáo sẽ lấn sang những lănh vực dân sự và đ̣i hỏi nhân quyền cho dân chúng nữa.

Dù bị ngăn cản tới đâu “Giáo hội vẫn kiếm t́m : tự do ngôn luận, giảng dạy và truyền giáo ; tự do thờ phượng công khai ; tự do tổ chức và điều hành nội bộ riêng; tự do tuyển chọn, giáo dục, bổ nhiệm và chuyển đổi các thừa tác viên ; tự do xây dựng các cơ sở tôn giáo ; tự do sở hữu và thu tích các của cải đầy đủ cho các hoạt động ; và tự do thiết lập các hội đoàn không phải chỉ cho các mục đích tôn giáo, nhưng cho các mục đích giáo dục, văn hóa, y tế và bác ái nữa.” (5) Tất cả những thứ tự do đó đều nằm trong quyền làm người. Một nhà nước biết điều phải tôn trọng những quyền cơ bản đó, mới mong nở mày nở mặt với thiên hạ.

Khi không tôn trọng quyền tự do của người khác, chính ḿnh cũng mất tự do luôn. Cả người bị tù và kẻ canh tù cũng đều ở trong tù. Hăy mở khóa cho tù nhân ra ngoài, để ḿnh khỏi phải chôn thân nơi chốn ngục tù nữa !

ÁNH SÁNG BỪNG LÊN

Khi bị tước đoạt nhân quyền, tự do tôn giáo biến mất. Nếu bạo chúa Hêrôđê giết được Hài Nhi Giêsu, dù các nhà chiêm tinh có loan tin và cổ động dân chúng, họ cũng chẳng c̣n ǵ để thờ lạy nữa. Như thế, Hêrôđê trù dập tự do tôn giáo tận nguồn cội. Nhưng người tính không bằng Trời tính. Những con người theo lẽ phải bao giờ cũng t́m được lối thoát. Các nhà chiêm tinh không ngờ đă gặp một con cáo già. Nhờ được báo mộng, họ mới thấy tất cả bộ mặt thật của nó. Họ đă không trở lại gặp và làm theo ḷng dạ nham hiểm của con người tàn ác đó. Nhờ thế, Hài Nhi Giêsu vẫn c̣n sống. Cuối cùng, kẻ sát nhân phải chết, mặc dù đă t́m mọi cách để giết Hài Nhi. Những kẻ muốn tước đoạt mạng sống con người, cuối cùng cũng chẳng giữ đươc ǵ cho ḿnh.

Nh́n vào quê hương hôm nay, chúng ta cũng thấy một cảnh tương tự. Hêrôđê vẫn c̣n đó. Những chiêm tinh gia có lẽ không biết đến mưu thâm chước độc của Hêrôđê ! Tất cả âm mưu chỉ nhằm củng cố ngai vàng. Nếu họ theo đường cũ trở lại gặp Hêrôđê, việc ǵ sẽ xảy ra ? Biết bao nhà chiêm tinh thời đại đă theo đường ṃn để giúp Hêrôđê thực hiện mưu đồ bán Chúa và giết Chúa. Bởi đó, mới có cảnh ngăn cấm con người thờ phượng Thiên Chúa nơi các miền cao nguyên.

Ngay giữa ḷng thủ đô Hà Nội, biểu tượng của Ṭa Thánh Vatican tại Việt Nam, khu Ṭa Khâm Sứ là tài sản của Giáo hội Công giáo Việt Nam đă bị chiếm dụng một cách bất công gần nửa thế kỉ. Theo Đức TGM Ngô Quang Kiệt : “Từ nhiều năm nay, Ṭa Tổng Giám mục và Hội đồng Giám mục đă nhiều lần đệ đơn lên Chính quyền các cấp xin giao lại Ṭa Khâm sứ để Giáo hội có đủ phương tiện cần thiết cho những họat động tôn giáo tối thiểu. Đề nghị chính đáng của tôn giáo chưa được đáp ứng, trong khi đó Quận Ḥan Kiếm lại dùng Ṭa Khâm sứ để kinh doanh buôn bán. Trước đây đă bán phở, nay lại mở ngân hàng. Và ngày 13-12-2007 vừa qua thêm kinh doanh giữ xe với quang cảnh thật hỗn độn.” (6)

Rơ ràng biểu tượng Ṭa Thánh đă bị những kẻ vô thần biến thành nơi dung tục. Thử hỏi công lư ở đâu ? Niềm tin có được tôn trọng trong một chế độ vẫn rêu rao về tự do tôn giáo ?

Thời gian không thể kéo dài lâu hơn. “Ngày 20.12.2007, khoảng 5,000 người vừa đi vừa hát lời Kinh Ḥa B́nh tiến ra khu đất Ṭa Khâm Sứ cạnh Ṭa giám mục. Hôm nay th́ tượng Đức Mẹ Sầu Bi đă được rước ra đặt trước Ṭa Khâm Sứ.” (7) Đó là điểm son của GHVN cuối năm 2007. Hà Nội đúng là thủ đô của ḷng tin Việt Nam.

Tại sao giáo dân Giáo phận Hà Nội dám biểu dương sức mạnh lớn như thế ? Đức TGM Ngô Quang Kiệt giải thích: “Sự trưởng thành đích thực của người giáo dân Hà Nội nói riêng, qua đó, hàng giáo dân Công giáo VN nói chung, là ở chỗ đó là những con nguời giáo dân có ư thức và trách nhiệm cao. Ư thức về ḷng yêu chuộng công lư và bênh vực công lư; ư thức về quyền lợi chung, quan tâm đến ích chung của Giáo Hội… Tập thể giáo dân Hà Nội như thế c̣n là một tập thể của ư thức công lư và dân chủ, nhân quyền. Những năm tháng im ĺm và chịu đựng của người dân VN đă qua rồi, đă đến lúc ánh sáng văn minh dân chủ, đến lúc ư thức tự do và trách nhiệm của một chủ thể đă đạt đến sự trưởng thành. Đối với người Kitô hữu, tất cả đó là bởi v́ họ ư thức về phẩm giá của nhân vị con người, đựoc tạo dựng theo h́nh ảnh của Thiên Chúa. Chính nơi cùng ḷng của Ba Ngôi Thiên Chúa mà “tiến tŕnh dân chủ” đă h́nh thành: Sự duy nhất trong khác biệt.” (8)

Tóm lại, nhu cầu tôn giáo nằm sâu trong bản tính con người. Chỉ cần một ánh sao, các nhà chiêm tinh đă hiên ngang lên đường t́m đến thờ lạy Hài Nhi, bất chấp mọi gian nguy trên đường và sự nham hiểm của ḷng người. Nhưng nếu không có ḷng tin, dù sống ngay tại miền đất Chúa sinh ra, con người vẫn không thể hưởng được hồng ân do t́nh yêu Thiên Chúa.

Lạy Chúa, xin cho ánh sáng bừng lên trong tâm hồn và cuộc đời chúng con. Xin cho dân tộc con sớm hưởng quyền tự do tôn giáo để Nước Chúa ngày càng tốt đẹp hơn. Amen.

đỗ lực 06.01.2008

--------

1. http://www.vietcatholic.net/News/Html/50602.htm

2. Toát Yếu Học Thuyết Xă Hội của Giáo Hội, 422.

3. ibid.

4. ibid.

5. ibid., 426.

6. http://vietcatholic.net/News/Html/49931.htm

7. Ibid.

8. http://www.vietcatholic.net/News/Html/50628.htm


Giuse Đỗ Văn Phi OP

Mỗi Tín Hữu Là Một Ánh Sao Dẫn Đường
(Mt 2,1-12)

Tŕnh thuật Tin Mừng theo thánh Mátthêu hôm nay cho chúng ta biết : -lem là nơi Hài Nhi Giêsu đă cất tiếng khóc chào đời, thời vua Hêrôđê trị v́. Như thế, thánh Mátthêu đă gián tiếp khẳng định: Đức Giêsu là người của lịch sử, cách riêng Ngài là người của lịch sử dân tộc Do-thái – dân riêng của Thiên Chúa.

Chính Đức Giêsu là con người chiếu sáng cho cả quá khứ và đem lại ư nghĩa cho cả gịng lịch sử dân Chúa. Chính Ngài sẽ căn cứ vào lịch sử quá khứ dân tộc ḿnh để từng bước nhận ra được ư nghĩa sứ mạng của ḿnh và cách thức hoàn thành sứ mạng ấy.

Sau khi xác định nơi chôn nhau cắt rốn của Đấng Cứu Thế, thánh Mátthêu tiếp tục kể lại biến cố các đạo sĩ phương Đông tới bái lạy Hài Nhi Giêsu. Đó là những nhà chiêm tinh, có thể họ đă đọc được dấu lạ do thấy ánh sáng của hành tinh sao mộc và sao thổ lồng vào nhau. Hay nói một cách đơn giản: lời loan báo về ngôi sao phát xuất từ nhà Gia-cóp đă được ứng nghiệm với biến cố sinh ra của Đức Giêsu là vị cứu tinh. (x. Ds 24,17)

Nhưng điều được nhấn mạnh trong bài Tin Mừng hôm nay là dân ngoại mà các đạo sĩ là người đại diện, đă đến bái lạy Hài Nhi Giêsu. Trái ngược với sự hăng say nhiệt thành của các đạo sĩ phương Đông là sự bàng quan của các nhà lănh tụ đạo và đời tại thành thánh Giêrusalem, họ không hề nhúc nhích. Riêng vua Hêrôđê có nói đến việc vua sẽ đến bái lạy Hài Nhi mới sinh, nhưng thực ra ông ta chỉ muốn đến để mưu sát Ngài mà thôi.

Các nhà chiêm tinh là dân ngoại. Họ đại diện cho mọi dân tộc, cho chính chúng ta. Họ khao khát t́m ơn cứu độ. Qua những dấu chỉ kỳ diệu hay đơn sơ trong vũ trụ, họ nghe thấy lời mời gọi lên đường. Chấp nhận lên đường là chấp nhận bỏ lại tất cả và sẵn sàng bước đi trong đêm tối. Các nhà chiêm tinh không dựa vào điều ǵ khác ngoài ánh sao khi tỏ khi mờ. Cần có đức tin cứng cáp mới dám dựa vào một dấu chỉ mong manh như thế. Cũng cần có đức tin mạnh mẽ lắm mới dám tin rằng vị vua mới sinh đang khiêm tốn sống trong một hang ḅ lừa ở Bêlem, chứ không uy nghi ngự giữa hoàng cung lộng lẫy. Cần có một đức tin khiêm tốn biết chừng nào mới có thái độ sấp ḿnh bái lạy trước Hài Nhi, và tiến dâng lễ vật quư giá.

Thiên Chúa vẫn không ngừng lôi kéo cả nhân loại đến với Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Ngài vẫn không ngừng cho những ánh sao dẫn đường. Không phải là ánh sao trên trời cao, mà là ánh sáng Ngài gieo vào ḷng người. Mỗi người chúng ta phải trung thành với ánh sáng đó, và bước vào cuộc hành tŕnh đức tin đầy mạo hiểm, như các nhà chiêm tinh ngày xưa.

Đôi khi chúng ta có nét giống Hêrôđê, sợ hăi bối rối trước sự xuất hiện của Đấng Cứu Độ. Hăy để Chúa làm lung lay ngai vàng của chúng ta, đưa chúng ta vào sự bấp bênh, mong manh, để rồi cuối cùng chúng ta gặp được sự vững vàng trong Chúa.

*

Cuộc sống ngày hôm nay đặt con người trước nhiều thách đố phải chọn lựa. Thách đố phải sống cho sự công bằng trong một xă hội có quá nhiều bất công. Thách đố phải sống t́nh liên đới và yêu thương trong một xă hội có quá nhiều chiến tranh và hận thù. Chúa Kitô đă đến và chiếu tỏa ánh sáng của Ngài vào thế gian. Ngài mời gọi mỗi người chúng ta hăy bước theo ánh sáng của Ngài, ánh sáng của yêu thương, hoà b́nh và xây dựng.

‘Giáng Sinh’ gợi lại cho chúng ta một biến cố trọng đại : biến cố Ngôi Hai xuống thế làm người. Ngài đến với tất cả mọi người, thuộc mọi quốc gia và ngôn ngữ. Ngài đến để mang lại niềm vui và b́nh an, mạc khải cho con người một vương quốc vĩnh cửu, mời gọi chúng ta bước theo ánh sáng của Ngài, ánh sáng dẫn vào sự sống.

Trong giây phút thinh lặng này, chúng ta hăy để cho ánh sáng của Chúa chiếu tỏa tâm hồn chúng ta, hầu nhận ra Chúa đang hiển linh trong chính cuộc sống của ḿnh.

Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, Chúa đă đến thế gian để con người được sống và sống dồi dào. Xin cho mọi người luôn biết tôn trọng sự sống là ân huệ Chúa ban, để không c̣n cảnh các thai nhi bị từ chối quyền được sinh ra nhưng các em sẽ được sống xứng đáng với nhân phẩm của ḿnh.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con đang sống giữa một thế giới mà nhiều người chưa nhận biết Chúa, nhiều người đang đánh mất niềm tin vào Chúa, sống như thể không có Thiên Chúa. Xin biến đổi cuộc đời chúng con thành ánh sao dẫn đưa những ai đang lầm đường lạc lối trở về với Chúa để họ được sống và sống dồi dào trong t́nh thương của Chúa. Amen.


Lời Chúa và Thánh Thể

Chúng tôi thấy ngôi sao của Người ở phương đông
Mt 2,1 – 12

 Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể !

Hôm nay chúng con mừng lễ Chúa Hiển Linh để kỷ niệm việc Chúa tỏ ḿnh ra cho dân ngoại. Các nhà chiêm tinh là những người đại diện cho mọi dân tộc và cho chính mỗi người chúng con. Họ đă khao khát t́m kiếm ơn cứu độ qua những dấu chỉ kỳ diệu hay đơn sơ trong vũ trụ, các nhà chiêm tinh đă nghe được lời mời gọi lên đường. Chấp nhận lên đường là chấp nhận bỏ lại tất cả và bước đi trong đêm tối, sẵn sàng đi theo sự hướng dẫn từ trời cao. Sự hướng dẫn đó biểu lộ qua một ngôi sao sáng.

Một điều chắc chắn không thể nghi ngờ được là khi quyết định đi theo ngôi sao sáng các ngài đă phải hy sinh rất nhiều : chăn ấm gối êm, bạn bè thân thuộc và nhất là những lời chỉ trích phê b́nh của những người không hiểu được việc làm của các ngài. Các nhà chiêm tinh đă không dựa vào điều ǵ khác ngoài ánh sao khi tỏ khi mờ. Qua đó giúp cho mỗi người chúng con nhận thấy rằng : cần phải có đức tin cứng cáp mới dám dựa vào một dấu chỉ mong manh như vậy. Cần có một đức tin mạnh mẽ lắm mới dám tin rằng vị vua mới sinh ra đang nằm trong máng cỏ ở Bêlem. Cũng cần có một đức tin khiêm tốn biết chừng nào mới có được thái độ sấp ḿnh bái lạy trước một Hài Nhi bé nhỏ để dâng lễ vật cho Người. Sau khi đă gặp được Hài Nhi Giêsu, các đạo sĩ đă đi qua đường khác để trở về xứ sở của ḿnh. V́ cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu đă đổi mới họ, họ đă bỏ con đường đă đi để tiến sang một con đường khác, họ đă trở nên những con người mới.

Lạy Chúa, ngày hôm nay ngôi sao dẫn đường cho chúng con chính là Lời Chúa. Nhờ việc đọc và suy ngẫm Lời Chúa mà chúng con có thể nhận ra Chúa trong cuộc sống. Xin giúp chúng con biết nối gót ba nhà đạo sĩ khi xưa để luôn khao khát và lên đường thực hiện việc t́m kiếm Chúa. Đối với họ, chấp nhận lên đường là chấp nhận một cuộc phiêu lưu. Dấn thân vào một xứ sở lạ, đi nhưng chưa biết chắc địa chỉ ḿnh đến. Chấp nhận lên đường là chấp nhận ngưng công việc làm ăn, bỏ dở nhiều dự định. Hành tŕnh vượt sa mạc mênh mông, khô cằn chắc chắn sẽ gặp bao khó khăn thử thách và có lẽ thử thách lớn nhất đối với họ đó là lúc ngôi sao dẫn đường biến mất. Dầu vậy, họ đă không nản ḷng cứ tiếp tục lên đường và ḷng kiên tŕ đă đưa họ tới đích.

Cuộc đời chúng con nhiều khi cũng gặp phải hoàn cảnh bế tắc như vậy, khi ngôi sao dẫn đường biến mất. Chúng con không biết phải cư xử, giải quyết vấn đề thế nào cho ổn thỏa. Không rơ phải đi theo con đường nào mới là đường Chúa muốn chúng con đi. Trong những giờ phút thử thách ấy, xin cho chúng con đừng nản ḷng thất vọng ! Nhưng biết nói gương các nhà chiêm tinh xưa biết phó thác trong sự quan pḥng của Chúa. Biết chạy đến với các vị chủ chăn trong Giáo Hội và tin rằng : Chúa sẽ kịp thời soi sáng, giúp chúng con biết những việc phải làm cho đẹp ḷng Chúa và mưu ích cho phần rỗi tha nhân.

Xin Chúa cũng giúp chúng con mỗi khi gặp Chúa cũng được biến đổi cuộc sống của ḿnh. Cuộc gặp gỡ với Hài Nhi Giêsu ở Bêlem đă đánh dấu một khúc quanh vừa bất ngờ vừa triệt để. Ba vị đạo sĩ sau khi gặp Chúa đă đi lối khác để trở về xứ sở ḿnh, họ đă chuyển sang một hướng khác và đă sống một cuộc đời mới. Thế nhưng, nh́n lại cuộc sống của ḿnh nhiều khi chúng rước lễ một cách rất thờ ơ và bất cẩn chẳng có một chút chuẩn bị nào. Rước Chúa ngự vào tâm hồn mà chẳng có sự biến đổi nào. Hàng ngày, hàng tuần chúng con vẫn đi lễ, vẫn chầu Thánh Thể Chúa, nhưng khi trở về th́ chúng con chẳng thay đổi chút nào. Vẫn chứng nào tật ấy.

Xin Chúa thứ tha cho chúng con, nhiều khi chúng con cũng giống như các thượng tế và các kinh sư : hiểu biết rất rành rẽ về Kinh Thánh, thấm nhuần lời dạy của Đức Kitô, chỉ cho người khác rất hay về đạo Chúa nhưng chính bản thân ḿnh lại không sống, không thực hành những điều ḿnh dạy, những điều ḿnh biết. Và nhiều khi chúng con mang danh là người Công Giáo nhưng chúng con lại không bằng một “ngôi sao lạ”. Chúng con chẳng biết hướng dẫn người khác đến với Chúa mà tệ hơn lại c̣n cản trở những người khác đến với Chúa. Không cản trở bằng lời nói dèm pha th́ lại bằng chính đời sống bê bối, không gương mẫu. Có đạo mà chẳng sống tốt hơn người ngoại đạo. Chúa Giêsu đă từng khiển trách những người biệt phái và luật sĩ rằng : “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả h́nh ! Các người khoá cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào ! Các người đă không vào, mà những kẻ muốn vào, các người cũng không để họ vào” (Mt 23,13).

Lạy Chúa Giêsu ! Xin cho chúng con biết chiếu sáng Đức Tin bằng những nghĩa cử yêu thương, quên ḿnh và phục vụ tha nhân. Bằng những việc làm gương mẫu trong đời sống hàng ngày như lời thánh Phaolô dạy : "Anh em phải chiếu sáng như những v́ sao trên ṿm trời" (Pl 2,15). Hoặc như lời Chúa phán : "Ánh sáng của anh em phải chiếu giăi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời" (Mt 5,16). Amen