HOME

 
 

THÁNH MARIA ĐỨC MẸ CHÚA TRỜI
Ds 6:22-27 ; Gl 4:4-7; Lc 2:16-21


Đức Gioan Phaolô II : Đức Maria Thân Mẫu Thiên Chúa

Fr. Jude Siciliano, op : Người Nữ Chiêm Niệm Tuyệt Vời

Fr. Jude Siciliano, op : Suy gẫm Thánh Kinh để nghe được tiếng Chúa

Lm Giacôbê Phạm Văn Phượng op : Hồng ân cao quư

Lm. Đỗ Vân Lực, op. : Tuyệt Vời

Lm An-rê Đỗ Xuân Quế op : Đức Maria Mẹ Giáo Hội

Lm. Lâm Phước op : Đức Maria Mẹ Loài Người – Mẹ Chúng Ta

Lm Giuse Nguyễn Cao Luật op : Người Mẹ Thầm Lặng

Trước Thánh Thể : Những Người Chăn Chiên Hối Hả Đến Bêlem

Giuse Đỗ Huy Hoàng op : Xin Thánh Mẫu TC chúc lành cho chúng con

Fr. Jude Siciliano, op : Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa

 

Đức Gioan Phaolô II

Đức Maria Thân Mẫu Thiên Chúa

Ngay từ những thế kỷ đầu tiên, các Kitô hữu đă cầu khẩn Đức Maria dưới tước hiệu “Theotokos”, Đức Mẹ Chúa Trời. Tước hiệu này được công đồng Êphêsô long trọng tuyên bố năm 431. Tín điều này tiên vàn tuyên xưng rằng Đức Kitô chỉ có một ngôi vị duy nhất. Đức Maria, tuy chỉ là mẹ của Đức Kitô xét theo nhân tính, nhưng chức làm mẹ có liên quan đến ngôi vị. Dù sao, khi tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, Hội thánh cũng khẳng định rằng Ngôi Lời đă thực sự trở thành con người, do một bà mẹ sinh ra.
 

1.- Việc chiêm ngắm mầu nhiệm Chúa Cứu Thế giáng sinh đă đưa các tín hữu không những gọi Đức Trinh Nữ rất thánh là Mẹ của Đức Giêsu, mà c̣n nh́n nhận Người là Mẹ của Thiên Chúa .

Chân lư này đă được đào sâu và cảm nhận như là một điều thuộc về gia sản đức tin của Hội thánh ngay từ những thế kỷ đầu tiên của kỷ nguyên Kitô giáo, và công đồng Êphêsô tuyên bố long trọng năm 431.

Trong cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, khi các môn đệ càng ư thức rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa th́ họ cũng càng thâm tín rằng Đức Maria là Theotokos, Mẹ của Thiên Chúa. Tước hiệu này không xuất hiện rơ ràng trong các bản văn Phúc âm, tuy rằng ở đây ta thấy nói tới “Mẹ của Đức Giêsu” và Đức Giêsu là Thiên Chúa (Ga 20,28; xc. 5,18; 10,30.33). Dù sao Đức Maria được giới thiệu như là Mẹ của Đấng Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta (Mt 1,22-23).

Từ thế kỷ III, như có thể suy diễn từ một chứng tá cổ điển, các Kitô hữu ở Ai cập đă hướng tới Đức Maria với lời cầu nguyện như sau:

 “Lạy Đức Mẹ Chúa Trời, Ngài xiết bao thánh thiện,
này chúng con chạy đến t́m nương ẩn nơi Ngài.
Lúc sa ṿng gian khổ, khi gặp cảnh phong trần,
lời con cái nài van, xin Mẹ đừng chê bỏ,
nhưng xin hằng giải thoát, khỏi ngàn nỗi hiểm nguy,
ôi vinh diệu ai b́, Trinh nữ đầy ơn phúc !”
(Bản dịch Giờ Kinh Phụng Vụ
).

Trong chứng tá cổ kính này, lần đầu tiên từ ngữ Theotokos “Đức Mẹ Chúa Trời” đă được sử dụng một cách minh thị.

Trong các huyền thoại của dân ngoại, thường thường có trường hợp một nữ thần được tŕnh bày như là bà mẹ của một vị thần. Chẳng hạn như vị chủ tể Jupiter chúa tể có bà mẹ tên là nữ thần Rea.

Bối cảnh này có lẽ đă giúp cho các Kitô hữu tạo ra tước hiệu “Theotokos”, “Thánh Mẫu” dành cho bà mẹ của Đức Giêsu . Tuy nhiên cần phải nhấn mạnh rằng tước hiệu này chưa hề được sử dụng, nhưng là do các Kitô hữu đặt ra để diễn tả một ḷng tin hoàn toàn khác với thần thoại của dân ngoại: đức tin vào việc thụ thai trinh khiết, trong ḷng Đức Maria, của Đấng vốn là Ngôi Lời hằng hữu của Thiên Chúa.
 

2.- Đầu thế kỷ thứ IV, tước hiệu Théotokos đă trở thành thông dụng bên Đông phương và bên Tây phương. Kinh nguyện cũng như thần học sử dụng thường xuyên tước hiệu này, đă đi vào gia sản đức tin của Hội thánh .

V́ thế người ta hiểu được rằng cả một phong trào chống đối đă nổi lên vào thế kỷ thứ V, khi ông Nestoriô đặt ra nghi vấn về sự hợp thức của danh hiệu “Thân mẫu Chúa Trời”.

Thực vậy, ông ta có khuynh hướng muốn nh́n nhận Đức Maria chỉ là mẹ của con người Giêsu, và ông cho rằng tước hiệu duy nhất phù hợp với đạo lư là “Thân mẫu của Đức Kitô”. Ông Nestoriô đă rơi vào sự sai lầm như vậy bởi v́ ông gặp thấy khó khăn khi chấp nhận một ngôi vị duy nhất của Đức Kitô, và do việc giải thích sai lầm về sự phân biệt giữa nhân tính và thiên tính hiện diện trong Đức Kitô (Xc. GLCG số 466).

 Công đồng Ephêsô (năm 431) đă phi bác thuyết của ông Nestôriô, và khẳng định rằng thiên tính và nhân tính đồng hiện hữu nơi một ngôi vị duy nhất của Chúa Con. Công đồng tuyên bố Đức Maria là Đức Mẹ Chúa Trời.
 

3.- Những khó khăn và vấn nạn do ông Nestôriô nêu lên đă cống hiến cơ hội cho chúng ta suy nghĩ chín chắn, ngơ hầu hiểu biết và giải thích tước hiệu này một cách đứng đắn. Thành ngữ Theotokos, theo nguyên văn có nghĩa là “Kẻ đă sinh ra Thiên Chúa”(Tương đương với Dei Genitrix trong tiếng latinh), thoạt tiên xem ra kỳ dị. Thực vậy, nó gợi lên câu hỏi: làm thế nào một thụ tạo có thể sinh ra Thiên Chúa? Câu trả lời của đức tin Hội thánh th́ đă quá rơ: chức làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria chỉ áp dụng vào việc sinh ra Con Thiên Chúa theo tính loài người mà thôi, chứ không áp dụng vào việc sinh ra bản tính Thiên Chúa. Con Thiên Chúa đă được sinh ra từ thuở đời đời bởi Chúa Cha và đồng bản tính với Chúa Cha. Trong sự sinh ra hằng hữu này, dĩ nhiên là Đức Maria không có vai tṛ nào hết. Tuy nhiên Con Thiên Chúa, cách đây 2000 năm, đă lănh nhận bản tính loài người của chúng ta, và do đó đă được thụ thai và sinh ra bởi Đức Maria .

Khi tuyên xưng Đức Maria là “Đức Mẹ Chúa Trời” Hội thánh muốn khẳng định rằng Đức Maria là “Mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể, Đấng là Thiên Chúa. Do đó chức làm mẹ của Người không áp dụng cho tất cả Ba ngôi Thiên Chúa nhưng chỉ liên can đến Ngôi Hai, tức là Chúa Con Đấng mà khi nhập thể, đă lănh nhận bản tính loài người từ nơi Đức Maria.

Việc làm mẹ là một mối tương quan giữa hai bản vị: một bà mẹ không phải chỉ là mẹ của thân xác hay là của chất thể sinh ra từ ḷng ḿnh, nhưng là mẹ của ngôi vị mà ḿnh sinh ra.

V́ thế, Đức Maria đă sinh ra Đức Giêsu, một bản vị xét về nhân tính mà cũng là một ngôi vị Thiên Chúa, cho nên Người thực sự là Mẹ của Thiên Chúa .

Khi công bố Đức Maria là “Đức Mẹ Chúa Trời”, Hội thánh đă tuyên xưng đức tin về người Con và người Mẹ trong cùng một biểu thức duy nhất. Sự kết hợp này đă được nổi bật ngay tại công đồng Ephêsô: qua việc định tín chức làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, các nghị phụ đă muốn bày tỏ đức tin vào thiên tính của Đức Kitô. Mặc dù đă có nhiều vấn nạn xưa nay được trưng lên để chống lại việc sử dụng tước hiệu Đức Mẹ Chúa Trời, nhưng các Kitô hữu thuộc mọi thời đại, khi giải thích đứng đắn ư nghĩa của chức làm mẹ đó, họ đă t́m thấy một biểu thức đặc biệt để diễn tả niềm tin vào thiên tính của Đức Kitô và của ḷng yêu mến đối với Đức Trinh nữ Maria.

Nơi Đức Theotokos, một đàng Hội thánh bảo đảm rằng việc Nhập thể đă xảy ra thực sự, bởi v́ - như Thánh Augustino đă nói - “giả như bà Mẹ mà giả th́ thân xác của Đức Kitô cũng giả, … những vết thương c̣n mang sau khi Phục sinh cũng giả tuốt” (Tractatus in evangelium Ioannis, 8, 6-7). Đàng khác, Hội thánh sững sờ chiêm ngắm và cung kính cử hành sự cao cả được ban cho Đức Maria bởi Đấng đă muốn làm Con của Người. Tước hiệu “Đức Mẹ Chúa Trời” cũng hướng tới Lời của Thiên Chúa, Đấng mà qua mầu nhiệm Nhập Thể đă mặc lấy sự khiêm tốn của thân phận con người chúng ta, ngơ hầu nâng con người lên hàng nghĩa tử của Thiên Chúa. Ngoài ra, tước hiệu đó, dưới ánh sáng của chức phẩm cao vời dành cho thiếu nữ Nazaret, cũng tuyên dương sự cao quư của phụ nữ và thiên chức của họ. Thực vậy, Thiên Chúa đă đối xử với Đức Maria như là một bản vị tự do và có trách nhiệm, và chỉ có thể thực hiện việc Nhập thể của Con Ngài sau khi nhận được sự thỏa thuận của Đức Maria.

Theo gương các Kitô hữu tại Ai cập thời xưa, các tín hữu kư thác ḿnh cho Người, v́ là Đức Mẹ Chúa Trời, nên có thể xin Con ḿnh cho họ ơn giải thoát khỏi mọi nỗi nguy nan và ơn được cứu rỗi đời đời.


Fr. Jude Siciliano, op.

Người Nữ Chiêm Niệm Tuyệt Vời
(Lc 2, 16-21)

Thưa quí vị.

Hôm nay mùng một tháng giêng dương lịch, Kính lễ Đức Maria Mẹ Chúa Trời. Chúng ta khởi sự năm dương lịch mới với một lễ trọng, kính nhớ ơn Thiên Chúa ban cho nhân loại, tức Đức Maria làm mẹ Thiên Chúa. Cứ theo như thần học th́ ơn này là nguyên lư của mọi ơn khác nơi Đức Mẹ, cũng như ơn Ngôi hiệp nơi Chúa Giêsu vậy. Nhờ ơn Ngôi hiệp mà nhân loại được hưởng mọi ân huệ, mọi lời hứa của Đức Chúa Trời. Th́ nhờ ơn làm mẹ Thiên Chúa mà Đức Maria được các ơn huệ khác, như Vô nhiễm nguyên tội, ơn Trọn đời đồng trinh, ơn Hồn xác lên Trời vv. Cho nên như vừa nói đầu năm là một ơn trọng đại. C̣n chi vui thoả hơn cho linh hồn các tín hữu?

Bài đọc 1 trích sách Dân số viết thế này: “Nguyện Đức Chúa chúc lành và ǵn giữ anh em. Nguyện Đức Chúa Trời tươi mặt nh́n đến anh em, và dủ ḷng thương anh em. Nguyện Đức Chúa ghé mặt nh́n và ban b́nh an cho anh em: Chúc như thế là đặt con cái Israel dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng.” Nguyên văn ở thể thơ, và dĩ nhiên nhịp nhàng, xúc tích hơn văn dịch nhiều. Nó là kết tinh của hơn một ngh́n năm lịch sử Do thái. Cuốn sách chứa đựng các luật lệ xă hội và tôn giáo, điều hành nếp sống của con cháu Abraham trong hết mọi b́nh diện. Phần trích hôm nay thuộc truyền thống cổ xưa nhất. Sau mỗi buổi Phụng vụ các tư tế thường dùng công thức này, tương tự như các linh mục, giáo sĩ ngày nay. Lời chúc phúc được viết bằng văn chương thơ phú để tăng thêm ư nghĩa t́nh cảm tṛn đầy. Đó là thế mạnh của văn vần. Chúng ta dịch sang văn xuôi, th́ ư nghĩa giảm đi một nửa: “Đức Chúa chúc lành cho anh em, gương mặt Ngài chiếu toả trên anh em, Ngài đưa mắt hiền từ nh́n xem anh em.”

Tương tự như các chủ tế ngày nay đọc: “Nguyện xin ơn sủng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, t́nh yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng anh chị em.” Chúng ta tin đó là lời chúc to lớn nhất trong Giáo hội. Th́ cũng vậy lời chúc phúc của bài đọc 1 không chi thiết tha hơn cho dân Do thái. Mặc dù năm Phụng vụ mới bắt đầu từ mùa vọng. Nhưng năm dân sự khởi đầu từ hôm nay. Cho nên chúng ta, trong khi nhớ lại nguồn mạch của mọi ơn lành nơi Đức Maria th́ cũng được nhắc nhớ Thiên Chúa là Đức Chúa Trời của mọi ơn lành cho các tín hữu.

Chúng ta có thể dùng công thức này hôm nay để cầu xin Chúa gột rửa khỏi năo trạng ḿnh những h́nh ảnh ghê sợ về Đức Chúa Trời mà lời giảng, các văn chương lệch lạc gieo rắc vào tâm hồn qua nhiều năm tháng. Chủ yếu Thiên Chúa phải là Thiên Chúa của t́nh yêu, ḷng thương xót và chúc lành. Chúng ta càng ư thức về căn tính này của Đức Chúa, th́ càng tiến bộ trong t́nh yêu mến, cảm tạ và tri ân. Chúng ta càng trở nên khiêm tốn khi lănh nhận các ơn huệ của Đức Chúa Trời. Bởi lẽ mọi sự đều là hồng ân. Kiêu căng là phản bội, không thể chấp nhận được trong đời sống tín hữu. Chúng ta phải loại trừ nó tận gốc rễ, tức tận trong tư tưởng của ḿnh. Thói xấu này rất khó bỏ, nó len lỏi vào cả các hành vi đạo đức và thể hiện dưới muôn vàn trạng thái, ư thức được cũng như không ư thức được.

Muốn bỏ kiêu ngạo, chúng ta phải luôn cảm nhận khuôn mặt của Thiên Chúa chiếu sáng trên ḿnh như bài đọc một chỉ rơ. Khi ấy chúng ta nhận ra thân phận ḿnh và có ḷng nhân từ với kể khác để t́m ra phương hướng đối xử tốt với đồng loại. Ở đây xin nhớ lời Chúa Giêsu dạy bảo trong Phúc âm Luca (6, 27) : “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương ḿnh th́ có ǵ là ân với nghĩa…Nếu anh em làm ơn cho kẻ làm ơn cho ḿnh, th́ c̣n ǵ là ân với nghĩa. Ngay cả kẻ tội lỗi cũng làm như thế.” Vậy chúng ta nên tử tế với mọi người, mặc dù nhiều khi thiên hạ không xứng đáng hoặc họ chưa bao giờ nhận ra một nụ cười thân thiện. Xin lưu ư bài đọc 1 có liên quan trực tiếp tới bài Phúc âm, ở điểm Thiên Chúa của Cựu ước và Tân ước đều là nguồn mạnh phúc lành. Tuy nhiên phúc lành của Tân ước lớn và rơ ràng hơn trong Đức Giêsu Kitô. Phúc lành các mục đồng nhận được qua một tin mừng vĩ đại: “Anh em đừng sợ, này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là niềm vui cho toàn dân.” Mặc dù họ chỉ là những kẻ ngoài lề xă hội, hèn hạ và bất lương. Nhưng họ đă được nghe tin vui, chấp nhân nó, loan truyền cho kẻ khác và trở thành tín hữu nhiệt thành. Phúc âm kể: “Rồi những người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh, ca tụng Thiên Chúa v́ mọi điều họ đă được tai nghe mắt thấy, theo như họ đă được loan báo.” Các mục đồng đă nhanh chóng hành động trong chiều kích của Tin mừng và phúc lành Thiên Chúa ban cho họ. Chúng ta nên noi gương họ hoan hỷ thi hành bổn phận mà Phúc âm trao cho mỗi người khi lănh nhận các Bí tích, nhất là Bí tích thanh tẩy.

Điểm thứ hai chúng ta nên suy nghĩ là các mục đồng nhận được mặc khải và phúc lành ở đâu? Trong đền thánh hay trên cánh đồng, nơi chúng lao động? Câu trả lời thật rơ ràng, nhưng vẫn gây nhiều ngộ nhận. Chúng ta vẫn tưởng tượng đền thánh, nhà thờ là những nơi xứng hợp để xin và nhận các phúc lành. Phúc âm hôm nay không nói như vậy. Các mục đồng nhận được mặc khải Chúa Giáng sinh ở chính nơi họ làm việc, chăm sóc các đoàn chiên. Họ không lao động để nhận được phúc lành ấy, mà chỉ chu toàn bổn phận. Vậy chúng ta muốn được Thiên Chúa chúc lành cũng không thể đi ra ngoài thông lệ là thi hành tốt trách nhiệm của ḿnh. Trách nhiệm mỗi người trong xă hội th́ đă được Thiên Chúa an bài rơ ràng. Người cha, người mẹ, linh mục, thầy tu. Khi làm các phận sự này tốt đẹp là chúng ta góp phần xây dựng xă hội. Câu thành ngữ: “Việc nhà nhếch nhác, việc chú bác th́ siêng năng” phải là câu châm ngôn để cảnh cáo mọi người về bổn phận, không nên pha trộn vào nhiệm vụ người khác, để khỏi gây rắc rối cho gia đ́nh, xóm làng.

Khi thi hành nhiệm vụ các mục đồng đă được “Đức Chúa tươi nét mặt nh́n đến và dủ ḷng thương”. Vậy chúng ta c̣n thiếu chi trong bổn phận hằng ngày? Nên chăng coi xem cặn kẽ hơn để thấy được Thiên Chúa biểu lộ cho chúng ta những nội dung mà Ngài muốn chúng ta thực hiện. Nói cách khác điều chi phải làm và làm cách nào? Thí dụ thay đổi nếp sống, thói quen, yêu thương chăm sóc vợ con nhiều hơn, trung thành với nhiệm vụ nhiều hơn, từ bỏ tính mê nết xấu, giúp đỡ bạn bè, người hàng xóm nghèo khổ. Mặt khác, những tiếp súc nào, những gặp gỡ nào, những nhân vật nào giúp đỡ chúng ta nhận ra các sứ điệp “thiên thần”, có khả năng mở mắt, mở ḷng chúng ta đón nhận tin vui của Thiên Chúa. Họ giống như các mục đồng đến viếng thăm Đức Mẹ và Chúa Hài Nhi, loan báo các sự việc phải giữ và suy đi nghĩ lại trong ḷng. Họ sẽ nói sự thật về chính bản thân chúng ta . Bằng đời sống chứng ta và lời lẽ khôn ngoan họ sẽ giúp đỡ nh́n ra những người chúng ta phải chúc lành, khích lệ, giúp đỡ, an ủi. Dĩ nhiên, tiếng nói của họ không thánh thiêng như các thiên thần trong Phúc âm nhưng nhẹ nhàng và trần tục như bao linh hồn khác. Tuy nhiên đủ để lật đổ những thói quen suy nghĩ cũ của chúng ta v́ công b́nh, bác ái, đạo đức, bảo thủ, cấp tiến. Xin lấy một thí dụ cụ thể cho dễ hiểu: Các giáo viên, giáo sư trong các cơ sở giáo dục. Những tư tưởng, kiến thức của họ giúp chúng ta nh́n xa trông rộng nhiều hơn là thế giới hằng ngày với các báo chí lá cải tầm thường. Các sứ giả thường nhật không ồn ào náo nhiệt như hội chợ, họ xuất hiện khiêm nhường, tế nhị, nhưng nếu lưu ư chúng ta sẽ thấy họ chỉ đường dẫn lối cho biết nơi Chúa Giêsu sinh ra một cách chắc chắn. Xin nhớ các mục đồng không có kiến thức triết học, thần học, nhưng điều họ loan báo rất chính xác từ kinh nghiệm của ḿnh. Họ nói cho dân thành Belem về Tin mừng và phước lành nhận từ Thiên Chúa. Ngày nay chúng ta cũng vậy, xin đừng rao giảng học thức uyên bác của mính mà là kinh nghiệm ơn lành cứu độ của Thiên Chúa qua năm tháng cuộc đời. Đây mới là nội dung nên rao giảng và dẫn dắt thiên hạ đến cùng Thiên Chúa.

Ở điểm này chúng ta phải nh́n lên Đức Mẹ. Ngài là mẫu mực của các linh hồn chiêm niệm. Thánh Luca kể: “C̣n bà Maria th́ hằng ghi nhớ những điều ấy, và suy đi nghĩ lại trong ḷng.” Ngôn từ Hy lạp trong nguyên bản “ghi nhớ” có nghĩa “lưu trữ, giữ ǵn” và từ “suy đi nghĩ lại” có nghĩa cân nhắc. Vậy th́ chúng ta hiểu Đức Mẹ rất lúng túng, bối rối về sự việc. Ngài không hoàn toàn nắm bắt được ư nghĩa Thiên Chúa gởi gắm vào các biến cố. V́ vậy, ngài để tâm suy nghĩ và t́m ra những giải đáp có thể hiểu được. Đây cũng là kinh nghiệm cho mọi người chúng ta, cuộc đời có rất nhiều nhiệm màu, chúng ta đừng vội yên tâm với những giải thích hời hợt, mà phải đi sâu vào cốt lơi của từng vấn đề, nhất là trong lănh vực thiêng liêng. Cho nên Giáo hội luôn kêu gọi suy gẫm và chiêm niệm. Điều kiện tối cần để thực hiện điều này là tấm ḷng trong trắng: “Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch, v́ sẽ được nh́n xem Thiên Chúa.” Đức Mẹ là mẫu gương chiệm niệm bởi Ngài là bà chúa khiết trinh, thánh thiện và đạo đức. Chúng ta trông lên mẹ để được suy gẫm và chiêm niệm cho nên. An ở buông thả không thể đạt tới mục tiêu này, cả cuộc đời tu tŕ chỉ là một thất bại.

Đối với trí khôn loài người nói chung, sự sáng tỏ không đạt tới ngay lập tức mà cần thời gian suy nghĩ. Với Đức Maria cũng vậy. Sau này khi đi lễ đền thờ Giêrusalem, Đức Mẹ và thánh Giuse lạc mất con trẻ Giêsu. Ba ngày t́m kiếm nơi đền thờ và đă t́m thấy Ngài ngồi giữa các thày tiến sĩ luật, hỏi và trả lời một cách rất thông minh khiến mọi người kinh ngạc. Thấy vậy Đức Mẹ trách yêu con ḿnh: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây phải cực ḷng t́m con.” Trước câu nói này của Đức Mẹ, Chúa Giêsu trả lời: “Tại sao chúng ta mẹ lại t́m con? Cha mẹ không biết là cón có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” Phúc âm kể tiếp: “Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói.” Tuy vậy Đức Mẹ lưu giữ mọi sự ở trong ḷng. Liệu người môn đệ Chúa Giêsu có thể làm khác đi được không? Nhởn nhơ với các tṛ ma mănh thế gian mà vẫn vỗ ngực tự phong môn đệ Chúa? chúng ta lănh nhận Tin mừng Chúa tức ơn lành vĩ đại, lời chúc phúc vô biên th́ phải cân nhắc ư nghĩa của nó và áp dụng vào đời sống. Thánh Luca mô tả tâm t́nh này của Đức Maria ở nhiều nơi (8, 15, 21; 11, 28). Mẹ và anh em tôi chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành…Nhưng Người đáp: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa.” Vậy xin đừng biến Đức Mẹ thành pho tượng thạch cao, cao sang nhưng vô tri vô giác. Phúc âm hôm nay không cho phép như vậy. Đức Mẹ vẫn là loài người, gần gũi với chúng ta trong việc đón nhận và tuân giữ lời Thiên Chúa. “C̣n bà Maria hằng ghi nhớ những điều ấy và suy tưởng trong ḷng.” Chúng ta hăy thắp sáng lên đôi hàng bạch lạp xin Mẹ giúp ḿnh xử trí với Lời Chúa cho xứng đáng.

Thực tế Đức Mẹ lúc ấy chỉ là cô gái trẻ, 15 hoặc 16 tuổi. Sinh nở trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, tồi tàn. Có lẽ không có bà mẹ trẻ nào phải chịu đựng nhiều gian khổ đến vậy khi sinh con. Chúng ta có thể đoán chắc khi Chúa sinh ra không có bà mụ đỡ đẻ, tắm rửa. Chỉ các bà mẹ mới đủ khả năng thông cảm với các phu nữ khi sinh con. Phần thánh Giuse cũng chịu đựng không ít lo lắng và sợ hăi: an toàn cho Đức Mẹ và Chúa Giêsu, tiện nghi tối thiểu, hới nóng tối thiểu. Nhiều con trẻ chết yểu ngay sau khi chào đời với những điều kiện c̣n tốt hơn nhiều. Việc sinh nở luôn luôn bất trắc và nguy hiểm. Có lẽ Phúc âm đă thi vị hoá quang cảnh Chúa ra đời. Thực chất thế nào th́ sinh hoạt đời thường nơi miền quê thôn dă cho chúng ta những ư niệm cụ thể. Vậy mà Đức Mẹ và thánh Giuse đă chịu đựng tất cả. Đức Mẹ của Phúc âm không phải là pho tượng thạch cao, không cảm nghiệm đau đớn đắng cay, vô t́nh trước những sự kiện. Ngược lại tích trữ mọi biến cố và suy niệm trong ḷng. Ngài cố gắng t́m hiểu ư nghĩa những lời Ngài nghe, và những việc xẩy ra qua những xáo trộn của cuộc đời, giống như chúng ta giữa trường đời hôm nay. Sau này với những biến cố Chúa đi rao giảng, bị chống đối, ghen ghét, hành thích, giết chết, sống lại và lên trời, chắc hẳn Đức Mẹ c̣n phải tích trữ, suy nghĩ nhiều hơn nữa. Cho nên dù ương ngạnh đến đâu, chúng ta cũng phải công nhận Ngài là người tín hữu xếp hàng đầu trong mọi tín hữu của Chúa Kitô. Nắm giữ mọi mầu nhiệm của Thiên Chúa trong ḷng ḿnh, là mẹ Chúa Trời, mẹ những kẻ tin kính, đấng an ủi kẻ không tin, người nữ chiêm niệm trong thế giới ồn ào, gương soi cho các linh hồn tận hiến. Liệu quí vị có đồng ư với tôi? Để chúng ta sốt sắng mừng lễ Mẹ Thiên Chúa. Amen.


Jude Siciliano, OP (
FX. Trọng Yên,OP chuyển ngữ)

Suy gẫm Thánh Kinh để nghe được tiếng Chúa
Luca 2: 16-21

Năm mới đến, tôi hy vọng năm cũ qua là năm tốt lành. Nhưng, đối với tất cả chúng ta có lẽ năm cũ qua không tốt đẹp mấy. Chắc chúng ta đều cảm thấy nỗi đau khổ của biết bao người trong năm cũ. Và chúng ta nói “Năm qua mau chóng thật! Không biết thời gian đã đi đâu?” Thật ra thì chúng ta đã may mắn nên mới thốt ra được lời đó, vì biết bao nhiêu người đã có bà con, bạn bè ra đi, có người thì quá nghèo khổ, có người bị phá sản vì chiến tranh hay khủng bố, có người bị đau ốm kéo dài trong năm cũ. Những người này mong năm 2009 chóng qua và hy vọng năm 2010 tốt đẹp hơn.

Chúng ta mượn lời sách Dân Số để làm lời cầu chúc năm mới 2010 cho bạn bè thân hữu. Chúng ta cầu khấn cho những người thân thiết nhất mà chúng ta biết tên. Chúng ta cũng cầu khẩn cho những người chúng ta không biết tên, và chỉ có Thiên Chúa mới biết tên họ và thương yêu họ. Xin Thiên Chúa “chúc lành cho tất cả và gìn giữ tất cả!... Xin Người dủ thương tất cả… xin người giữ an bình cho tất cả!...” Chúng ta xin Thiên Chúa ban ơn như lời trong sách Dân Số. Và hơn nữa, chúng ta cầu xin cho chúng ta trở nên bàn tay của Chúa để tất cả vì Danh Chúa làm cho những người khác sẽ cảm thấy ơn lành của Thiên Chúa trên họ do có sự hiện diện của chúng ta trong đời sống của họ.

Hôm nay mừng lễ “Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa”. Giáo Hội kính Đức Maria ngay từ lúc đầu. Lễ Giáng Sinh chúng ta mừng Ngôi Lời Thiên Chúa xuống làm người. Và hôm nay chúng ta mừng Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta qua Đức Maria, vì nhờ Người mà Ngôi Lời đầu thai ở giữa chúng ta. Nhờ Đức Maria chúng ta cảm thấy ơn chúc lành trong sách Dân Số, vì qua Đức Kitô, con Đức Maria, ánh sáng Thiên Chúa chiếu đến chúng ta và ban cho chúng ta sự an bình. Lời cầu chúc trong sách Dân Số được thực hiện trên chúng ta qua lời xin vâng của Đức Maria với Thiên Chúa.

Các mục đồng đáp lời Thiên thần báo tin (Lc. 2:15-20). Họ vội vã chạy tới làng Bê-lem “để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho họ biết…” (Lc 2:15). Nhưng phúc âm hôm nay ít chú trọng đến các mục đồng, mà chú trọng nhiều đến Đức Maria. Đức Maria nghe lời các thiên thần báo cho các mục đồng. “Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy nghĩ lại trong lòng”. Cử chỉ của Đức Maria giúp chúng ta quyết tâm làm gì trong năm mới. Nhiều người trong chúng ta quyết tâm ăn kiên, tập thể thao nhiều hơn, hay bỏ hút thuốc v.v… Ai cũng mốn làm điều hay cả. Nhưng, chúng ta là những người có đức tin có một quyết tâm khác vì chúng ta nhìn vào gương mẫu Đức Maria trong phúc âm hôm nay. Đức Maria là người ghi nhớ mọi kỷ niệm, và suy đi nghỉ lại trong lòng. Suốt phúc âm thánh Luca Đức Maria tỏ ra sự lắng nghe Lời Thiên Chúa. Mẹ là gương mẫu của người có đức tin, là người nghe Lời Thiên Chúa và hành động theo Lời Chúa. Theo bài phúc âm hôm nay, tôi có thể quyết tâm là trong năm mới tôi sẽ cố gắng nghe kỹ hơn. Tôi sẽ để thì giờ suy nghĩ trong lòng những gì tôi đã nghe trong mọi hoàn cảnh đời sống. Điều tôi nghe trước tiên là lời Thánh Kinh, quyết tâm lấy lời Thánh Kinh làm lương thực thiêng liêng, để sống với Thiên Chúa và để làm ánh sáng hướng dẫn đời sống tôi.

Bài phúc âm hôm nay làm tôi để ý đến Đức Maria ghi nhớ tin mừng các mục đồng đã nghe. Thời đó mục đồng là những người hèn hạ, không ai tin họ cả. Nhưng, mặc dù người thời đó khinh bỉ các mục đồng, Đức Maria vẫn nghe lời họ kể lại về tin các Thiên thần báo cho họ. Mẹ là người lắng nghe lời của những người hèn mọn, và như vậy, Mẹ nghe tin vui mừng. Chúng ta không bao giờ biết được Thiên Chúa nói với chúng ta cách nào trong đời sống hàng ngày của chúng ta.

Đôi khi Thiên Chúa nói với chúng ta: qua phản ứng của một em bé đang giận dữ; qua lời khuyến khích của một người bạn; qua lời an ủi của một người ngồi với chúng ta trong khi chúng ta đau khổ; qua hình ảnh của tin tức hàng ngày; qua lời giảng của một linh mục mà chúng ta không thích mấy; qua kết quả của một sự điều tra, qua một bức tranh trong một triển lãm. Ví dụ trong thời kinh tế khủng hoảng những năm 1929-1932 ở Mỹ có nhiều người được thuê đi chụp hình những vùng có người bị nghèo đói. Những hình ảnh họ đưa về thủ đô làm các người lãnh đạo động lòng và tìm cách đặt những luật pháp để giúp người nghèo, người thất nghiệp, và người lớn tuổi. Dân chúng nhìn những bức ảnh đó và nghe “lời nói” của những người bị thất nghiệp, những trẻ em đói khát, và những gia đình thiếu thốn. Họ suy nghĩ những lời họ “nghe” và cố gắng hoạt động nhằm xoa dịu những đau khổ ấy. Những điều họ làm không hoàn bị, nhưng qua “cứu tế xã hội” họ đã giúp biết bao nhiêu người thoát cảnh nghèo khổ.

Một quyết tâm tốt cho năm mới là nên lắng nghe. Bất luận người nào hay đoàn thể nào nói, và suy nghĩ điều mình nghe, và đừng quá vội vã phê bình. Và rồi hãy cầu nguyện xin ơn khôn ngoan để biết làm thế nào để đáp ứng với những ǵ chúng ta nghe thấy. Đó là nói nhỏ một chút để gây ư tưởng cho anh chị em

 Nếu chúng ta biết lắng nghe, chúng ta có thể cảm nghiệm là Chúa Giêsu vẫn tiếp tục sinh giữa chúng ta. Chúng ta cũng có phản ứng như những người đã nghe lời các mục đồng, và chúng ta sẽ ngạc nhiên. Ngạc nhiên vì nghe tin mừng Thiên Chúa bảo cho chúng ta mặc dù chúng ta sống trong bận rộn của đời sống xô bồ. Lắng nghe Lời Thiên Chúa trong đời sống hàng ngày để đem ơn lành của Chúa đến cho chúng ta; và khuyến khích chúng ta làm điều tốt cho kẻ khác, cho dù có đối kháng; giúp chúng ta nghe được ơn tha thứ tội lỗi mình; hay làm xoa dịu mọi phiền muộn trong quá khứ hay mọi xích mích trong hiện tai.

Có rất nhiều điều khác chúng ta có thể nghe được; như ở nơi làm việc; ở trong gia đình hay ở những nơi nào khác trong đời sống hàng ngày. Tất cả những điều chúng ta nghe không nâng đỡ, xoa dịu, hay làm chúng ta phấn khởi. Tất cả điều chúng ta nghe chưa chắc là Lời Chúa, cho dù chúng ta cố gắng lắng nghe. Đó là lư do tại sao chúng ta cần phải nghiêm túc nghe lời Thánh Kinh. Lời Thánh Kinh giúp chúng ta nhìn thấy và chú trọng cách nói của Thiên Chúa trong những việc Ngài làm. Những người tập suy ngẫm lời Thánh Kinh sẽ làm như Đức Maria dạy chúng ta hôm nay, là nghe lời Thiên Chúa và suy đi nghĩ lại trong lòng. Nếu chúng ta càng mở lòng trí để lắng nghe, thì chúng ta thấy đựơc và vui mừng việc Ngôi Lời nhập thể. Vì Thiên Chúa luôn nhập thể dưới những hình dạng khác nhau.

Nếu chúng ta càng lắng nghe Lời Thiên Chúa, chúng ta càng có đủ sức tránh xa những tiên tri giả. Họ tự cho là người nói sự thật và có dụng ý lừa dối chúng ta. Dùng lời nói khuyến khích chúng ta đặt giá trị cá nhân lên trên những điều tốt chúng ta định làm. Cám dỗ chúng ta bằng những hứa hẹn quyền lợi, quyền uy, và lợi danh không chú trọng đến người khác. Những ai suy đi nghĩ lại Lời Thiên Chúa trong lòng sẽ biết được Thiên Chúa nói gì và nói khi nào, mặc dù Lời Thiên Chúa đến từ những nguồn chúng ta không nghĩ đến: như những mục đồng dơ bẩn từ ngoài đồng nội. Những mục đồng đó vội vã chạy về Bê-lem để báo cho Bà Maria và Ông Giuse tin mừng họ đã nghe nơi các Thiên Sứ.


Giacôbê Phạm Văn Phượng op :

Hồng ân cao quư
(Lc 2,16-21)

Đêm 22-6-431 tại thành Ê-phê-sô có một cuộc rước đuốc vĩ đại, đoàn rước muôn người như một vừa đi diễu hành vừa tung hô vang trời : “Đức Maria, mẹ Thiên Chúa, Maria là mẹ Thiên Chúa”. Tại sao có cuộc rước đuốc này ? Là v́ Nét-tô-ri-ô, giám mục giáo chủ thành Côn-tăng-ti-nốp chối Đức Maria không phải là mẹ Thiên Chúa. Theo ông, không thể gọi Đức Maria là mẹ Thiên Chúa, v́ Đức Maria không sinh ra thần tính của Chúa Giêsu mà chỉ sinh ra nhân tính là một dụng cụ của thần tính, nghĩa là Đức Kitô chỉ là một người được phúc tiền định mặc lấy thiên tính, trở nên đền thờ của Ngôi Lời. Như vậy, Nét-tô-ri-ô đă phân tách Ngôi Lời ra khỏi Đức Kitô, và phân chia Ngôi Hai nhập thể thành hai ngôi vị riêng biệt, được lồng vào nhau, rồi ông chủ trương : chỉ nên gọi Đức Maria là mẹ Đức Kitô chứ không phải là mẹ Thiên Chúa.

Trước chủ trương của Nét-tô-ri-ô, công đồng chung được triệu tập tại Ê-phê-sô để giải quyết vấn đề. 160 nghị phụ là các giám mục của Ai Cập, Pa-lét-tin, Tiểu Á, và đại diện của Rô-ma là thánh Xi-ri-lô chủ tọa. Sau một ngày hội họp và tranh luận, công đồng đă cách chức Nét-tô-ri-ô và tuyên bố chủ trương của ông là sai lầm, là lạc thuyết, đồng thời công đồng chấp nhận bản dự thảo của thánh Xi-ri-lô và tuyên bố : Đức Kitô tuy có hai bản tính nhưng chỉ là một ngôi, cho nên Đức Maria là mẹ Đức Kitô th́ cũng là mẹ Thiên Chúa, Công đồng khẳng định dứt khoát : Đức Maria là mẹ Thiên Chúa.

Sau khi công đồng đă xác định tước hiệu này, các tín hữu phấn khởi vui mừng kéo nhau ra các đường phố vang lời ngợi khen Đức Mẹ, tung hô các nghị phụ và cầm đuốc sáng dẫn đưa các ngài về nhà. Đồng thời, để mừng kính và đánh dấu thành quả của công đồng, kinh “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội” đă được sáng tác vào dịp này và được Đức Giáo Hoàng Xê-lét-tin chấp nhận.

Như vậy, Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, là một tín điều, một chân lư đức tin. Để Đức Maria thực sự được gọi là mẹ Thiên Chúa th́ những điều kiện ắt có và đủ là : ngài phải thực sự sinh một người con, và người con này từ giây phút đầu hiện hữu làm người đă là con Thiên Chúa hoặc Ngôi Lời, mà thực vậy, Đức Maria thực sự có đủ những điều kiện đó. Nói khác đi, Chúa Giêsu là người thật và cũng là Thiên Chúa thật, bởi thế, nếu Đức Maria là mẹ thật của Chúa Giêsu, th́ Ngài cũng là mẹ thật của Thiên Chúa.

Như vậy, v́ có mầu nhiệm Đức Kitô mà có mầu nhiệm Đức Mẹ Thiên Chúa. Mầu nhiệm này gắn liền với con Thiên Chúa làm người. Trong lịch sử Giáo hội, chỉ sau khi xác định chân tướng Chúa Giêsu Kitô, vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật, Giáo hội mới xác định Đức Maria là mẹ Thiên Chúa. Nếu Chúa Kitô chỉ là Thiên Chúa thôi th́ không làm ǵ có “mẹ Thiên Chúa” như một “siêu Thiên Chúa”. Hay nếu Chúa Kitô chỉ là người thôi, cho dầu là “siêu nhân” đi nữa, th́ Đức Maria càng không thể là “mẹ Thiên Chúa”. Cho nên, ngày nay chúng ta tuyên xưng đức tin mầu nhiệm Đức Mẹ Thiên Chúa là bởi v́ mầu nhiệm ấy gắn liền với mầu nhiệm nhập thể, như trong kinh Tin Kính : “Ngài là Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật…Ngài đă từ trời xuống thế bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Ngài đă nhập thể trong ḷng Trinh Nữ Maria và đă làm người”. Chúng ta tin nhận Đức Maria là mẹ Thiên Chúa chính là v́ chúng ta tin Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật : Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Đức Maria sinh ra Chúa Giêsu, nên Đức Maria là mẹ Thiên Chúa.

Mẹ Thiên Chúa là một tước hiệu cao cả, một đặc ân tuyệt vời mà không ai dám nghĩ tới, kể cả chính Đức Mẹ. Mọi tước hiệu và các đặc ân khác được ban cho Đức Mẹ như vô nhiễm nguyên tội, đồng trinh trọn đời, hồn xác lên trời chỉ là những đ̣i hỏi bắt buộc phải có, hay là những hiệu quả tất nhiên của chức vụ mẹ Thiên Chúa độc đáo này. Thánh Bô-na-ven-tu-ra đă nói : “Chức mẹ Thiên Chúa là một ơn vĩ đại phi thường nhất Thiên Chúa có thể ban cho loài thụ tạo. Ơn ấy Ngài đă ban cho Đức Maria”, “Thiên Chúa có thể mở rộng thêm bầu trời, có thể làm cho trái đất lớn thêm ra, có thể tạo dựng một thế giới vĩ đại hơn, nhưng Thiên Chúa không thể tạo dựng một người mẹ Thiên Chúa cao sang hơn được nữa, v́ muốn vậy phải có một con Thiên Chúa cao trọng hơn nữa, điều đó không thể nào có được”. Thánh Tô-ma tiến sĩ nói thêm : “Tước vị mẹ Thiên Chúa của Đức Maria cao trọng hầu như vô cùng, v́ Thiên Chúa không thể cất nhắc ai lên bậc tốt lành và cao sang hơn nữa. Chức mẹ Thiên Chúa hầu như đă tới biên giới vô cùng”.

Với tư cách là mẹ Thiên Chúa, Đức Mẹ có uy quyền đáng kính nể, đó là điều thông thường và dễ hiểu, bởi v́ một người mẹ nào có con làm lớn và nhiều quyền, th́ người mẹ đó cũng có nhiều uy quyền và được mọi người kính nể. Đàng khác, trên đời này chúng ta chỉ trông cậy người nào có thế và có ḷng, v́ có hai yếu tố đó họ sẽ giúp chúng ta đạt được những điều chúng ta mong muốn. Đức Maria có cả hai yếu tố đó và có một cách tuyệt vời. Đức Mẹ có thế, v́ là mẹ Thiên Chúa, chẳng có sự ǵ Đức Mẹ cầu bầu cho chúng ta mà không được. Đức Mẹ lại có ḷng, tấm ḷng của một bà mẹ, hoàn hảo hơn hết mọi người mẹ. V́ thế, chúng ta hăy đến với Đức Mẹ và năng cầu xin mẹ cứu giúp.

Hôm nay là ngày tân niên, ngày đầu của một năm mới, chúng ta hăy trao năm mới này, trao con người và cuộc đời chúng ta trong ṿng tay từ mẫu của Mẹ, xin Mẹ ban b́nh an và cho chúng ta thêm tuổi thêm khôn ngoan, thêm nhân đức, thêm sự nghiệp đức tin trước mặt Thiên Chúa và mọi người.


Lm. Đỗ Vân Lực, op.

TUYỆT VỜI
Lc 2:16-21

Đón chào năm mới, chắc chắn có nhiều thái độ khác nhau. Người trẻ vui mừng v́ càng thêm tuổi, càng thêm cao lớn. Người già có lẽ đón xuân với nhiều e ngại, dè dặt. E ngại không phải chỉ v́ ngày tháng c̣n lại, nhưng c̣n v́ thấy mái tóc và nét mặt ngày càng biến đổi mau lẹ. Bao nhiêu người đă muốn che dấu nỗi e ngại đó bằng những đợt nhuộm tóc hàng tháng. Người giàu có hơn lại đi căng da mặt mỗi năm. Ít nhất mỗi người đều cố gắng giữ măi tuổi xuân hay làm cho ḿnh trẻ lại bằng những mỹ phẩm. Ngày nay, thẩm mỹ viện không phải chỉ đón tiếp nữ giới. Cả phái mày râu cũng bước vô đó để sửa cằm, mắt, mũi và ... đổi giống nữa.

Ai cũng muốn trẻ đẹp măi. Nhưng vẻ đẹp đích thực là ǵ ? Giá trị con người nằm ở chỗ nào ? Nh́n lên Mẹ Maria, Thánh Mẫu Thiên Chúa, chúng ta mới thấy tất cả vẻ đẹp, giá trị và sự sống đích thực của con người.

Từ ngày c̣n ngồi trên gối mẹ, chúng ta đă đọc : “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời ...” Trí khôn chúng ta c̣n quá non nớt và khờ dại, làm sao hiểu được mầu nhiệm cao sâu đó ? Cho tới bây giờ, chúng ta vẫn không thấu hiểu những ǵ chúng ta vẫn đọc hằng ngày. Vậy mà, Mẹ Maria vẫn ban ơn và cầu bầu cho chúng ta.

Mặc dù tội lỗi, chúng ta vẫn được Chúa thương ban cho chúng ta cầu khẩn Mẹ với danh hiệu cực thánh : “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời ...” Càng tội lỗi, chúng ta càng đáng được Mẹ đoái thương. Sở dĩ chấp nhận làm Thánh Mẫu Thiên Chúa, v́ Mẹ đă sinh ra Con Thiên Chúa làm người để cứu chuộc chúng ta. Mẹ đă ban cho Chúa một thân xác để có thể sống và trở nên giống chúng ta hoàn toàn. Bởi thế, khi tuyên xưng Đức Mẹ Thiên Chúa, chúng ta tin chắc chắn về mầu nhiệm nhập thể của Ngôi Hai Thiên Chúa. Đàng khác, khi cầu nguyện với Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, chúng ta c̣n tin chắc sẽ được Thiên Chúa cứu độ.

Nhận tước hiệu Thánh Mẫu Thiên Chúa, Mẹ muốn chứng minh cho mọi người biết Con Thiên Chúa có một thân xác đích thực do Thánh Linh tạo dựng trong ḷng Mẹ. Đàng khác, Mẹ muốn cứu tất cả nhân loại. Với chức vị Thánh Mẫu Thiên Chúa, Mẹ chỉ muốn nói thực tế Mẹ đă sinh ra Con Thiên Chúa như lời sứ thần truyền tin. Từ giờ phút đó, Mẹ nghiễm nhiên trở thành Đức Mẹ Thiên Chúa. Tín điều này đă được công đồng Êphêsô tuyên tín năm 431. Cả Giáo Hội Đông và Tây đều tôn kính và trân trọng tước vị cao cả đó của Mẹ.

Tin như thế, Giáo hội không mù quáng, như nhiều người lầm tưởng. Họ tưởng Đức Mẹ sinh ra bản tính và ngôi vị Thiên Chúa. Nếu thế, Thiên Chúa không c̣n là nguyên ủy của mọi nguyên ủy nữa. Chẳng lẽ Thiên Chúa c̣n phải lệ thuộc như vậy ? Đúng ra, chức vị Thánh Mẫu Thiên Chúa chỉ liên hệ tới Ngôi Hai, chứ không bao trùm cả Ngôi Nhất và Ngôi Ba. Cả bản tính Thiên Chúa, Mẹ cũng không đụng chạm tới được. Nhưng v́ sinh ra con người Đức Giêsu, gồm Ngôi Lời, Thiên tính và nhân tính, nên Mẹ xứng đáng được tôn phong làm Thánh Mẫu Thiên Chúa.

Tước hiệu đó cao trọng vô cùng, nhưng không đủ hấp dẫn Mẹ đến nỗi Mẹ quên tất cả mọi sự. Mẹ không muốn đổi danh dự của một trinh nữ lấy tước hiệu đó. Tới khi được thiên thần bảo đảm Thánh Thần sẽ hành động tất cả, Mẹ mới khiêm tốn thưa lời xin vâng. Cử chỉ đó đă khiến Mẹ được Thiên Chúa quư trọng và nâng cao Mẹ vượt trên các thiên thần và các thánh trên trời.

Mẹ quả là một con người biết tự trọng và có trách nhiệm về những việc xảy ra. Chính v́ thế, nơi cung ḷng Mẹ, đất trời đă gặp gỡ và tấu lên ca khúc b́nh an. Một cuộc hiệp thông lớn lao đă diễn ra ngay trong ḷng Mẹ. Có một nhân vị vô cùng cao trọng đang giang tay nối người anh em nhân loại với Thiên Chúa là Cha. Nếu Mẹ không cương trực và khiêm cung chấp nhận sinh Con Thiên Chúa, làm sao có một nhân vị làm trung gian nối đất trời như vậy ?

Từ ngày Chúa Nhập Thể, con người trở thành “trung tâm của ḥa b́nh.” Bởi thế, “tôn trọng con người” là “thăng tiến ḥa b́nh.” (Bênêđictô XVI) Đúng thế, trước khi Chúa làm người, không ai có thể nối kết đất trời và dẫn con người đi vào cuộc hiệp thông và ḥa giải với Thiên Chúa và với con người. Trong công cuộc ḥa giải lớn lao này, Mẹ Maria đă đóng một vai tṛ rất quan trọng. Nếu Mẹ không cưu mang và sinh hạ Con Thiên Chúa, chắc chắn Mẹ cũng không thể trở thành Thánh Mẫu Thiên Chúa. Nhưng ngay khi Mẹ chấp nhận làm Thánh Mẫu Thiên Chúa, Mẹ trở thành Nữ Vương Ḥa B́nh, v́ cung ḷng Mẹ đă cưu mang Thái Tử Ḥa B́nh là Con Thiên Chúa.

Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đă thương cho con nhận biết và tin thật Mẹ Maria là Thánh Mẫu Thiên Chúa và Nữ Vương Ḥa B́nh. Xin cho con trung thành và siêng năng kêu cầu “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời” suốt cuộc đời con để ḥa b́nh luôn ngự trị trên khắp hoàn cầu. Amen.

đỗ lực, - 01.01.2007


LM An-rê Đỗ Xuân Quế, O.P.

Đức Maria Mẹ Giáo Hội

Đức Maria, Mẹ Giáo hội là danh hiệu Đức Phaolô VI dùng để tôn phong Đức Mẹ ngày 16.12.1964, nhân dịp kết thúc khóa III Công đồng Vaticanô II. ĐGH nói : “Đây là lần đầu tiên một Công đồng đưa ra một tổng hợp sâu rộng về học thuyết công giáo bàn về địa vị của Đức Mẹ trong mầu nhiệm Chúa Kitô và Giáo hội.”

Thực ra, Giáo hội đă dành nhiều danh hiệu xưng tụng Đức Mẹ như Nữ Vương, Trạng Sư, Mẹ Thiên Chúa, Đấng đầy ơn phúc. Chỉ cần đọc lại kinh cầu Đức Me, chúng ta cũng thấy danh hiệu dành cho Người phong phú biết bao !

Tuy nhiên, theo ĐGH, học thuyết về Đức Mẹ đă được tổng hợp cách tài t́nh trong danh hiệu Mẹ Giáo hội. Quả vậy, Đức Maria thực là Mẹ Giáo hội, v́ Người là Mẹ của Con Thiên Chúa, Đấng đă thành lập Giáo hội. Đức Giêsu đă trao phó Giáo hội cho Đức Me, đồng thời trao phó Tông đồ Gio-an cho Người và gửi gắm Người cho Tông đồ Gio-an.

Người là Mẹ Giáo hội. Người đă thực hiện vai tṛ này bằng lời khuyên, gương lành và lời cầu nguyện cho Giáo hội. Chúng ta có thể dựa vào các sách Tin Mừng, lấy lời khuyên, gương lành và lời cầu của Đức Mẹ để làm chứng tư cách Mẹ hiền của Người đối với Giáo hội.

1. Lời khuyên

Trong phép lạ ở tiệc cưới Ca-na, Đức Mẹ đă khuyên các gia nhân làm như lời Chúa Giêsu dạy : “Người bảo ǵ, các anh cứ việc làm theo.” (Ga 2,5) Điều đáng lưu ư ở đây là thái độ thản nhiên, b́nh tĩnh của Đức Mẹ. Nếu đọc kỹ câu đối đáp giữa Chúa Giêsu và Đức Mẹ, chúng ta sẽ không khỏi ngạc nhiên, khi nghe giọng nói xa lạ của Chúa Giêsu đối với Mẹ ḿnh : “Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giêsu nói với Người : “Họ hết rượu rồi.” Đức Giêsu đáp : “Thưa bà, chuyện đó can ǵ đến bà và tôi ? Giờ của tôi chưa đến.” Rồi tiếp theo là lời nhắn bảo ân cần của Đức Mẹ đối với gia nhân. Giữa hai câu nói đó, có một quăng cách, một sự hiểu ngầm nào đó, v́ không thấy Đức Mẹ đả động ǵ đến câu trả lời của Chúa Giêsu.

Thật vậy. Nếu chỉ dựa vào văn mạch mà không t́m hiểu dụng ư sâu xa của những lời đó, tất nhiên phải hiểu như trên. Nhưng qua cái vẻ bề ngoài xem ra như lỏng lẻo và không ăn ư đó, có tiềm ẩn một dụng ư sâu xa làm tăng giá trị cho câu nói. Dụng ư đó là sự chấp nhận và tin tưởng mà Đức Mẹ muốn bày tỏ cho chúng ta, v́ khi nghe một câu nói xa lạ và có vẻ trách móc như thế giữa mẹ và con, tự nhiên Đức Mẹ có thể cảm thấy bực bội khó chịu. Thế mà ở đây tuyệt nhiên không thấy Đức Mẹ tỏ ra một lời nói, một cử chỉ hay thái độ nào khiến chúng ta có thể hiểu được như vậy. Mà ngược lại, như đă nói, chỉ thấy một sự b́nh tĩnh lạ lùng dường như không có sự ǵ xảy ra cả.

Thái độ ấy chắc hẳn phải là phản ánh của một tâm hồn tin tưởng sâu xa tuyệt đối. Ḷng tin tưởng phi thường ấy làm cho Đức Mẹ chấp nhận tất cả dù chưa hiểu hay không hiểu hết ư Con ḿnh muốn nói ǵ. Phải có điều ǵ bí nhiệm trong câu nói đó. Phải hiểu biết về người Con của ḿnh lắm mới giữ được thái độ gương mẫu như vậy. Tựu trung, chính v́ Đức Mẹ có đức tin vững mạnh.

Đức tin ấy đă đưa Đức Mẹ đến chỗ chấp nhận. Người ta thường nói tin nhận, v́ hễ tin th́ nhận. Mà nhận ai là ngụ ư tin tưởng người đó. Đức Mẹ tin nên chấp nhận lời Chúa, dù đó là một lời đ̣i hỏi, trái ư, không thuận tai hay khó hiểu, như khi nghe ḷi truyền tin của thiên thần Gáp-ri-en. Chấp nhận như vậy không phải dễ, v́ tin là một thử thách. Ở đây Đức Mẹ cũng đă bị thử thách qua câu nói khó hiểu, làm đảo lộn cuộc đời ḿnh. Điều này thật là rơ rệt khi Đức Mẹ bằng ḷng thụ thai, dù đă tính giữ ḿnh đồng trinh. Đó là hai điều trái ngược nhau, nhưng Đức Mẹ đă nhận, v́ biết Chúa muốn như vậy, dù không hiểu rồi ra sẽ thế nào. Cái thế nào đó là điều hiển nhiên đối với Thiên Chúa, nhưng đối với Đức Mẹ th́ vẫn c̣n là điều chưa sáng tỏ.

Xưa kia, tổ phụ Ap-ra-ham đă nhờ hành động như vậy mà được xưng tụng là cha của những người tin. Cũng thế, Đức Mẹ được xưng tụng là người diễm phúc v́ nhận ḿnh là nữ tỳ của Thiên Chúa và hoàn toàn vâng theo như lời thiên thần truyền. Đây là một trong những hành động tiêu biểu của Đức Me, khiến chúng ta có thể ví đó như một hạt ngọc bên cạnh những hạt ngọc khác kết thành triều thiên vinh quang cho Người.

Nếu nói về lời khuyên của Đức Mẹ th́ ngoài lời khuyên ở tiệc cưới Ca-na người ta ít thấy lời nào khác nữa trong Tin Mừng, bởi một lẽ đơn giản là Đức Mẹ ít nói và Tin Mừng cũng ít nói về Người. Người hoàn toàn muốn sống ẩn khuất, đóng vai tṛ một hiền mẫu kín đáo, không thích xuất hiện mà chỉ sống như một cái bóng vào ngày dâng Chúa Giêsu trong Đền thánh, ngày trẩy hội lên Giê-ru-sa-lem, lúc gặp con trên đường thọ h́nh, khi đứng dưới chân thập giá. Đây lại là một nét đẹp tinh thần cao quí của Đức Mẹ nữa. Đức Mẹ đă ít dùng lời nói để khuyên bảo nhưng ngược lại, đă lấy việc làm và đời sống mà khuyên nhủ nhiều lắm. Các vị thánh, các nhà truyền giáo đích thật đă dùng h́nh thức khuyên bảo này. Nhiều khi các vị chỉ cần đi qua hay sống giữa đám đông cũng đủ để gây thắc mắc cho người ta về những vấn đề trọng đại như sự sống, sự chết, ư nghĩa và mục đích đời người v.v…

2. Đời sống gương mẫu

Cuộc đời của Đức Mẹ đă trở thành gương mẫu cho Giáo hội noi theo. Cuộc đời ấy có thể thu tóm lại trong mấy chữ sau đây : lắng nghe, thông cảm, hợp tác, yêu thương.

2,1 Lắng nghe

Đức Mẹ đă lắng nghe lời Chúa ngay từ những giây phút đầu tiên khi được truyền tin. Đức Mẹ đă đáp lại lời mời làm Mẹ Đấng Cứu Thế và để cho lời Chúa hoạt động nơi ḿnh. Nhiều khi, dù chưa hiểu ư nghĩa của những lời đó, nhưng Đức Mẹ vẫn đón nhận, ghi nhớ và suy gẫm trong ḷng (Lc 2,51). Thái độ lắng nghe đó chứng tỏ khả năng tiếp nhận phong phú nơi Người. Suốt đời ḿnh, Đức Mẹ đă nh́n xem và lắng nghe lời Chúa qua người Con của ḿnh và cũng là Con Thiên Chúa, từ lời nói đầu tiên ở tiệc cưới Ca-na cho đến lời nói cuối cùng dưới chân thập giá. Lời Chúa âm vang trong ḷng Đức Mẹ như một sức mạnh phi thường, điều khiển và hướng dẫn cuộc Người. Người đă không nao núng và ái ngại trước những lời Con ḿnh nói với tư cách là Con Thiên Chúa, nhưng thật khó nghe và khó chấp nhận theo thói thông thường của người trần gian, như khi người ta báo cho Đức Giêsu có Mẹ đang muốn gặp mà Đức Giêsu lại hỏi : “Ai là mẹ tôi, ai là anh em tôi” ? (Mt 12, 48)

Chắc có người sẽ bảo diễn nghĩa những lời đối đáp trên thành những câu như thế là cố ư tạo ra vẻ sống sượng và chói tai, chứ thực ra Đức Giêsu không có ăn nói như vậy. V́ thế, để tỏ ḷng tôn kính đối với Chúa Giêsu, người ta cố chuyển sang tiếng Việt cho thật êm tai lễ phép. Nhưng như thế là không trung thành với nguyên ngữ. Đàng khác cũng không bóc lột được hết vẻ đẹp thâm thúy và niềm tin sâu xa của Đức Mẹ. Đức Giêsu muốn nói như vậy là để phân biệt rơ ràng tư cách con Thiên Chúa với tư cách con Đức Mẹ nơi ḿnh. Đức Mẹ được xưng tụng là người diễm phúc không nguyên v́ đă sinh ra và nuôi dạy Đấng Cứu Thế mà chính v́ đă nghe và giữ lời Thiên Chúa.

2,2 Thông cảm, hợp tác, yêu thương

Không những Đức Mẹ đă nghe và giữ lời Thiên Chúa mà c̣n thông cảm, hợp tác, yêu thương để cho lời ấy sinh hoa kết quả dồi dào nơi người trần gian. Chỉ nguyên một câu : “Người bảo ǵ anh em cứ làm như vậy” cũng đủ cho thấy mối bận tâm của Đức Mẹ đối với lời của Đức Giêsu trong t́nh cảnh bế tắc của chủ tiệc, và phần đóng góp của Đức Mẹ trong việc khuyên nhủ gia nhân làm theo lời ấy.

Ngoài ra, trên đồi Gon-go-tha, Đức Mẹ đă ưng thuận hiến tế Con ḿnh. Người đă kết hợp nỗi đau trong ḷng với hy lễ của Con ḿnh đang diễn ra trên thập giá, mà không thốt ra một lời than van rên xiết. Bằng cái chết của ḿnh, Chúa Giêsu đă chuộc tội cho thiên hạ th́ nhờ sự chấp nhận những đau khổ theo sau cái chết của Con ḿnh, Đức Mẹ cũng đă góp phần vào việc thanh tẩy nhân loại và sinh ra các con cái thiêng liêng cho Giáo hội nhờ công ơn cứu chuộc của Chúa Kitô.

2.3 Lời cầu

Trở lại tiệc cưới Ca-na, chúng ta thấy Đức Mẹ nói : “Họ hết rượu rồi”. (Ga 2.4). Thoạt nghe th́ đó chỉ là nhận xét của Người về một sự kiện. Nhưng nghĩ kỹ th́ đó lại là một sự can thiệp và c̣n hơn thế nữa, một lời cầu xin. Đức Mẹ đă can thiệp xin Chúa Giêsu làm phép lạ đầu tiên. Do lời can thiệp và cầu xin này, Chúa Giêsu đi trước giờ Người đă định, nhưng có thể hiểu ngầm là v́ Đức Mẹ yêu cầu nên Người cho giờ ấy đến trước thời hạn. Chủ nhà và khách dự tiệc có thể được coi như h́nh ảnh về Giáo hội. Cầu xin cho chủ nhà và khách dự tiệc là điềm tiên báo Đức Mẹ sẽ cầu xin và can thiệp cho Giáo hội sau này. Sách Công vụ Tông đồ cho hay sau khi Chúa Giêsu về trời, Đức Mẹ cùng cầu nguyện với các Tông dồ : “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Đức Giêsu, và với anh anh em của Đức Giêsu.” (Cv 1, 14) Cũng như các sách Tin Mừng, sách Công vụ Tông đồ không nói nhiều về Đức Mẹ. Vai tṛ của Người trong cộng đoàn các Tông đồ có vẻ mờ nhạt, nhưng không phải v́ thế mà kém phần quan trọng, cũng như vai tṛ của trái tim trong thân xác con người. Bên ngoài, người ta không trông thấy trái tim, nhưng trái tim lại là trung tâm của sự sống; trái tim ngừng là người ta chết. Vai tṛ của Đức Mẹ cũng có thể ví được như thế.

Sách Công vụ Tông đồ không nói rơ Đức Mẹ cầu nguyện thế nào và xin những ơn ǵ, nhưng chúng ta có thể dựa vào ḷng từ mẫu của Người đối với Chúa Giêsu, mà nghĩ rằng Người đă cầu xin cho Giáo hội được vững mạnh và trung thành với sứ mệnh Chúa Giêsu đă giao phó. Sứ mệnh đó là làm chứng cho Chúa Giêsu và đoàn kết yêu thương nhau.

Hiện nay Đức Mẹ vẫn c̣n cầu xin và phù tŕ cho Giáo hội, qua những ơn lành Người đă chuyển đạt cho Giáo hội trải qua hơn hai ngàn năm lịch sử, với những phép lạ Người đă làm và c̣n đang làm ở nơi này nơi khác trên thế giới như Lộ đức, Fatima v.v…

Xưng tụng Đức Maria là Mẹ Giáo hội vào thời sau Công đồng Va-ti-ca-nô II thật là thích hợp và ư nghĩa, v́ danh hiệu ấy nói lên niềm tin tưởng của Giáo hội đối với Đức Mẹ và ước mong tha thiết được Người che chở và thương mến giữa bao khó khăn và thử thách mà hiện nay Giáo hội đang phải trải qua.


Lâm Phước OP

ĐỨC MARIA,
MẸ LOÀI NGƯỜI - MẸ CHÚNG TA

Nếu ai đă từng coi bộ phim thiếu nhi Trung Quốc : "Tiểu Long Nhân", chắc không quên được những cảnh t́m mẹ của Tiểu Long Nhân. Sau bao lần vượt qua gian nan, thử thách, cùng với những người bạn tốt là Bối Bối, Kỳ Kỳ và Bảo Bảo, em đă gặp được mẹ Long Nữ. Khi gặp được mẹ bằng xương bằng thịt (v́ trước đó, các em chỉ gặp trong giấc mơ và tiếng vang), Tiểu Long Nhân hỏi : "Mẹ Long Nữ ơi ! Mẹ có đúng là mẹ của con không ?". Lúc đó, Bối Bối, Kỳ Kỳ, Bảo Bảo cũng lên tiếng từng đứa một, "Mẹ cũng là mẹ của con nữa". Long Nữ ôm chầm các con và nói: "Mẹ là mẹ chúng con đây !". Đến lúc đó, tôi nghĩ ngay đến Mẹ Maria và tự nhủ: "Ơ! Tôi và mọi người cũng đều có chung một người Mẹ chứ !".

Thú thật trong các tín điều hoặc tước hiệu về Mẹ : Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Hồn xác lên trời, Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ Đồng Trinh, Mẹ Giáo Hội, Mẹ Cứu Thế, Mẹ Mân Côi… Tôi thích nhất tước hiệu "Mẹ loài người" hơn, v́ có cảm giác người mẹ đó gần với chúng ta, mà chúng ta có thể "nắm bắt" được : "Mẹ Maria là Mẹ loài người, là Mẹ của chúng con". Tương tự như thánh Tô-ma thốt lên sau khi xem thấy Chúa Giêsu sống lại : "Lạy Thiên Chúa ! Lạy Thiên Chúa của tôi !". Danh xưng này giúp tôi biết Mẹ Maria không là của riêng ai, mà là của cả loài người, kể cả người ngoài Giáo hội.

Để sở thích này không chỉ dừng lại cảm xúc t́nh cảm, bởi v́ tôn sùng Đức Mẹ không ở chỗ cảm hứng nhất thời và vô hiệu lực, cũng không ở chỗ quá dễ tin, mà có suy tư bắt nguồn từ mặc khải Thánh kinh và Thánh truyền, từ truyền thống Giáo hội, tức là một đức tin thuần tuư . Chúng ta cùng nhau lược qua những điểm chính yếu về Mẹ Maria, Mẹ loài người, Mẹ chúng ta; từ đó chiêm ngắm rơ hơn những phẩm chất của người "Mẹ chúng sinh" ở b́nh diện cao siêu.

THÁNH KINH VÀ THÁNH TRUYỀN
ĐỀU XÁC ĐỊNH ĐỨC MARIA LÀ MẸ NHÂN LOẠI

Trong những thế kỷ đầu của Giáo hội, Đức Maria đă được gọi là "Mẹ Đức Giêsu", "Mẹ Đồng trinh", "Mẹ Thiên Chúa"… Dù với tước hiệu hay vị trí nào, tất cả đều nhằm diễn tả mối tương quan giữa Đức Maria với mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người. Các sách Cựu ước mô tả lịch sử cứu độ, trong đó giới thiệu Đức Kitô vào thế giới đă được chuẩn bị cách tiệm tiến. Những tài liệu tiên khởi này, khi được đọc trong Hội thánh và được hiểu dưới ánh sáng mặc khải trọn vẹn, đă từ từ cho thấy khuôn mặt của một người nữ : Thân mẫu Đấng Cứu Thế" (HT 55) .

Như vậy, Công đồng nhắc nhớ, khuôn mặt của Đức Maria được phác họa ngay từ khởi nguyên của lịch sử cứu độ. "Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người nữ, giữa ḍng dơi mi với ḍng dơi người nữ, người này sẽ đạp đầu mi và mi sẽ ŕnh để cắn gót chân của người" (St 3,15). Đoạn văn này được truyền thống thế kỷ XIV đặt tên là "Phúc âm tiên khởi", hé mở cho chúng ta thấy ư định cứu độ của Thiên Chúa ngay từ lúc khởi nguyên của nhân loại . Nếu như trước đây, bà E-và trở thành đồng minh của con rắn lôi kéo con người vào ṿng tội lỗi, th́ nay Thiên Chúa loan báo, Người sẽ biến người phụ nữ (E-và mới) thành thù địch của con rắn. Người phụ nữ ấy là ai ? Chúng ta chỉ biết được tường tận khi đọc bản văn Cựu ước trong Hội thánh và được giải thích dưới ánh sáng của Tân ước.

Dưới ánh sáng Tân ước và truyền thống Hội thánh, chúng ta biết "E-và mới" chính là Đức Maria; c̣n ḍng dơi của người đàn bà là Đức Giêsu, người chiến thắng quyền lực Satan nhờ mầu nhiệm Vượt Qua. Và nếu như "E-và cũ" tượng trưng cho loài người bất tuân, thành mẹ của người chết, th́ "E-và mới" lại tượng trưng cho ḍng dơi loài người đón nhận Lời Chúa qua sự vâng phục, khi đó Đức Maria là mẹ của những người sống. Điều đó được minh chứng qua biến cố Truyền tin, Công Đồng Vaticanô II nhấn mạnh : "Chúa Cha giàu ḷng từ bi muốn rằng sự thỏa thuận của Đấng định làm mẹ th́ đi trước cuộc Nhập thể, bởi v́ như thế, cũng như một ngựi nữ đă góp phần vào việc mang lại sự chết, th́ một người nữ cũng góp phần vào việc mang lại sự sống" (HT 56) . Hiến chế Ánh sáng muôn dân cũng khẳng định : "Cũng như nhân loại đă bị cái chết đô hộ v́ một v́ một người nữ, th́ cũng được giải thoát khỏi cái chết nhờ một trinh nữ; như vậy sự bất tuân của một người nữ đă được chấn chỉnh lại nhờ sự tuân phục của một người nữ…".

Tân ước minh chứng rơ hơn. Nếu như Đức Maria là Thân mẫu Đức Giêsu (Mt 1,23); Công Đồng Êphêsô năm 431; truyền thống cổ điển - và Công đồng Vaticanô II - Hiến chế Ánh sáng muôn dân số 52, minh nhiên công nhận Đức Maria là mẹ của chúng ta, bởi v́ "Các tín hữu liên kết với Đức Kitô là đầu, th́ cũng kết hiệp với các thánh của Người, và cũng phải tôn kính, trước hết là Đức Maria vinh hiển trọn đời đồng trinh, Thân mẫu Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa và Chúa chúng ta" .

Mẹ là người đă cưu mang Mầm Sống (là Đức Kitô, Con Thiên Chúa) đem lại sự sống vĩnh cửu cho nhân loại, th́ Mẹ cũng là Mẹ của những người đón nhận Sự Sống đó. Tước hiệu "Mẹ sự sống" đă được thánh Grêgôriô Nissênô sử dụng, và ông Guerrico Igny (qua đời năm 1157) giải thích : "Người là mẹ của Sự Sống, nhờ đó tất cả mọi người được sống; khi sinh ra Sự Sống này, cách nào đó Người đă sinh hết những người sẽ được sống. Duy chỉ một người đă được sinh ra, nhưng tất cả chúng ta đă được tái sinh" (In Assumptione I,2) .

Nhưng trên hết, niềm tin chắc chắn vào Đức Maria, Mẹ loài người là nhờ lời của Chúa Giêsu trối lại : "Thưa Bà ! Đây là con của Bà !"; rồi nói với môn đệ : "Đây là Mẹ của anh !" (Ga 19,26-27). Lời "mặc khải này" vuợt quá tầm mức của một câu chuyện gia đ́nh (bày tỏ tâm t́nh con thảo qua việc gởi gấm) như một người giải thích. Quả thật, Đức Kitô Giêsu đă ấn định tương quan mới về T́nh yêu của Đức Maria với con người; nói cách khác, Người trao cho Mẹ một sứ mạng mới : làm Mẹ chúng sinh. Ư tưởng này nằm trong thần học của thánh Gioan Tông đồ khi tŕnh bày hai bản văn kiểu Sê-mít (đóng mở) nói về Đức Maria có mặt lúc khai mạc sứ vụ của Đấng Cứu thế và kết thúc sứ mạng của Người (Ga 2,1-11 và Ga 19, 26-17).

Như vậy, không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, Đức Maria là Mẹ loài người, là Mẹ chúng ta; mầu nhiệm này luôn liên kết mật thiết với Đức Kitô. Điều này cũng phù hợp với phương pháp nghiên cứu về Thánh mẫu học : đặt Đức Đức Maria trong tương quan mầu nhiệm cứu rỗi; đó là ba tương quan : Hội thánh, Đức Kitô và Chúa Thánh Thần .

Nếu chúng ta đă nh́n nhận Đức Maria là Mẹ chúng ta, Mẹ nhân loại, giờ đây, hăy tiếp tục chiêm ngắm những phẩm chất của Mẹ ḿnh, những phẩm chất luôn có nơi một người mẹ sinh ra chúng ta bằng xương bằng thịt nhưng ở b́nh diện siêu việt hơn và có nền tảng hơn.

NHỮNG PHẨM CHẤT CỦA ĐỨC MARIA, MẸ NHÂN LOẠI

Ư tưởng này khởi điểm từ việc nh́n thấy bối cảnh xă hội ngày nay, một xă hội mà người ta đang chú trọng vào việc lấy thật nhiều bằng cấp. Lái xe phải có bằng, giữ trẻ phải có bằng, dạy học phải có bằng, nộp đơn xin bất kỳ việc làm nào cũng phải có bằng… Có người có hai ba cái bằng, nhưng khả năng thực th́ đúng là chỉ dừng lại cái bằng. Bằng cấp là ǵ, phải chăng khả năng của anh chỉ đạt tới mức cái bằng ? Tài năng th́ đâu giới hạn trong một mảnh giấy. C̣n nếu so sánh bằng cấp th́ đây : Người mẹ nào sinh ra ta lại không có biết bao nhiêu là bằng cấp : bằng sinh đẻ, bằng thay tả, bằng băng bó, bằng thức khuya, bằng lắng nghe và ru con, bằng trực giác hơn cả 'Counsellor" ở trung học, bằng chờ đợi, bằng kiên nhẫn, bằng khoan dung độ lượng, bằng săn sóc… Thực chất ai có thể cấp bằng đó cho người mẹ của ḿnh. Không một đại học nào cấp được, v́ đại học chỉ cấp cơ sở, cấp kiến thức, kỹ thuật mà thôi, trong khi người mẹ luôn có cả con TIM.
Vậy, Mẹ Maria đúng là một "Giáo sư Cao học" về :

VIỆC G̀N GIỮ MẦM SỐNG LÀ ĐỨC KITÔ,
ĐẤNG ĐEM LẠI SỰ SỐNG CHO NHÂN LOẠI

Trước hết, qua tŕnh thuật Lc1,26-38 (Biến cố Truyền tin), chúng ta biết Đức Mẹ đă bắt đầu cưu mang Mầm Sống đem lại sự sống cho nhân loại. Khi cưu mang Đấng thánh, được gọi là Con Thiên Chúa, Mẹ đă bắt đầu gặp "trắc trở" nơi bạn ḿnh là thánh Giuse (Mt 1,18-25); sau đó, với thân mang dạ chữa, Mẹ đă phải từ thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê mà cất bước nặng nhọc lên thành Bê-lem. V́ sắp tới ngày sinh nở, lại phải đường sá xa xôi, nên Mầm Sống đó đă "vội vàng" "kết trái" giữa nơi chốn thấp hèn, thiếu thốn (Lc 2,6-7). Mang lấy đă khó, giữ ǵn càng lại khó, từ lúc người con ra đời? Mẹ đă phải tiếp tục trải qua lận đận, lao đao trong việc ǵn giữ Mầm Sống mới sinh khi trốn sang Ai Cập, do Hê-rô-đê t́m giết (Mt 2,13-15); và cùng với con thơ nhỏ dại đó, Mẹ lại trở ngược về quê nhà Ít-ra-en.

Nào có yên, v́ Ác-khê-lao, kẻ kế vị vua Hê-rô-đê c̣n ác hơn cả cha ḿnh, nên Mẹ đành ôm con về miền Ga-li-lê và ở tại Na-da-rét…. Chạy nạn một ḿnh đă là điều vất vả, lại bồng thêm đứa con thơ; đồng thời trong tâm trạng bất an, nơm nớp lo sợ, thử hỏi, c̣n nỗi khổ cực nào hơn. Nỗi lo sợ lớn nhất không phải lo bản thân Mẹ mà chính là bảo toàn Nguồn đem lại sự sống cho nhân loại mai sau. Khi thuật tŕnh những hoàn cảnh khổ cực và nghèo khó của hành tŕnh và sinh hạ, chúng ta mới thấy đặc tính của Vương quyền của Đấng Mêsia là như vậy đó : không danh dự, không quyền bính trần thế, không nương tựa vững chắc, điều mà sau này Người công bố : "Con Người không có nơi tựa đầu" (Lc 9,58.

Và như vậy, Mẹ đă chia sẻ sâu sắc thân phận đó với sự vâng phục hoàn toàn, Mẹ làm với tất cả tấm ḷng trân trọng, "Bà đă sinh hạ một con trai, quấn khăn và đặt trong một máng cỏ…" (Lc 2,7). Hành động minh chứng, Mẹ sẵn sàng thực thi những ǵ ḿnh đă cam kết : "Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Sứ thần đă nói" (Lc 1,38); cũng như đứng trước biết bao sự kiện, Mẹ "Hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong ḷng" (Lc 2,19). Quả thật, Mẹ xứng đáng là Mẹ của chúng ta, bởi Mẹ đă ǵn giữ Đấng mang lại sự sống chúng ta ngay tại trần gian. Chính nhờ Mẹ, "Đă gợi lên cho bà mẹ khác, là Hội thánh, hăy biết trân trọng hồng ân và bổn phận suy niệm và suy tư thần học, ngơ hầu có thể đón nhận mầu nhiệm cứu độ, hiểu biết mầu nhiệm sâu rộng hơn, và loan truyền mầu nhiệm với nhiệt t́nh mới mẻ cho mọi người thuộc mọi thời đại" .

….VIỆC TRUNG THÀNH VỚI THIÊN CHÚA -
ĐỒNG HÀNH CÙNG CON LÚC VUI SƯỚNG và ĐAU KHỔ

Chúng ta đă biết một yếu tố quan trọng trong t́nh cảm (t́nh yêu, t́nh bạn, gia đ́nh, nghề nghiệp…) dù trong giai đoạn nào (bắt đầu hay đă lâu) hoặc ở đâu là, sự chân thành. Nhưng, tôi yêu người yêu chân thành, hết ḷng, rồi một thời gian sau đó quen người khác, tôi cũng yêu hết ḷng, hết ḿnh, có được không ? Tôi thành thật với bạn bè, với vợ con, sau đó tôi gặp bạn khác, người t́nh khác, tôi cũng hết ḷng thương yêu chứ không hề giả dối, th́ sao ? V́ vậy, một yếu tố để đánh giá t́nh yêu đích thực hoặc sự cam kết trọn vẹn là ḷng trung thành.

Một trong đặc tính của ḷng trung thành là luôn hiện diện với người ḿnh cam kết không chỉ trong những lúc thành công, hạnh phúc, sung sướng… mà c̣n trong lúc thất bại, gian nan thử thách, đau khổ. Bởi vậy, ca dao tục ngữ Việt Nam có câu :

"Ai ơi ! giữ chí cho bền,
Dù ai xoay hướng, đổi nền mặc ai !".

C̣n trong Thánh kinh, thánh Gioan nêu khá rơ đặc tính này qua hai đoạn biểu trưng nhất của sự hiện diện của Mẹ Maria trong lúc vui sướng (Ga 2,1-11) và đau khổ tận cùng (Ga 19,25-27).

Tại tiệc cưới Ca-na, thánh sử có ghi : "Có cả Thân mẫu của Đức Giêsu" (Ga 2,1), coi như gợi ư rằng, chính sự hiện diện của Mẹ Maria là sự hợp tác vào sứ mạng của Con. Ư nghĩa của hiện diện đó được biểu lộ khi đôi tân hôn thiếu rượu. Là người nội trợ từng trải và tinh mắt, Đức Mẹ nhận biết t́nh cảnh và đă can thiệp để khỏi mất niềm vui của mọi người, và nhất là giải gỡ khó khăn của đôi tân hôn. Mẹ ngơ lời với Chúa Giêsu : "Họ đă hết rượu rồi" (2,3). Một lời ngơ đầy niềm tin phó thác thay v́ đi t́m rượu chỗ khác. Như vậy, ngoài ư nghĩa việc Đức Maria chính là người giới thiệu Đấng Cứu Thế, chúng ta thấy, Mẹ luôn hiện diện cùng người Con trong việc khai mạc sứ vụ, và luôn cầu bầu cùng tất cả con người trong việc bảo tồn niềm vui. Niềm vui đó sẽ nên vững mạnh và thành hiện thực khi "Các anh hăy làm điều mà Người truyền dạy". Ngoài ra, Mẹ Maria c̣n hiện diện với người Con trong những lúc rao giảng, lúc được ca ngợi là "Phúc thay ai cho Thầy bú mớm", và chắc chắn trong lúc Con ḿnh được tôn vinh tại đền thờ Giêrusalem….

Đó là những lúc "thuận buồm xuôi gió". Nhưng ư nghĩa sâu sắc và giá trị nhất ḷng trung thành của Mẹ Maria chính là: đồng hành với Con trong những lúc đau khổ. Thật ra, trước khi hiệp thông mầu nhiệm đau khổ với Đức Giêsu, Mẹ đă đón nhận điều đó khi được ông Si-mê-on tiên báo "Cháu bé này được đặt làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en phải vấp ngă hay được chỗi dậy, dấu hiệu bị người đời chống báng- C̣n phần bà, th́ một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà, ngơ hầu những ư nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra" (Lc 2,34-35). Một lời tiên báo đau khổ cho Đấng Mêsia, cũng là lời liên kết cuộc đời Mẹ vào chung số phận của người Con.

Nhưng có lẽ đỉnh cao của sự hiệp thông này là việc đứng kề bên thập giá (Ga 19,25). Công Đồng Vaticanô II cũng nhấn mạnh tới chiều kích sâu thẳm của việc Đức Maria hiện diện trên núi Calvario, "Đức Maria đă trung tín duy tŕ sự kết hiệp với Con ḿnh cho tới cây Thập giá" (Ht 58). Qua đó, Công Đồng nhắc tới "sự đồng tử nạn của Đức Maria", những ǵ mà Đức Giêsu đă chịu đau khổ trong tâm hồn và trong thân xác th́ đều vọng lại trong con tim Mẹ. "Mẹ kết hợp hy tế của Con ḿnh và thuận t́nh dâng hiến Thánh Tử v́ phần rỗi nhân loại. Mẹ trở thành tấm gương cho niềm hy vọng vào ánh sáng Phục sinh giữa đêm tối của Thập giá" . Chính khi đó, chúng ta mới cảm thấu được giá trị tuyệt đỉnh của hai tiếng "Xin vâng", một lời đáp trả trọn vẹn của đức tin, một hành động "Cạn tàu ráo máng" thể hiện những ǵ cam kết, chứ không là "chữ kư" suông. Và trong tận cùng của đau khổ đó, Mẹ cho chúng ta một bài học về niềm hy vọng, niềm hy vọng dưới chân Thập giá chưá đựng một ánh sáng c̣n mạnh hơn gấp ngàn lần bóng tối lẫn trốn trong tâm hồn nhiều người. Và nếu như ngày xưa Mẹ đă chia ngọt sẻ bùi với Đức Giêsu, con Mẹ, th́ ngày nay, Mẹ Maria cũng luôn đồng hành với mỗi người chúng ta trong những lúc hân hoan,vui sướng, đặc biệt những lúc khốn cực nhất của một con người : thất vọng, bi quan, bị hiểu lầm, bị chê bai, chống đối….

Mẹ chúng ta là thế đó ! Có bằng cấp nào cấp cho Mẹ không. Những phẩm chất của Đức Maria không dừng lại đó, bởi v́ Mẹ chúng ta c̣n có cả…

MỘT L̉NG BAO DUNG QUẢNG ĐẠI - CHO ĐI TẤT CẢ

Chắc chúng ta đă đọc bài : "Lời cầu của một vị linh mục" vào buổi chiều Chúa nhật . Trong đó có một đoạn viết, "Con gặp thấy nhiều đứa trẻ đang chơi trên vỉa hè,…nhưng Lạy Chúa, những đứa trẻ của người ta chứ không bao giờ là của con…..". Khi đọc những nỗi đau xót của người tận hiến, tôi hiểu phần nào tâm trạng của Mẹ Maria, Mẹ của chúng ta khi xưa. Chúa Giêsu, con ḷng mẹ đă cưu mang, nhưng lại không phải của riêng ḿnh, mà là cho nhân loại, cho dù 9 tháng mang nặng đẻ đau, cho dù đă từng "thất kinh hoảng hồn" khi lạc mất con trong đền thánh (Lc 2,41-50). Chính lúc đó, khi mà Mẹ nhận được lời, "Cha mẹ không biết là Con có bổn phận ở nhà của Cha con sao ?" (Lc 2,49), Mẹ mới cảm thấy rồi đây người con ḿnh đă cưu mang và dạy dỗ chắc chắn sẽ là của muôn dân, chứ không của riêng ḿnh. Ba mươi năm trời sống kề cận bên người Con, chắc chắn Mẹ lo tṛn bổn phận cả ba mươi năm, bởi v́ Mẹ đă nhận lănh sứ mạng : cưu mang và dưỡng dục người Con sinh ra cho muôn dân. Và, người ta "xem quả biết cây", những đức tính nhân bản của người con này thế nào là tuỳ thời gian săn sóc dạy dỗ mà phần lớn là do Mẹ. Điều này đă chứng minh qua việc khen ngợi của dân chúng : "Phúc thay ai đă cho Thầy bú mớm". Đến khi người Con khôn lớn và bắt đầu khai mào sứ vụ bằng sự can thiệp của Mẹ tại tiệc cưới Cana, Mẹ Maria hiểu rằng mốc điểm đó đánh dấu sự cách ly khỏi "t́nh ruột thịt" để nối kết "t́nh thiêng liêng" mang tính toàn cầu.

Nhưng sự cách ly này không phải xa biệt tâm trí, bởi v́ sự cách ly đó không ngăn cản được Mẹ theo dơi con từng bước bằng tinh thần, bằng việc suy niệm và giữ những lời giáo huấn của người Con như trước khi và trong khi sinh ra người Con đó. Quả thật, "Trong thời gian Đức Kitô rao giảng, Mẹ Maria đă đón nhận những lời mà Chúa Con đă đề cao Nước Thiên Chúa lên trên những mối tương quan ràng buộc ruột thịt, những lời công bố chân phúc của những người lắng nghe và tuân giữ lời của Chúa (Mc 3,35; Lc 11,27) và Mẹ trung thành thực hiện điều đó (Lc 2,19.51)" . Mẹ tin rằng chính khi chọn lựa cách ly khỏi người Con của ḿnh và khỏi những t́nh cảm gia đ́nh, như Người đă nói rơ về những điều kiện cho các môn đệ theo Người và dấn thân truyền rao Nước Trời, là chính lúc Mẹ cộng tác với Đấng Cứu chuộc liên kết mọi người trên thế gian thành một khối duy nhất, và đưa tất cả vào dự phần sự sống vĩnh cửu Chúa Cha.

Lược qua cuộc đời Đức Maria, chúng ta thấy, từ lúc đón nhận lời mời gọi cộng tác vào chương tŕnh cứu độ nhân thế bằng hai tiếng "Xin vâng", đến khi nhận thánh Gioan, đại diện cho loài người làm con, (cũng bằng sự vâng lời trong suy niệm), Mẹ Maria luôn thể hiện phẩm chất của một người mẹ tuyệt vời. Tuyệt vời không phải làm những điều kỳ công vĩ đại vượt trên tự nhiên, nhưng tuyệt vời ở chỗ : Mẹ đă nỗ lực phi thường trong những biến cố tầm thường. Chính trong những việc b́nh thường của cuộc sống, những sự kiện ngang trái hằng đầy dẫy đời người, Mẹ đă tỏ ra ḷng khiêm nhường của một thánh nhân trước Thiên nhiệm, một ư chí kiên tŕ của một "nữ Anh thư", một tấm ḷng trung thành của người "Tôi tớ" thực thi lời giao ước đă quyết định chọn lựa, một tinh thần quảng đại cho đi những ǵ ḿnh lănh nhận… Tất cả chỉ là để làm theo thánh ư Thiên Chúa. Chính điều đó mà chúng ta cảm thấy Mẹ rất gần gũi với chúng ta; cũng dễ hiểu, bởi v́ Mẹ Maria là mẹ loài người, là mẹ chúng ta.
Chẳng những thế, Mẹ c̣n,

HIỆN DIỆN VỚI LOÀI NGƯỜI QUA VIỆC CẦU BẦU

Mẹ không là Mẹ chúng ta sao được khi Mẹ có đầy đủ phẩm chất của một người mẹ trần gian, nhưng thực thi ở b́nh diện siêu việt. Ngày nay Mẹ vẫn là mẹ chúng ta, Mẹ loài người trong vai tṛ Vị Trạng sư . Ngay khi ở trần gian Mẹ đă thể hiện điều này qua việc can thiệp trong tiệc cưới Ca-na (Ga 2,1-11); và sự cầu bầu của Mẹ rơ nét hơn kể từ khi nhận làm Mẹ hết của mọi người lúc đứng dưới chân thập giá (Ga 19,26). Công Đồng Vaticanô II cũng làm nổi bật vai tṛ này của Đức Maria khi móc nối sự hợp tác của người vào công tŕnh cứu độ của Đức Kitô : "Do dự xếp đặt của Chúa quan pḥng trên trần gian này, Đức Maria đă trở nên Mẹ cao trọng của Chúa cứu chuộc, cộng sự viên quảng đại một cách đặc biệt và là nữ tỳ khiêm hạ của Chúa" (HT 61). Quả thật, cùng hiệp thông với Đức Kitô, "Đấng có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Người mà tiến lại gần Thiên Chúa. Thật vậy, Người hằng sống để chuyển cầu cho họ" (Dt 7,25). Do đó, nhờ hai tiếng "Xin vâng", Mẹ Maria đă bào chữa và cứu thoát cho E-và khỏi tội bất tuân, nên nguyên nhân cứu rỗi bà E-và và cho toàn thể nhân loại.

Làm sao có thể gọi Mẹ là "Trạng sư" nếu Đức Maria không là Mẹ của chúng ta. Qua Mẹ, chúng ta càng nhận rơ hơn h́nh ảnh của một Thiên Chúa t́nh yêu (1Ga 4,16) đă làm người (Ga 1,14); bởi v́ Mẹ là người mẹ bằng xương bằng thịt để từ đó "Như trẻ sơ sinh, anh em hăy khao khát sữa tinh tuyền là Lời Chúa, nhờ đó, anh em sẽ lớn lên để hưởng ơn cứu độ, nếu anh em đă nghiệm thấy Chúa tốt lành" (1 Pr 2,2-3).

Vậy chúng ta hăy chúc tụng Chúa, v́ Người đă ban cho chúng ta một người mẹ : Mẹ Maria, Mẹ của loài người, Mẹ của chúng ta !


Giuse Nguyễn Cao Luật

Người Mẹ Thầm Lặng
(Lc 2,16-21)

Đón nhận trong im lặng

Sau khi các mục đồng thuật lại những chuyện mới xảy ra, th́ Đức Maria “ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong ḷng” (Lc 2,19).

Đức Maria không chỉ ghi nhớ những kỷ niệm vừa mới xảy ra, nhưng c̣n ghi nhớ tất cả những sự kiện xảy ra cho ḿnh, kể từ ngày sứ thần Chúa đến báo tin Mẹ sẽ cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế. Chín tháng đă trôi qua, biết bao nhiêu điều xảy đến.

Sau những khoảnh khắc ngập tràn ánh sáng v́ sự can thiệp của Thiên Chúa, đời thường trở lại nhịp sống của ḿnh. Dường như cuộc đời ra khó hiểu hơn. Ṭan là một màu xám và một ḷng tin trơ trụi. Từ bối cảnh ấy, một câu hỏi bật lên : “Phải chăng Thiên Chúa đă quên ?”

Ông Giuse cũng đợi chờ Con Trẻ ra đời. Trong thời gian ấy, để t́m được b́nh an, ông được phải ánh sáng từ trời chiếu soi mới có thể thóat khỏi cảnh đêm tối đang vây bọc. Nhưng rồi sau đó, chẳng có ǵ thêm nữa, hết ngày này qua ngày khác trong khi cái bụng của người vợ cứ lớn dần.

Tuy nhiên, trong quăng thời gian ấy, thời gian chịu đựng đầy kiên nhẫn, cũng có một tia sáng : những đứa trẻ nhảy mừng trong ḷng mẹ, khi xảy ra cuộc gặp gỡ giữa người đàn bà già nua Êlisabet và người phụ nữ trẻ Maria. Một khỏanh khắc ngắn ngủn với những lời tán dương, những sấm ngôn và tâm t́nh thờ lạy. Rồi tất cả lại trở nên bí ẩn. Ngày vẫn nối tiếp ngày.

Trong thời gian đầu của cuộc hôn nhân, ông Giuse và bà Maria đă rất ư bối rối ! Họ đă phải cùng nhau xây dựng cuộc sống chung như một lễ dâng trọn vẹn cho Thiên Chúa và cho Đức Kitô mà họ được giao nhiệm vụ săn sóc. Ḷng kính trọng đối với Con Trẻ sẽ ra đời đem lại cho họ niềm vui lớn lao đến nỗi họ quên hết nhọc nhằn. Họ cảm thấy vui mừng, không chỉ là niềm vui b́nh thường của một đôi vợ chồng, nhưng là niềm vui linh thánh, niềm vui xuất phát từ Thiên Chúa. Chính với t́nh yêu này, mà họ quan tâm và chăm sóc lẫn nhau.

 Ông Giuse rất quan tâm đến bà Maria đôi khi tỏ ra khá mệt mỏi, nhất là trong cuộc du hành bất đắc dĩ này, khi bà Maria sắp đến ngày sinh. Các bà mẹ hẳn hiểu rơ nụ cười có giá trị biết bao trong lúc này.

Về phần ḿnh, bà Maria đă cùng với ông Giuse trải qua thử thách này. Bà âm thầm chịu đựng, đồng thời đón nhận những điều xảy đến cho ḿnh với ḷng tin tưởng.

Sau cùng, đứa trẻ đă ra đời. Đầu tiên, chỉ có hai ông bà thờ lạy Con Trẻ. Chẳng bao lâu sau đó, các mục đồng đă t́m đến nơi. Trong bóng đêm, họ đă nhận được ánh sáng của Thiên Chúa. Người đă soi sáng ḷng tin chất phác của họ.

Họ đă gặp thấy Con Trẻ vừa ra đời trong nơi tạm trú của súc vật. Cùng với ông Giuse và bà Maria, họ thờ lạy đấng Mêsia, Đấng Cứu Tinh của dân tộc và cả nhân loại. Sau đó, họ lại ra đi và báo cho mọi người biết : Con Trẻ ấy chính là Đức Kitô đă được các ngôn sứ báo trước.

 Đọc lại tŕnh thuật Tin Mừng này, liệu người Kitô hữu có được cái nh́n sáng suốt như các mục đồng để có thể nhận ra dấu vết của Thiên Chúa trong những cuộc gặp gỡ hằng ngày ? Trong những giờ phút đen tối, họ có biết, cùng với Đức Maria, chia sẻ ánh sáng mà Thiên Chúa đă soi chiếu trong ḷng họ, khi ban cho họ Đức Giêsu ?

Bức tranh tương phản

Xét bề ngoài, Đức Maria chiếm địa vị khákhiêm tốn trong bài Tin Mừng hôm nay, thế nhưng vai tṛ của Mẹ rất quan trọng. Mẹ quỳ đó, im lặng, trong khi các mục đồng và dân cư vùng Bêlem đứng ṿng quanh, như mộr bức tranh tương phản, với vùng sáng và bóng tối.

Theo Tin Mừng Luca, có thể nói các mục đồng là những người ồn ào : sứ điệp do các thiên thần loan báo làm cho họ phấn khởi. C̣n dân cư vùng Bêlem lại ngạc nhiên và ngỡ ngàng khi nghe câu chuyện các mục đồng thuật lại : họ không nói nên lời.

Về phần ḿnh, Đức Maria không có một cử động nào. Mẹ quỳ đó, im lặng, hoàn toàn trái ngược với đám mục đồng cũng như đám dân cư vùng Betlem. Mẹ cũng ngạc nhiên, nhưng không xao động. Mẹ ḥan toàn chú tâm vào những điều tai nghe mắt thấy. Mẹ thu lượm tất cả, và cẩn thận ghi nhớ những ǵ xảy ra, cùng với xác tín rằng : tất cả những điều ấy đều có tính cách quan trọng.

Tin Mừng Luca ghi nhận : Mẹ “suy đi nghĩ lại trong ḷng”. Theo bối cảnh Kinh Thánh, thành ngữ này có ư nghĩa rơ ràng : khi suy đi nghĩ lại những điều các mục đồng thuật lại, Đức Maria chuẩn bị để sẵn sàng đón nhận tương lai sắp xảy đến (x. Lc 1,66). Tương lai của Con Trẻ đó là điều chắc chắn nhưng cả tương lai của Mẹ nữa : v́ Mẹ và Con Trẻ làm sao có thể tách rời nhau được ? chắc chắn rằng Mẹ chỉ hiểu rơ tất cả khi đứng dưới chân thập giá, nhất là sau khi Đức Giêsu đă phục sinh.

Đối với người Kitô hữu, đây lại không phải là một đề tài hấp dẫn để suy niệm khi họ bước vào một năm mới, trong đó Thiên Chúa vẫn luôn ở với họ ? Cần phải học để nhận ra điền này. Và cũng phải biết tạ ơn.

Cả đời trong im lặng

Trong thời khắc linh thiêng này, Đức Maria chia sẻ bằng cách im lặng. Im lặng là t́nh trạng, là con đường, là cuộc đời của Mẹ. Cuộc đời của Mẹ là im lặng thờ lạy Lời Vĩnh Cửu. Khi cưu mang, khi bồng ẵm Lời đó, Lời ngang hàng với Chúa Cha, Lời trở nên con người yếu ớt, mỏng manh, mẹ lại càng thinh lặng và được biến đổi theo gương Ngôi Lời Nhập Thể cũng chính là Con của Mẹ, và là Thiên Chúa của Mẹ.

Như vậy cuộc đời của Mẹ luôn ch́m trong thinh lặng : từ thinh lặng để thờ lạy sang thinh lặng v́ được biến đổi. Tâm trí Mẹ luôn khao khát và bước đi trong thinh lặng.

Mẹ ở trong im lặng, ngây ngất v́ sự thinh lặng của Đức Giêsu. Đây là một trong những hiệu quả linh thánh do sự thinh lặng của Đức Giêsu đem lại : Đức Maria ḥan ṭan im lặng, một sự im lặng đầy khiêm tốn, thánh thiện.

Quả vậy, có thể coi như một điều lạ lùng khi thấy trong khung cảnh cuộc đời thơ ấu của Đức Giêsu, mọi người đều lên tiếng trong khi Đức Maria không nói ǵ cả. Các thiên thần nói với nhau và nói với mục đồng, c̣n Đức Maria giữ im lặng. Các mục đồng chạy đến và lên tiếng nói ; Đức Maria giữ im lặng. Các vị đạo sĩ từ phương đông đến, họ nói chuyện với nhau và với cả thành, cả đế quốc, với cả Thượng Hội Đồng ở Giuđê, c̣n Đức Maria sống trong âm thầm và im lặng… Tại đền thờ, ông già Simêon và nữ ngôn sứ Anna lên tiếng nói ; tất cả những ai đang trông đợi ơn cứu độ cho Itraen cũng lên tiếng nói ; trong khi đó Đức Maria im lặng tiến dâng và nhận lại Người Con của ḿnh. Sự yên lặng của Đức Giêsu đă có uy lực và ghi dấu ấn mạnh mẽ trên tâm trí Đức Maria. Sự yên lặng ấy đă chiếm lĩnh Mẹ và làm Mẹ ngây ngất.

 Trong suốt quăng thời thơ ấu của Đức Giêsu, người ta chỉ nghe thuật lại về thái độ của Đức Maria : “c̣n bà Maria th́ hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong ḷng” (Lc 2,19). Đó là mối bận tâm duy nhất của Đức Trinh Nữ, đó là cuộc sống và hoạt động của Mẹ khi nh́n ngắm Đức Giêsu lúc c̣n thơ ấu !

(theo Pierre de Bérulle, Opuscule de piété, Aubier LX, trang 233-235).


Trước Thánh Thể

NHỮNG NGƯỜI CHĂN CHIÊN HỐI HẢ ĐI ĐẾN BÊLEM
Lc 2,16 – 21

Theo lời Thiên Chúa hứa với tổ phụ Abraham, dân Do Thái vẫn ngày đêm nuôi dưỡng khát vọng mong chờ Đấng Cứu Tinh sẽ xuất hiện, để giải phóng dân tộc Do Thái khỏi ách nô lệ. Giữa thinh không giá lạnh, nơi cánh đồng Bêlem, với nỗi khao khát cháy bỏng, đoàn mục đồng khi được loan báo tin vui Đấng Cứu Tinh đă giáng sinh làm người, họ vui mừng “Hối hả đi đến Bêlem” không một chút do dự, chần chừ. Niềm khao khát bấy lâu nay đă được thỏa ḷng, v́ họ đă đuợc nh́n thấy một Thiên Chúa thật đang hiển hiện. Họ vui mừng ra đi kể lại mọi chuyện về Hài Nhi Giêsu cho mọi người. Và như vậy, một cách nào đó, chính các mục đồng là những chứng nhân, chúng tá sống động nhất của Ngôi Lời làm người, khi mà “Tất cả những ai nghe đều ngạc nhiên về những ǵ họ nói cho biết” (Lc 2,18). Niềm vui gặp gỡ Thiên Chúa không chỉ giữ lại cho riêng ḿnh, nhưng các mục đồng đă đem niềm vui đó chia sẻ cho mọi người. Họ đă thể hiện đức tin của ḿnh cho mọi người bằng nét mặt rạng rỡ khi được thấy Hài Nhi Giêsu.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể !

Chính sự khao khát đợi trông vị cứu tinh xuất hiện, đă thôi thúc mạnh mẽ bước chân các mục đồng t́m gặp Hài Nhi nơi hang đá Bêlem đơn hèn. Mỗi Kitô hữu chúng con, hằng ngày chúng con vẫn được Lời Chúa loan báo những tin vui cứu độ, được Lời Chúa thúc bách và khơi gợi ước muốn t́m gặp Chúa. Thế nhưng, niềm ước mong gặp gỡ Thiên Chúa theo thời gian, như dần phai nhạt với cuộc sống hiện tại đang réo gọi chúng con. Lời Chúa vẫn vang lên hằng ngày, nhưng âm vang ấy dường như trở nên quá quen thuộc đến mức không c̣n đủ mạnh để đốt cháy khát vọng gặp gỡ Thiên Chúa nơi tâm hồn, nơi trái tim của chúng con. Âm vang Ngôi Lời Giáng Sinh đang bị nhận ch́m giữa những tiếng mời gọi hấp dẫn của cuộc sống hiện đại, tiện nghi và hưởng thụ. Niềm hứng khởi t́m kiếm Thiên Chúa không c̣n đủ mạnh để thúc bách chúng con lên đường gặp Chúa, bước ra khỏi toan tính thấp hèn để ra đi loan báo Tin Vui b́nh an cho mọi người như các mục đồng thuở xưa.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể !

Cùng với niềm tin khát khao chờ đón Chúa của các mục đồng, th́ lời xin vâng của Đức Maria trong biến cố truyền tin cũng đă làm cho Ngôi Lời Thiên Chúa được cưu mang trong cung ḷng Mẹ. Lời xin vâng ấy là một sự đáp trả tuyệt vời của Đức Maria trong kế họach cứu độ của Thiên Chúa. Nhờ vậy, qua việc đón nhận và cộng tác cùng Thiên Chúa trong chương tŕnh cứu độ, mà Đức Maria đă được diễm phúc trao tặng tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa. Lạy Chúa, chúng con cũng đang được mời gọi để sẵn sàng đón nhận Lời Chúa vào tâm hồn của chúng con. Ước chi mỗi ngày chúng con biết cộng tác với Lời ấy để biến đổi chính cuộc sống và con ngừơi của chúng con, để tâm hồn của chúng con trở nên cung điện xứng đáng cho Chúa ngự vào, tựa như cung ḷng trinh nữ Maria, Mẹ đă luôn ấp ủ, khắc ghi h́nh ảnh Ngôi Lời trong ḷng Mẹ vậy !

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể !

Qua đời sống sống động mà các mục đồng đă thể hiện, cũng như qua đời sống phó thác tuyệt đối của mẹ Maria, xin cho chúng con biết soi dọi lại con người ù ĺ, khô khan, nguội lạnh của chúng con, để chúng con luôn hăng say khao khát t́m kiếm Chúa. Nhất là mỗi ngày chúng con cảm nghiệm được Lời Chúa một cách sống động trong đời sống cũng như trong những giây phút tâm t́nh cùng Chúa. Có như vậy, chúng con mới nhận biết được thánh ư Thiên Chúa muốn nơi mỗi người chúng con như mẹ Maria vậy ! Đồng thời, xin cũng ban cho chúng con ḷng can đảm và một niềm tin xác tín, để chúng con hăng say ra đi loan báo Tin Mừng của Chúa cho những người chưa nhận biết t́nh yêu của Chúa. Để từ đó, cùng ṭan thể nhân loại này luôn luôn tôn vinh ca tụng Thiên Chúa như các mục đồng thuở xưa vậy ! Amen


Giuse Đỗ Huy Hoàng OP

Lạy Thánh Mẫu Thiên Chúa xin chúc lành cho chúng con
Lc 2:16-21

Tŕnh thuật tin mừng theo Thánh Luca, cho chúng ta thấy toàn bộ khung cảnh của con Thiên Chúa giáng sinh. Một Hài Nhi được sinh ra nơi hang ḅ, lừa trong đêm đông lạnh giá. Hài Nhi được Mẹ ôm ấp và sưởi ấm trong ḷng. Ai tin Hài Nhi mới sinh ra là Con Thiên Chúa? Maria - con người b́nh thường như bao phụ nữ khác lại là Mẹ của Con Thiên Chúa?

Một Maria sinh ra và lớn lên ở vùng quê làng Nazareth như bao phụ nữ khác lại được diễn phúc làm Mẹ của Con Thiên Chúa. Đó là một hồng ân Thiên Chúa ban nhưng không cho Mẹ. Nhưng trước hết Thiên Chúa đă nghĩ đến việc chọn cho con của Người một người Mẹ - Người phụ nữ đă nhiều lần được các ngôn sứ loan báo trong cựu ước và được tiền định từ muôn đời. Thiên Chúa đă tạo dựng người nữ này với một tấm ḷng yêu mến đặc biệt hơn mọi loài thọ tạo.

Rồi đến buổi b́nh minh của ơn cứu độ, Thiên Chúa đă sai sứ thần đến và loan tin cho Đức Maria. Kính mừng, Maria đầy ơn phúc, đó là lời sứ thần đă chào Đức Maria. Bởi Mẹ đă được tuyển chọn giữa muôn ngàn phụ nữ để làm Mẹ Thiên Chúa. T́nh thương Thiên Chúa đă che chở Mẹ ngay từ lúc chưa chào đời và cho đến măi muôn đời. Chúng ta cũng được dự phần vào niền vui và ân phúc của Mẹ, v́ chúng ta cũng được Thiên Chúa tuyển chọn, yêu thương, được tẩy xóa để trở nên một thụ tạo mới.

Đức Maria cũng được Thiên Chúa đặt làm Mẹ Giáo hội và Mẹ chúng ta. Nhờ người chúng ta được sinh ra không phải cho thế giới nhưng cho Thiên Chúa, cũng nhờ người chúng ta được lănh hồng ân cao gấp bội so với sự sống chúng ta lănh nhận từ Eva. V́ thế, trong mọi thời giáo hội khuyên chúng ta tôn kính, yêu mến, trông cậy và phó thác nơi Mẹ.

Lạy Mẹ Maria ! Mẹ đă cưu mang, sinh hạ, nuôi dưỡng Hài nhi, Mẹ cũng thông phần và chia sẻ sự khó nghèo của Hài nhi; Đức Vua khiên hạ nơi máng cỏ. Mẹ quá rơ nỗi thống khổ của cuộc đời Mẹ, cũng như nỗi thống khổ thân phận yếu đuối mỏng ḍn của chúng con, những người đang lần bước chốn dương gian với đầy những cám dỗ ngọt ngào, làm khuấy động tâm hồn chúng con nỗi thèm khát, ham muốn quyền lực, vật chất, danh vọng, sống buông thả theo bản tính tự nhiên. Cám dỗ nào cũng hứa hẹn cho chúng con nhiều hoan lạc, hạnh phúc; nhưng thực ra làm chúng con hèn yếu và tự gian ḿnh trong cái tôi ích kỷ.

Xin mẹ lấy t́nh mẫu tử chăm sóc đoàn chiên của Người như xưa kia Mẹ đă chăm sóc Chúa Hài Đồng, những kẻ đang lữ hành trên trần gian với những hiểm nguy, lo âu, cám dỗ và xin mẹ d́u dắt chúng con chến đến ngày hưởng phúc quê trời.

Từ trời cao các Thiên Thần phục bái và chiêm ngưỡng vinh quang của Mẹ. Các Ngài biết rơ quyền uy của Mẹ và Mẹ măi măi là Mẹ Thiên Chúa. V́ thế trong kinh cầu đức bà, những tước hiệu vinh quang này được chúc tụng đầu tiên và tiếp nối với những tước hiệu khác xứng với chức phẩm của Mẹ : Đức Mẹ cực thanh cực tịnh, Nữ Vương ban sự b́nh an… xin Mẹ cầu cùng Chúa ban cho chúng con b́nh an đích thực của Chúa Hài Đồng như các Thiên Thần hát mừng : vinh danh Thiên Chúa trên trời, b́nh an dưới thế cho loài Chúa thương. Chỉ có b́nh an đó mới giúp chúng con vững bước, để vượt qua những gian nan thử thách, khốn khó ở đời này. Xin Mẹ ban cho toàn thể nhân loại một năm mới b́nh an.

Bắt đầu một năm mới, chúng con lại tiếp tục một hành tŕnh mới. Trên hành tŕnh này cũng có niềm vui, hạnh phúc và đau khổ. Bên cạnh đó nhân loại đang ch́m trong bất an của khủng bố, chiến tranh, dịch bệnh, hạn hán, lũ lụt… xin Mẹ là Người bạn đường, là nguồn cậy trông và hy vọng của chúng con trên mọi nẻo đường, để nhờ Mẹ và qua Mẹ chúng con kín múc được ân sủng và hồng ân Chúa ban, nhờ Mẹ chúng con biết sống tin tưởng và phó thác, biết quảng đại và cho đi. Amen.


Lm.
Jude Siciliano, OP
(Chuyển ngữ:: Anh em HV Đaminh G̣-Vấp)

ĐỨC MARIA MẸ THIÊN CHÚA
Lc 2,16-21

Hẳn chúng ta biết điều ǵ diễn ra trước câu chuyện Tin mừng hôm nay. Quán trọ đã hết phòng và vì thế Hài Nhi Giêsu phải nằm trong máng cỏ. Như thể Luca cho chúng ta hay rằng thế giới mà chúng ta biết, sự hỗn loạn của cuộc sống thường nhật, lãnh vực kinh tế chính trị và thậm chí cả trong các thể chế tôn giáo của chúng ta, cũng không còn chỗ dành cho Đấng Cứu Thế – không theo cách mà Người đến với chúng ta. Các quán trọ của thế giới chúng ta đã quá tải không còn chỗ cho Người. Nếu chúng ta cũng đã làm như vậy, thì chúng ta có lẽ nên sắp xếp lại đồ đạc trong quán trọ của mình, kể cả phải bỏ bớt đồ đi.

Chẳng còn phòng nào dành cho Hài Nhi Giêsu trong các quán trọ chỉ biệt đãi những thượng khách và các ông chủ có quyền lực hơn là những người b́nh dân, thấp cổ bé miệng. Trong khi người ta chỉ quan tâm đến nhau và đến công việc trước mắt, thì Hài Nhi Giêsu trong mang cỏ không thể thấy được hàng chữ “không phận sự miễn vào” sau những cánh cửa. Họ tiếp tục cuộc sống và công việc như bình thường, chẳng cần biết những gì Thiên Chúa đang trao tặng cho họ.

Trong khi đó, Thiên Chúa thì quá bận rộn. Thiên Chúa có thứ “công việc” khác để hoàn thành – công cuộc cứu độ nhân loại. Thiên Chúa tiếp tục thực hiện những gì Người đã luôn làm: chú ý đến nhu cầu của chúng ta và đap ứng. Thực ra, nhiều câu chuyện tương tự đã diễn ra trước câu chuyện hôm nay, không chỉ trong Tin mừng Luca, nhưng từ ngay những trang đầu của Kinh thánh. Thiên Chúa luôn nhớ đến chúng ta, dù cho chúng ta có nhớ hay đã quên Người.

Có rất nhiều người chúng ta mong họ hiện diện ở biến cố vĩ đại của sinh nhật Đức Kitô – nhưng họ đã không đến. Vua và các tư tế vắng mặt. Các thế lực chính trị cũng không; các học giả tôn giáo cũng thế. Những người muốn có cơ hội ở trong hình lại không có. Tại sao họ không nhận lời mời? Phải chăng họ quên kiểm tra thư? Hay thư kí của họ đã để thiệp được in chữ vàng không đúng chỗ? Không phải, bởi vì thiệp mời đến dự sinh nhật của Thái tử Hòa bình đã không được gửi đến họ. Thiên Chúa có ư định mời một số khách đặc biệt đến dự biến cố hoàng gia. Các vị khách được mời đang ở trên cánh đồng. Họ không có hộp thư hay thư kí để mà liên lạc, v́ thế Thiên Chúa sáng tạo đã gửi sứ giả đặc biệt để chuyển lời mời.

C̣n ai ngạc nhiên bằng các mục đồng? Họ đã được loan báo tin vui mà thế giới cần và mong đợi từ lâu. Một sự chuyển trao đặc biệt, tin vui được dành cho những con người đặc biệt thấp kém nhất trong xã hội (cùng với những người thu thuế và những cô gái bán hoa, nhưng sau này họ sẽ nhận được thiệp mời trong Tin mừng). Các mục đồng là một nhóm đáng ngờ. Họ luôn di chuyển và khi họ thu dọn để đến đồng cỏ khác thì những người ở lại sẽ kiểm tra những vật dụng để xem có bị mất ǵ không.

Tuy nhiên, những mục đồng ở bên máng cỏ, những người kém nhất trong phụng tự, đến từ quốc gia có nhiều đồi núi. Họ đã làm gì để có được ơn huệ này, một lời mời đặc biệt, từ Thiên Chúa? Chẳng gì cả. Giáng sinh chính là việc tặng quà. Nó khởi đi bằng chính sự quan tâm của Thiên Chúa đến kẻ bé mọn và trao cho họ món quà. Câu chuyện Tin mừng này là duy nhất trong chi tiết của nó, nhưng ḍng cuối cùng tỏ cho thấy thông điệp then chốt của Kinh thánh mà Thiên Chúa dành cho mỗi chúng ta. Tất cả là ân sủng. Chúng ta bất xứng, nhưng nó vẫn dành cho chúng ta.

Đức Giêsu sinh ra giữa một dân tộc bị đô hộ, trong một thế giới khắc nghiệt. Khác về thời gian, nhưng không khác với chúng ta về điều kiện. Ánh sáng đến thế gian nơi bóng tối xem ra đang thống trị: nghèo đói, chiến tranh, tha hương, nô lệ, cô độc, bệnh tật, bóc lột và chết chóc. Tuy nhiên, việc sinh hạ của Người mang đến cho chúng ta niềm hy vọng rằng cho dù bóng tối hay chết chóc mà chúng ta trải nghiệm, thì Đức Kitô bảo đảm cho chúng ta một đời sống mới. Một Đấng Cứu Tinh đã sinh ra cho chúng ta.

Chúng ta cùng với Đức Maria khi chúng ta suy niệm về “tất cả những điều này” có thể có ý nghĩa cho chúng ta và cho thế giới. Chúng ta khởi đi bằng việc tìm kiếm Đức Kitô trong những nơi thấp kém nhất. Nếu câu chuyện của chúng ta là một sự chỉ dẫn, thì Người có thể được tìm thấy giữa những người không cùng tôn giáo với chúng ta và trong những nơi không ai có thể ngờ tới. Những người có quyền lực có lẽ đă xem ngôi làng Bêlem chẳng đáng ǵ – không nói gì về điều họ nghĩ về chuồng bò lừa và máng cỏ là nơi sinh dành cho Đấng cứu thế!

Tôi nhận được những tấm thiệp Giáng sinh từ bạn bè và gia đình. Nhiều thiệp có những hình trẻ thơ được đưa vào làm biểu tượng cho Giáng sinh. Những đứa trẻ nh́n thật hoàn hảo (tôi chắc cha mẹ tôi hiểu cách khác). Những bức hình Giáng sinh này đang hiện ra trong tâm trí tôi khi tôi cố hình dung khung cảnh Tin mừng hôm nay. Sự hạ sinh đã diễn ra trong hang bò lừa, hay một hang động nào đó phía sau quán trọ. Dù thế nào đi chăng nữa, đó chẳng giống một căn phòng dành cho một Vị Vua hạ sinh. Dẫu chẳng giống như khung cảnh mà Tin mừng vẽ lên cho chúng ta, nhưng đó cũng là bức hình của một sự sum họp gia đình – Maria, một cô nông dân cùng với người chồng thương mến và những mục đồng ở bên cạnh trẻ mới sinh. Đó là một mẫu gia đình phong phú mà Đức Giêsu đã đến làm thành viên.

Qua phép rửa chúng ta trở thành thành viên của gia đình đó. Thiên Chúa biết đời sống chúng ta không phải là bức hình hoàn hảo. Có những lúc, hay lắm khi trong cuộc sống, chúng ta không thể chau chuốt để có một bức hình đẹp trong kỳ nghỉ. Cách nào đó, chúng ta giống những mục đồng này, bị xem thường và bị gạt ra bên lề xã hội, nhưng lại được mời.

Những ngày này, truyền thông đầy ắp với những chính khách đang cố thể hiện cho chúng ta thấy sự hoàn hảo của họ. Xem ra họ là những người không như chúng ta. Họ chuẩn bị những thông điệp để nói với đại chúng. Họ tranh thủ sự ủng hộ của chúng ta. Tôi tưởng sẽ không thể thoải mái khi dùng bữa với họ bên những đĩa mì và rượu vang. Tôi thích chia sẻ bữa ăn với các mục đồng hơn.

Nghĩ về điều đó, tôi thường làm ở mỗi Thánh lễ. Chúng ta đến từ những cánh đồng và những sườn đồi của cuộc sống, mệt nhoài với công việc, bận tâm với những lo toan cho mình, cho con cái và cho thế giới. Một số người trong chúng ta chỉ xuất hiện vào những dịp lễ như thế này, Giáng sinh và Phục sinh. Một số phải gánh chịu những vết thương bên trong hay bên ngoài của gia đình. Một số bị mất mát.

Tất cả chúng ta cảm thấy thoải mái bên bàn cùng với Đức Maria, người mẹ gương mẫu và dấu yêu của chúng ta. Cùng với Mẹ chúng ta “ghi nhớ những kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Những “điều” mẹ thấy và nghe là lời mời của Thiên Chúa dành cho những ai thấp kém và túng thiếu. Đó là lý do chúng ta qui tụ ở Thánh lễ, vì chúng ta cũng là những người túng thiếu. Khi chúng ta nhận những điều tốt lành Thiên Chúa ban, chúng ta sẽ đi ra và tìm các mục đồng khác nơi các cánh đồng để chia sẻ tin vui với họ.