gxdaminh

 
 

CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN B
G 7,1-4. 6-7 / 1Cr 9,16-19. 22-23 / Mc 1,29-39
 

An Phong op : Đời Sống Thường Nhật

Như Hạ op : Con đường nào Chúa đă đi

Fr. Jude Siciliano, op : Kiên Nhẫn Như Ông Gióp

G. Nguyễn Cao Luật op : Một Đời Thương Cảm

Giacôbê Phạm Văn Phượng op : T́nh thương cứu chữa

Lời Chúa Và Thánh Thể : Thiên Chúa nhân hậu lau sạch nỗi khổ đau

Giuse Hoàng Hải Đăng op : Cầu Nguyện Có Sức Biến Đổi Con Người

Fr Jude Siciliano, op : Thiên Chúa luôn ở bên cạnh chúng ta

Fr Jude Siciliano, op: Rao giảng Tin Mừng là sứ vụ

 


An Phong op

Đời Sống Thường Nhật
Mc 1,29-39

Thánh Máccô tŕnh bày một ngày làm việc của Chúa Giêsu, một ngày bận rộn với công việc chữa bệnh, rao giảng Tin mừng, nhưng vẫn dành th́ giờ cho việc cầu nguyện; một ngày lo chuyện "gia đ́nh" của những người thân thuộc, nhưng không quên ra đi "đến các làng xă chung quanh". Một bản văn tóm tắt như thế cho ta thấy những khía cạnh chính yếu của cuộc đời Đức Giêsu. Cuộc đời phong phú của Chúa Giêsu bao hàm nhiều khía cạnh : chiêm niệm và hoạt động, việc nhà và việc nước, với Chúa Cha và với con người... Đời sống đó trở nên nguồn mạch mẫu mực cho nhiều lối sống khác nhau, những ơn gọi khác nhau.

Ngày nay, trong Hội thánh, chúng ta thấy có nhiều ơn gọi khác nhau : ơn gọi gia đ́nh, đơn gọi tu tŕ, ơn gọi giáo sĩ; chúng ta cũng thấy có nhiều linh đạo khác nhau, linh đạo chiêm niệm, linh đạo hoạt động, linh đạo bác ái, linh đạo rao giảng Tin mừng.... Tất cả những bậc sống và những linh đạo ấy đều bắt nguồn từ chính đời sống của Chúa Giêsu và đều phải lầy Chúa Giêsu làm mẫu mực cho ḿnh. Như thế, nếu ta có nhận ra một ơn gọi, một tác vụ nào được Chúa kêu gọi và trao phó cho ḿnh, th́ đồng thời ta cũng phải hiểu rằng c̣n có nhiều ơn gọi và linh đạo khác trong Hội thánh của Chúa. Nhất là ta phải hiểu rằng những bậc sống ấy gắn bó chặt chẽ với nhau, những tác vụ khác nhau ấy tương tác lẫn nhau cách mật thiết. Do vậy, những con đường khác nhau ấy cần t́m thấy mối liên đới hữu ích và sung măn trong sự hiệp thông của Hội thánh Chúa.

Hội thánh là Nhiệm Thể của Đức Kitô, chính Thánh Thần của Đức Kitô là nguyên lư sống của Hội thánh và Thánh Thần làm cho Nhiệm Thể cũng được liên kết, thống nhất với Đầu là Chúa Kitô, trong cách thức hiện hữu cũng như trong hoạt động. Như thế, có thể nói được rằng một bậc sống nào mà muốn loại trừ hoặc khinh thường bậc sống khác là không có Thánh Thần của Chúa; một linh đạo nào không thể chấp nhận hoặc không liên kết với một linh đạo khác th́ chẳng thể xuất phát từ Thánh Thần của Chúa Kitô được.

Trong "một ngày sống" của Chúa Giêsu Kitô, có tất cả đời sống và hoạt động của Hội thánh Chúa; có tất cả mọi hoạt động và linh đạo của mỗi người và mỗi đoàn thể của Hội thánh hôm nay.

Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đă sống một cuộc đời phong phú
và hữu ích cho con người biết bao.

Ngày hôm nay, Chúa ngự vào ḷng con,
Chúa ở với con và làm việc trong con,
xin cho con được cùng với Chúa
để sống, sống phong phú
và hữu ích cho anh chị em của con
như Chúa đă từng sống.


Như Hạ op

CON ĐƯỜNG NÀO CHÚA ĐI
Mc 1,29-39

Hạnh phúc như gần mà như xa. Làm sao thực hiện được những lời cầu chúc đầu xuân giữa một nhân loại c̣n đầy những người nghèo khổ, bị áp bức và bị gạt ra ngoài lề xă hội ? Làm sao hạnh phúc khi con người chưa được làm người v́ bị đè bẹp dưới những cơ chế bất công và truyền thống lỗi thời ?

THỰC TẾ CON NGƯỜI VÀ SỨC MẠNH THIÊN CHÚA

Ngoài Thiên Chúa, không ai có thể đem lại mùa xuân cho nhân loại. Đức Giêsu đă mạc khải cho mọi người thấy sức mạnh phá tan mọi đau khổ, đem lại hạnh phúc cho muôn người, phát xuất tự nơi Thiên Chúa. Đức Giêsu chính là sức mạnh đó. Người biết rơ đau khổ xuất phát tự đâu, tự mối tương quan bị đổ vỡ giữa Thiên Chúa và con người. Nguyên nhân chính của sự đổ vỡ đó là ma quỉ. Nhưng ma quỉ cũng không làm ǵ được nếu con người không muốn. Cuối cùng chính v́ ḷng tham dục của con người, tội lỗi đă lọt vào trần gian và gây nên đau khổ, chết chóc. Như vậy, thực sự không có ǵ mâu thuẫn giữa quan điểm Phật giáo và Kitô giáo về đau khổ. Chỉ khác nhau một điểm, Kitô giáo phân biệt những dục vọng tốt và xấu. Dục vọng xấu xa nhất chính là tính kiêu ngạo đă đẩy con người lên cơi mơ ngang hàng với Thiên Chúa. Con người đă vỡ mộng. Do đó có đau khổ. Hạnh phúc trở thành giấc mơ.

Nhưng có những đau khổ không tùy thuộc vào dục vọng hay ư muốn con người. Có những nạn nhân vô tội chịu đựng những thiên tai khủng khiếp. Biết bao sinh linh đă bị ch́m ngập trong ḍng nước lũ tại miền Trung hay tại Venezuella vừa qua. Chính ông Job đă kinh nghiệm sâu xa về nỗi oan ức đó. Ông không thể hiểu nổi chương tŕnh quan pḥng của Thiên Chúa. Cuộc đời như ch́m trong sự nhàm chán, tuyệt vọng. Giữa đau khổ, ông đă thốt lên : "Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa, và chấm dứt, không một tia hi vọng. Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ" (Jb 7:6-7).

Đức Giêsu cũng là nạn nhân vô tội của một cơ chế bất công. Nhưng Người đă t́m thấy ư nghĩa và niềm hi vọng ngay trong những đau khổ. Người không thể chịu đựng nổi trước những đau khổ của con người. Bởi thế, Người đă ra tay hành động để trấn át ác thần đang hoành hành trong thân xác và tinh thần con người. Điển h́nh, Người đă chữa lành "bà mẹ vợ ông Simon đang lên cơn sốt, nằm trên giường" (Mc 1:30). Khắp nơi "Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ" (c.34). Người đi ngang qua những khổ đau như giới hạn nhốt chặt thân phận con người. Chính v́ thế, quyền năng Thiên Chúa đến như một sức mạnh giải thoát. Nếu đời là bể khổ, Đức Giêsu đă lặn ngụp xuống bể khổ đó và đẩy nhân loại lên bằng chính sức mạnh Tin Mừng. Người đă dùng chính những cay đắng của bể khổ đó để tẩy rửa những vết thương trần gian. Nhờ sức mạnh Thánh Linh, nước bể khổ đó cũng có sức mạnh thanh tẩy những bụi bặm và hôi hám thế tục. Nhờ đó, h́nh ảnh Thiên Chúa xuất hiện nguyên vẹn trong con người và cuộc đời Kitô hữu.

SỨ MỆNH GIẢI THOÁT

Đức Giêsu đă dùng quyền năng Thiên Chúa để đẩy mạnh công cuộc rao giảng Tin Mừng về Nước Thiên Chúa. Tự bản chất, Tin Mừng là một sức mạnh giải thoát con người. Thế nên, Tin Mừng được rao giảng tới đâu, niềm vui dâng cao tới đó. Bằng chứng sau khi khó nhọc t́m Đức Giêsu, các môn đệ reo lên : "Mọi người đang t́m Thầy đấy !" (c.37).

Nhưng chính lúc mọi người t́m Thầy, Thầy lại không muốn dừng lại để hưởng trọn ḷng ngưỡng mộ đó. Thầy không bằng ḷng với những ǵ đă làm. Thầy muốn đi xa hơn những thành công hôm qua. C̣n nhiều nơi khác, nhiều người khốn cùng khác đang chờ đợi bước chân Thầy. Chính Thầy đánh thức các ông khỏi cơn mê ngủ với danh vọng của Thầy : "Chúng ta hăy đi nơi khác, đến các làng xă chung quanh, để Thầy c̣n rao giảng ở đó nữa, v́ Thầy ra đi cốt để làm việc đó" (c.38). Tin Mừng phải hướng tới những nơi đang phủ đầy bóng đêm tội lỗi. Cảnh nhân loại khổ đau đă thôi thúc Thầy tiến tới không ngừng : "Người đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ" (c.39).

Đó là cách Người thi hành sứ mệnh rao giảng Tin Mừng. Nói khác, "đối với thánh Marcô, Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng Thiên Chúa bao gồm toàn thể biến cố, lời nói và hành động" (Dupuis 1995:279). Thật vậy, Người hành động khi làm phép lạ, tiếp xúc với quần chúng, dẹp yên những ảnh hưởng tà thần. Ngay những dụ ngôn cũng đầy dẫy những h́nh ảnh linh động. Ngang qua hành động, Tin Mừng đă được công bố cho muôn dân. "Phép lạ là Tin Mừng đang hành động" (Dupuis 1995:280). Cộng thêm với lời Đức Giêsu nói, các phép lạ thúc đẩy con người chấp nhận Nước Thiên Chúa. Nhất là khi trừ quỷ, Đức Giêsu càng tỏ rơ uy quyền Thiên Chúa vàsức mạnh Tin Mừng giải thoát. Lực lượng thần dữ đă đến ngày tàn. Đức Giêsu đă mở ra một chân trời mới, phóng tầm nh́n nhân loại tới Nước Trời, nơi chan chứa niềm vui và tự do. Từ nay con người sẽ không c̣n phải g̣ bó trong những đ̣i hỏi luân lư cứng ngắc, nhưng hoàn toàn sống tự do theo Tin Mừng v́ Nước Trời đă đến nơi con người Đức Giêsu Kitô.

Tin Mừng Đức Giêsu đă đem lại nguồn an ủi và hi vọng lại cho bao người sầu khổ và thất vọng. V́ Đức Giêsu đă hoàn toàn đồng hóa với những người nghèo và Tin Mừng đă được rao giảng cho họ trước tiên. Tất cả những người nghèo khổ, bị áp bức và bị gạt ra ngoài xă hội đều góp phần xây dựng Nước Thiên Chúa. V́ chính họ sẽ được hưởng trọn niềm vui giải thoát nhờ cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu. Người không chấp nhận đối xử phân biệt với những người kém may mắn về vật chất. Người muốn chống lại những cơ cấu xă hội và tôn giáo bất công, nguyên nhân gây nên cảnh khốn cùng cho con người cả về vật chất lẫn tinh thần. Bởi vậy Tin Mừng có một chiều kích giải phóng toàn diện con người. "Người không phải là một nhà cách mạng chính trị, nhưng cuộc sống và cái chết của Người có một chiều kích chính trị, v́ Người có những thái độ thách thức và đe dọa những nhà cầm quyền tôn giáo và chính trị" (Dupuis 1995:281).

Cũng thế, Giáo hội không phải là một tổ chức chính trị. Nhưng Giáo hội không thể im lặng trước những cảnh người nghèo bị đàn áp bất công. V́ "thúc đẩy thực hiện công lư và tham gia vào việc biến đổi thế giới là một "chiều kích cốt yếu" của sứ mệnh Phúc Âm hóa của Giáo hội." (Dupuis 1995:282) Bao lâu c̣n người nghèo, bấy lâu sứ mệnh Giáo hội càng cấp thiết. Nhân loại hôm nay đang quằn quại dưới những cơ chế tôn giáo và xă hội bất công, người môn đệ Đức Kitô có nghe thấy những tiếng rên siết của bao người bất hạnh đó không ? Rao giảng Tin Mừng là đang đem lại mùa xuân cho nhân loại. Mùa xuân đang đến trên quê hương, v́ các môn đệ Đức Kitô đang xông pha đem Tin Mừng đến cho tất cả những ai nghèo khổ. Tôi có được kể vào số những môn đệ đó không ? Tôi có sẵn sàng đối thoại với mọi người thiện chí và can đảm đối diện với những thách đố thời đại để đem lại hạnh phúc ấm no cho mọi người không ? 


Fr. Jude Siciliano, op

Kiên Nhẫn Như Ông Gióp
(Mc 1, 29-39)

Thưa quí vị.

"Kiên nhẫn như ông Gióp" là câu nói đầu lưỡi của thế giới công giáo, phổ thông nhất là ở ngôn ngữ các nước tây Âu. Nó ngụ ư tán thưởng những ai kiên cường chịu đựng nghịch cảnh lâu dài. Nhưng chắc chắn bài đọc một hôm nay không chứng minh được điều đó. Ngược lại, bài đọc cho thấy trong đau khổ, ông cũng phẫn uất như ai : "Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao ? Và chuỗi ngày lao lung vất vả đâu khác ǵ đời kẻ làm thuê ?" Hoá ra ông Gióp chẳng kiên nhẫn chút nào! Cứ như sự khôn ngoan b́nh dân thời đó th́ khổ đau là h́nh phạt của những điều dữ người ta đă phạm. Nhưng xét trong lương tâm, ông có làm ǵ xấu đâu ? Vậy tại sao ông phải gánh chịu số phận long đong thế này : Con cái chết hết, của cải tiêu tan, ḿnh đầy ghẻ chốc, bạn bè xa lánh, cả đến người vợ thân yêu cũng không tiếc lời khiển trách: "Ông c̣n kiên vững trong đường lối vẹn toàn của ông nữa hay thôi ? Hăy nguyền rủa Thiên Chúa và chết đi cho rồi" (G 2,9). Ông Gióp đă không hiền lành chấp nhận số phận. Ông phản kháng và lư lẽ của ông có phần thuyết phục. Lời cầu khẩn đó xem ra khuyến khích những ai đang chịu đựng cuộc đời gian truân, túng quẫn được phép ta thán trước Thiên Chúa . "Kiên nhẫn như ông Gióp" xem ra không c̣n mấy ư nghĩa.

Vô số người dám gán cho Thượng đế là nguyên nhân gây nên những bất hạnh của ḿnh, bởi mặc dầu đă cố gắng hết sức ăn ngay ở lành, đáng được Thiên Chúa thương gởi tới điều may mắn. Th́ thực tế không phải vậy, toàn gian truân, khổ dịch. Lại có những người khác không dám mở miệng kêu ca, mà giữ im lặng khó hiểu với tâm can uất ức. Lâu dần họ trở nên lạnh lùng, thù địch cùng Thiên Chúa. Trong thánh kinh Cựu ước chúng ta cũng thấy vô số lời phàn nàn trước tôn nhan Thiên Chúa, nhất là trong các thánh vịnh: "Ngày con kêu cứu không lời đáp ứng, đêm van nài mà cũng chẳng được yên" (Tv 22,3). Suy nghĩ kỹ, những lời than văn như trên không phải để trách móc Thượng đế mà để bày tỏ cảm xúc chân thực của ḷng ḿnh. Chúng có khả năng làm tan biến thái độ đạo đức giả h́nh, dồn ép, sơ cứng. Càng trung thực bao nhiêu th́ càng đạo đức bấy nhiêu. Chúng ta có quyền giải bày ḷng ḿnh trước Thượng đế, Đấng có thể thay đổi sự việc, bằng không, chúng ta là những kẻ thụ động nhu nhược.

Trong quá tŕnh sống, nhiều lúc t́nh h́nh xem ra vượt khỏi tầm kiểm soát, có bàn tay nào đó điều khiển cuộc đời chứ không phải đương sự. Chúng ta tự hỏi: "Ai chịu trách nhiệm ở đây ?" những khổ dịch, những sự dữ chúng ta kinh nghiệm chắc chắn không phải do bàn tay Thiên Chúa yêu thương. Ông Gióp cũng cảm nhận như vậy khi nói : "Chuỗi ngày lao lung vất vả đâu khác ǵ đời kẻ làm thuê ?" Thuê mướn là công việc của người khác, làm sao chúng ta có quyền kiểm soát ? Ngày của một người nô lệ là khổ dịch dưới sức nóng ghê gớm của ánh nắng mặt trời. Người nô lệ luôn khát khao bóng mát. Ấy cũng là tâm trạng của ông Gióp, của mỗi người chúng ta. Nhưng vấn đề là điều chi đă sui khiến nên như vậy ? Ông Gióp đă phạm lỗi ǵ ? C̣n tội của mỗi người chúng ta th́ đă rơ. V́ vậy những lời ta thán của tác giả sách Gióp cho độc giả biết tính mỏng ḍn của thân phận con người.

Chúng ta cảm thấy như đi trên mặt hồ đóng lớp băng mỏng, có thể ch́m xuống nước lạnh bất cứ lúc nào ! Trước t́nh thế như vậy, dù có sống tốt th́ cũng không thể tránh khỏi hoạn nạn. Và khi nghe đọc bài sách thánh chúng ta có khuynh hướng bịt tai, la lớn như đứa trẻ khi nghe cha mẹ doạ nạt, hoặc nói về những điều chúng không ưa thích. Dĩ nhiên bây giờ chúng ta đă lớn, ư thức được những hành động ḿnh làm. Nhưng chúng ta lại có những thái độ để khỏi phải nghe điều ḿnh không ưa, như thay đổi đề tài, nói lảng sang chuyện khác. Chúng ta né tránh những điều ḿnh không muốn nghe : bệnh tật, tuổi già, ly dị và các hậu quả tai hại v.v… chỉ thích nghe những điều lạc quan, như tuổi trẻ, sắc đẹp, thể thao, kỹ thuật mới v.v… Cho nên lời của ông Gióp trong phụng vụ hôm nay khó mà lọt thủng tai. Dầu sao một ngày nào đó trong tương lai, mỗi người đều phải thốt lên : "Gia tài của tôi là những ngày tháng khốn cùng, số phận của tôi là những đêm khắc khoải ê chề."

Tôi đă cố gắng t́m ra khía cạnh lạc quan, ơn thánh trong đoạn văn này - nó kết thúc quá ư buồn thảm : "Tôi sẽ chẳng được trông thấy hạnh phúc nữa đâu !"- Khi trước ông Gióp đă là người giầu có, phát tài, của cải nhiều vô kể mà nay rơi vào cảnh khốn cùng, th́ lời yếm thế của ông thức tỉnh tinh thần tôi, không thể cậy nhờ vào vật chất chóng qua mà phải trông mong vào một ḿnh bàn tay Thiên Chúa mà thôi. Tôi phải rút ra từ cuộc đời ông Gióp một bài học quí giá, không chi so sánh nổi. Đó là vững tin vào lượng hải hà của Thiên Chúa. Ngài chẳng bao giờ nỡ bỏ quên chúng ta để chúng ta thất vọng trong ṿng kiểm toả của tử thần. Trong lúc khốn cùng ông Gióp đă cố gắng khơi dậy niềm tin. Ông kêu lên : "Lạy Đức Chúa, xin nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở…" Ông không phải là nguồn gốc sự sống của ḿnh, ông hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa, Đấng đă dựng lên ông, ông như thể muốn nói với Thượng đế : "Lạy Ngài xin nhớ lại, Ngài đă dựng nên con bằng ǵ ! Con hoàn toàn mỏng ḍn, chỉ là hơi thở, một cơn gió thoảng cũng có khả năng làm nó tiêu tan. Xin nhớ lại con chẳng là chi cả, là hư vô, con hoàn toàn lệ thuộc vào Ngài để được sống, được tồn tại !"

Ông Gióp muốn gợi lại tương quan giữa Đấng tạo hoá và tạo vật. Hơi thở trong nguyên bản là "ruah". Nó có hai nghĩa, vừa là gió thổi, vừa là thần lực phát xuất từ Thiên Chúa thâm nhập vào các tạo vật để ban cho chúng sự sống. Cuộc sống con người đúng thực mỏng manh như gió thổi, như mây nổi, như chiêm bao, như bóng ngựa qua cửa sổ, nhất là trước những khổ đau và hoạn nạn. Nhưng cuộc sống con người cũng đến từ hơi thở của Thiên Chúa tức là từ nguồn mạch bền vững và đời đời. Thiên Chúa không thể nào bỏ quên hơi thở của ḿnh. Do đó ông Gióp hy vọng vào sự cứu giúp của Thượng đế. Hy vọng của ông Gióp cũng là hy vọng của mỗi linh hồn tín hữu chúng ta.

Tin mừng hôm nay có cả thảy bốn nội dung. Hợp với Phúc âm tuần vừa rồi, chúng làm nên "một ngày hoạt động của Đức Giêsu". Có rất nhiều điều xảy ra trong ngày đó. Chúa Giêsu rất bận rộn, Ngài hoạt động liên tục. Thiên Chúa cũng rất bận rộn, tất bật. Đó là ngày thứ bảy- ngày nghỉ của con cháu loài người, và xúc vật. Nhưng Thiên Chúa lại liên tục thi ân, giáng phúc trên những tạo vật của Ngài. Sự việc xảy ra ở thành phố cảng Capharnaum (người ta gọi là thành phố của Chúa Giêsu), không phải ở Giêrusalem. Thời ấy Giêrusalem là nơi duy nhất có hy lễ hiến tế. Tín hữu b́nh thường hoạ hiếm mới được đến đấy. Thường th́ họ đi thờ phượng ở các hội đường trong làng mạc hay thành thị. Họ đến để cầu nguyện và nghe giáo huấn.

Chúa Giêsu rời hội đường Capharnaum, nơi Ngài đuổi quỉ ô uế, chữa lành một người điên khùng và bước vào nhà hai anh em Anrê và Phêrô. Lập tức người ta nói cho Ngài hay về bệnh t́nh của bà mẹ vợ ông Simon Phêrô. Ngài tiến lại chỗ bà nằm "cầm lấy tay bà và đỡ dậy. Cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài." Nghe như một câu chuyện b́nh thường, nhưng thực ra thánh Marcô đă dùng ngôn ngữ Tân ước để mô tả câu truyện khỏi bệnh. Chúa Giêsu nâng bà dậy. Đó là từ ngữ để diễn tả Chúa làm cho kẻ chết sống lại. Người được chữa lành có sức sống mới. Sự sống của kẻ phục sinh. Chỉ một ḿnh Chúa Giêsu có quyền ban cho, ngoài ra không ai làm được việc đó cả.

Sự sống mới đó thế nào ? Kinh Thánh nói khi bà mẹ vợ ông Phêrô được chữa khỏi, bà liền đi phục vụ các ngài. Phục vụ trong gia đ́nh là bổn phận của nữ giới. Nhưng thánh Marcô lại dùng từ "diakoneo" từ này chỉ iocông việc phục vụ trong hội thánh. Tiếng Anh gọi là "deacon". Tiếng Việt nam ḿnh gọi là phó tế. Rơ ràng ám chỉ phục vụ cộng đoàn. Khi người ta kinh nghiệm được Chúa Giêsu ban ơn phục sinh, họ lập tức bị thúc đầy phục vụ Giáo hội, phục vụ các linh hồn. Họ muốn chia sẻ những ơn đă lănh nhận với người khác. Không muốn phục vụ hội thánh là dấu chỉ chắc chắn chưa nhận được ơn phục sinh của Chúa Giêsu. Một tư tưởng đáng sợ cho mọi tín hữu. Ngược lại những linh hồn hồ hởi làm việc tông đồ là những người đă được lănh nhận ơn Chúa sống lại. Theo kinh nghiệm th́ những tín hữu hăng say việc tông đồ thường nói rằng : Họ được lợi rất nhiều khi hết ḿnh phục vụ Hội thánh. Không ca thán, không đ̣i hỏi. Họ đă được sung măn trong cộng việc của ḿnh. Họ c̣n cho biết rằng khi làm công việc ấy h́nh như Chúa Giêsu đang cầm lấy tay họ nâng đỡ dậy.

Tóm lại, chẳng có câu trả lời dễ dăi cho vấn đề người vô tội phải chịu đau khổ, kiểu như ông Gióp. Thực ra đau khổ là một mầu nhiệm, vượt quá sức hiểu biết của chúng ta. Nhưng ông Gióp chỉ là câu chuyện tưởng tượng, tác giả đặt ra để thử giải quyết vấn đề. Quyền năng của Chúa Giêsu chữa lành các đau khổ bệnh tật của nhân loại là điều có thực. Không ai chối căi được. Chúa Giêsu, Đấng vô tội đă tự nguyện gánh tội loài người để giải phóng chúng ta, cho chúng ta đựơc tự do. Đó cũng vẫn là điều nhiệm mầu không thể hiểu thấu. Chúng ta cử hành và dấn thân vào mầu nhiệm đó. Điều mà Chúa làm cho bà mẹ vợ ông Phêrô ngày xưa, Ngài cũng c̣n thực hiện cho chúng ta hôm nay. Xin ư thức rơ ràng về điều này. Ngài giơ tay nâng chúng ta dậy khỏi tội lỗi, đau khổ và sự chết, ban cho chúng ta sức sống phục sinh để chúng ta trông thấy các nhu cầu của anh chị em đồng loại và đáp ứng những nhu cầu đó trong nghị lực và niềm vui. Amen.


G. Nguyễn Cao Luật op 

Một Đời Thương Cảm
Mc 1,29-39

Người ta vốn tóm gọn cuộc đời vào bốn chữ sinh, lăo, bệnh, tử. Đă có ngày đem tiếng khóc chào đời th́ cũng có ngày xuôi tay nhắm mắt từ giă cuộc đời. Đă có thời thanh xuân th́ cũng có thời già lăo. Đă có lúc khoẻ mạnh sung sức th́ cũng có lúc bệnh tật, thập tử nhất sinh. Trước thân phận con người như thế, đă có những thái độ khác nhau, hoặc chấp nhận v́ cuộc đời là như thế, hoặc phản kháng v́ thấy cuộc đời như vậy là phi lư, là không thể chấp nhận được.

Tiếng kêu thương

Đoạn văn Cựu Ước Chúa nhật hôm nay kể được là một trong những đoạn văn bi ai nhất sách Gióp, một tác phẩm cỗ xưa đặt vấn đề về đau khổ của con người. Ông Gióp, một người công chính, lâm bệnh. Vợ con ông bêu rếu, phê b́nh, bạn bè không thông cảm, một ḿnh đương đầu với bệnh tật và khổ đau không dứt ... Nhưng thực ra, ông Gióp chỉ là điển h́nh cho bất cứ con người nào đang phải đương đầu với những khổ đau và nghiệt ngă của cuộc nhân sinh. Người ta vẫn cứ phải gánh chịu những tai hoạ khổ đau, oái oăm nhất là không phải người ta tự gây ra cho ḿnh. Lại càng khó hiểu hơn nữa khi người ta không có ǵ đáng phải gánh chịu những khổ đau như thế : chiến tranh, tai hoạ trong thiên nhiên như băo lụt, động đất, những hậu quả do một thiểu số gây ra ... tất cả vẫn đang tiếp tục nối dài ḍng người đau khổ. Cũng như ông Gióp, rất nhiều khi người ta không thể lư giải được tại sao lại có đau khổ như thế. Nhưng lời than văn của ông Gióp dầu không giải quyết được những đau khổ riêng của ông, cũng đă nói lên được niềm trông cậy : ông xin Thiên Chúa cứu giúp.

Vị Thượng Tế biết thương cảm

Cuối cùng, lời hứa của Thiên Chúa đă hoàn thành. Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa, đă đến để cứu chữa những đau khổ nhân loại phải gánh chịu. Khi loan báo Nước Thiên Chúa. Đức Giêsu đương đầu với quyền lực Ác Thần. Và tiếp theo sau đó, Người đă thuyên chữa bệnh tật cho nhiều người trong suốt một ngày. Tác giả Mác-cô tŕnh bày một ngày trừ quỷ và chữa bệnh này như thể đó là ngày mẫu cho một đời thương cảm của Đức Giêsu. Một ngày chữa bệnh cho bà nhạc ông Phê-rô là một đời kiên tŕ và thương xót Hội Thánh, xua đuổi sức mạnh của Ác Thần ra khỏi Hội Thánh để Hội Thánh tiếp tục phục vụ. Một ngày chữa bệnh cho mọi người chen lấn đến xin sẽ là một đời đi khắp nơi chữa trị những khổ đau thể xác và mở mắt tâm hồn cho con người nhận ra ơn cứu thoát.

Nhưng cần đi xa hơn để thấy Đức Giêsu không phải là thầy lang chữa bách bệnh. Người đến cứu thế gian không phải bằng cách dứt khoát loại trừ mọi đau khổ ra khỏi trần gian, để từ nay trở đi không c̣n một khổ đau nào động đến con người nữa. Trái lại, Người đă mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta (Is 53,14 ; Mt 8,17) và dẫu là Con Thiên Chúa, Người đă phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục ... (Dt 5,8). Người ta có lẽ chẳng bao giờ giải thích cặn kẽ được tại sao Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đă đến cứu vũ trụ và con con người bằng cách dang hai tay ra trên thập giá. Tại sao Đấng cứu loài người khỏi khổ đau và chết chóc lại đón nhận một đau khổ nhục nhă nhất như thế ?

Để thiết lập một cộng đoàn biết cảm thương

"Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mc 10,45). Suốt đời dong duỗi đây đó, chữa lành những người bệnh tật đau khổ, nhưng cũng là một đời không ngừng in sâu h́nh ảnh phục vụ theo gương Người: hy sinh mạng sống v́ người khác. Khi chữa lành bà nhạc của ông Phê-rô, Đức Giêsu chứng tỏ Người có quyền trên Ác Thần và nâng cộng đoàn những người tin dậy để có khả năng phục vụ theo gương Người.

Đức Giêsu muốn cộng đoàn những người tin tiếp tục công tŕnh loan báo Tin Mừng Người đă thực hiện. Người muốn cộng đoàn ấy nối dài ḷng thương cảm của Người cho các người khác. Thánh Phao-lô đă thực hiện sứ mạng loan báo Tin Mừng như thế. Người đă trở thành nô lệ mọi người để phục vụ Tin Mừng. Mội tín hữu cũng được mời gọi như thế. Dẫu rằng ngày nay, ta không thể cầm tay một người bệnh và chữa lành người ấy ngay tức khắc như Đức Giêsu đă làm, nhưng ta không phải là không thể dùng ḷng thương cảm, một ḷng thương cảm mà Đức Giêsu đă kín mức từ nơi Chúa Cha, để làm cho một người bệnh cảm thấy được an ủi, một người sầu khổ cảm thấy vơi đi nỗi sầu, một người hèn kém cảm thấy ḿnh được sống đúng giá trị của một con người. Những khi người ta làm được như vậy tức là ngày mẫu được thánh Mác-cô nói về Đức Giêsu lại được tiếp tục thực hiện, ḷng thương cảm của Đức Giêsu lại tiếp tục tuôn chảy và cộng đoàn những người biết cảm thương như Đức Giêsu lại lan rộng để trở thành một cộng đoàn yêu thương như Thiên Chúa muốn.

Lời nguyện của người được sai đi

Lạy Chúa,

Việc loài người biết nhận ra Ngài khi Ngài tự trao ban trong nước của bí tích Thánh Tẩy, trong Thánh Thể, trong Thánh Kinh ... điều đó cũng dễ quan niệm được thôi. Nhưng c̣n việc Ngài lại cũng muốn đi sâu vào cơi thâm cung của ḷng người mà lại qua trung gian của con, th́ quả là khó tưởng nghĩ được.

Làm sao con người có thể nhận ra Ngài nơi con, ít ra là làm sao họ lại có thể hiểu ra rằng con là người được Ngài sai đi, là sứ giả của Chân lư Ngài, là kẻ đem lại ḷng thương xót của Ngài ? Mỗi lần con tự đặt ra vấn nạn này cho ḿnh, th́ h́nh như sứ điệp hạnh phúc mà con thông chuyển lại cho anh em con đă biến thành một gánh nặng khủng khiếp đè trên chính con.

Thật thế, con biết rơ điều đó. Chính Ngài đă sai con đi. Con là sứ giả của Ngài, dù con khốn khổ và nghèo hèn. Con là sứ giả của Ngài, đă được Ngài chọn, bất chấp mọi sự. Con loan báo Chân lư Ngài th́ đó không phải là điều làm chân lư Ngài ra suy suyển. Ân sủng của Ngài vẫn tinh tuyền cho dù đi qua đôi tay trần tục của con. Phúc Âm của Ngài vẫn thực sự là một Tin Mừng, cho dù sứ giả của Ngài không sao để lộ được vẻ hân hoan trong Thiên Chúa là Đấng cứu độ ḿnh. Ḷng thương xót của Ngài vẫn bao la mặc dù được biểu lộ qua tấm ḷng nhỏ bé của con. Ánh sáng của Ngài vẫn chiếu dọi, vẫn biến đỗi bóng đêm âm u của cơi chết thành ánh dương ngày cứu độ, cho dù ánh sáng ấy phải dọi qua những khung kính mờ đục của đời con, của tâm trí phàm trần khốn khổ. ...

Lạy Chúa, Con là người được sai đi, là sứ giả của Con Chí Ái Ngài, của Chúa chúng con. Không c̣n ǵ vĩ đại hơn, không c̣n danh hiệu nào vinh dự hơn. ...

Để đem lại Ánh sáng, để thông chia t́nh thương, con phải nhóm lên chất dầu của cuộc đời con. ...

Lạy Chúa,

Xin để cho con biết ngỡ ngàng khi thấy có những người nhận ra được ḷng thương xót của Ngài, nhận ra Ngài đă sai con đi và đă đón nhận con với tư cách là sứ giả. Xin cho con cảm nhận được niềm vui chân thật và hết ḷng biết ơn Ngài mỗi khi con đứng trước phép lạ ấy, mỗi khi anh em con sẵn sàng đón nhận con trong chốn thâm sâu tâm hổn họ, bất chấp sự bất xứng của con. (K. Rahner)


Giacôbê Phạm Văn Phượng op

T́nh thương cứu chữa
(Mc 1,29-39)

Chúa Giêsu khởi đầu công cuộc cứu chuộc bằng việc giảng dạy và làm phép lạ, Ngài mới bắt đầu nói và làm nhưng chưa mạc khải rơ ràng Ngài là ai, cho nên, trước con người của Ngài, nhiều người ngỡ ngàng, không biết xếp Ngài vào hạng người nào : Ngài có phải là một nhà chuyên môn làm phép lạ không ? là một ngôn sứ, là Ê-li-a hay là một Mê-si-a, cứu tinh của dân tộc Do Thái ? Trong khi đó Chúa Giêsu giữ thái độ im lặng, v́ Ngài biết người Do Thái đang quan niệm sai lầm về Ngài, cho nên Ngài tế nhị dùng việc làm để minh chứng dần dần sứ mệnh của Ngài, một trong những việc làm đó được kể lại trong bài Tin Mừng : Ngài làm phép lạ chữa bệnh sốt rét cho bà nhạc mẫu của ông Phê-rô và tất cả những bệnh nhân đến với Ngài đều được Ngài cứu chữa cho khỏi hết. Với những việc Chúa làm đó cho chúng ta hiểu thêm về uy quyền Thiên Chúa của Chúa Giêsu trên các bệnh nhân.

Thiên Chúa tạo dựng con người và Ngài có quyền trên thân xác và linh hồn con người, có quyền trên thân xác tức là có quyền trên bệnh tật, Ngài có thể chữa lành mọi thứ bệnh tật dễ dàng, giống như một kỹ sư chế tạo ra một cái máy, chắc chắn ông là người hiểu biết và sửa chữa chiếc máy ấy rành hơn bất cứ ai. Chúa Giêsu cũng biết chúng ta như vậy, Ngài là Thiên Chúa, nên Ngài dễ dàng sửa chữa những trục trặc nơi con người, tức là chữa lành mọi bệnh tật nơi con người.

Riêng phép lạ chữa cho bà nhạc mẫu của Phê-rô khỏi bệnh sốt rét có ư nghĩa ǵ ? Chúng ta khó hiểu được ư Chúa muốn ǵ khi làm phép lạ này. Nếu hiểu rằng mỗi phép lạ Chúa làm thường là để tăng cường ḷng tin, th́ ở đây cũng thế, Chúa muốn tăng cường ḷng tin của gia tộc Phê-rô và nhất là đối với Phê-rô. Đàng khác, nếu xét về quan niệm của người Do Thái, họ vẫn coi bệnh sốt rét là h́nh phạt của Thiên Chúa, và bệnh sốt rét là do ma quỷ làm, th́ Chúa Giêsu làm phép lạ này để minh chứng cho mọi người biết Ngài chính là Đấng mà ngôn sứ I-sai-a đă loan báo, là Đấng đến để cứu gỡ con người khỏi sa lầy đau khổ bởi tội lụy, bởi điều dữ. Như vậy, cơn sốt rét tượng trưng cho nhân loại đă bị thần dữ làm kiệt quệ đến sống dở chết dở mà chỉ có Chúa mới có thể chữa lành được. Hơn nữa, phép lạ này cũng diễn tả t́nh yêu Thiên Chúa. Dĩ nhiên hành động nào của Chúa cũng là t́nh yêu, nhưng ở đây thể hiện rơ hơn : nơi đâu Chúa Giêsu đến rao giảng th́ ở đó những con người khổ đau đều ngỡ ngàng, t́m thấy tin yêu và được cứu chữa. Đây cũng là bài học nhắc nhở chúng ta.

Phần đông chúng ta không thể mang lại sức khỏe thể xác cũng như sự thuyên giảm đau đớn cho những anh em bệnh tật, điều đó đă có các bác sĩ, y tá, nhưng chúng ta có một cái ǵ sâu xa hơn, quư giá hơn để mến tặng những anh em ấy, đó là khi tiếp xúc, thăm viếng, chúng ta đem lại cho họ một niềm hy vọng, cống hiến cho họ một chân lư khả dĩ trả lời cho mầu nhiệm đau khổ, và mang lại cho họ sự an ủi chân thật.

Chẳng hạn như lời tự thuật của một người kia đă kể cho linh mục Sam-sông và linh mục này đă kể lại trong một bài giảng ở nhà thờ Đức Bà Paris như sau : “Tôi đau rất nặng, người ta đem tôi vào bệnh viện, không ai săn sóc tôi cả, ngoại trừ một chị y tá, chị tỏ ra rất tốt và hết t́nh giúp đỡ tôi. Một đêm kia, trời đă rất khuya, tôi thấy chị qú gối im lặng trong pḥng, tôi hỏi : “Chị qú làm ǵ thế ?”, chị trả lời : “Tôi cầu nguyện cho ông”. Chỉ mấy tiếng đó thôi đủ làm cho tôi bấy lâu nay không biết Chúa, bây giờ tôi biết Chúa, tôi thấy Chúa nơi con người chị y tá ấy, giữa những đau khổ thể xác và tinh thần, nhờ sự săn sóc đầy t́nh người và những lời cầu nguyện đầy yêu thương của chị y tá ấy, tôi đă gặp Chúa”.

Một thí dụ khác, bác sĩ Long-ghê là một người Pháp đă từng phục vụ ở Việt Nam cách đây mấy mươi năm và cũng nổi tiếng như bác sĩ Tôm Đu-lây, người Mỹ, đă phục vụ ở Đông Nam Á. Ông tận tụy săn sóc, yêu thương các bệnh nhân, bất kể giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, ngày cũng như đêm. Khi có người hỏi v́ sao ông yêu thương bệnh nhân như vậy ? v́ sao ông có thể bỏ ăn bỏ ngủ v́ bệnh nhân, xem bệnh nhân là trên hết ? Ông trả lời : “V́ thấy Chúa Giêsu trong mỗi người bệnh”. Mỗi sáng khi đi dự lễ, bệnh nhân lương giáo, ai muốn đi đều được ông cho đi xe của ông, mỗi chiều Chúa nhật, ông lại đưa các bệnh nhân đi chơi, tham quan nơi này nơi nọ, và mỗi tối, ông lần hạt chung với các bệnh nhân, v́ là người Pháp, về tiếng Việt ông chỉ thuộc kinh Lạy Cha, Kính Mừng, Sáng Danh đủ để lần hạt. Ít lâu sau, Long-ghê trở về Pháp, vào chủng viện, làm linh mục và t́nh nguyện sang phục vụ những người nghèo khổ ở giáo phận Cần Thơ. Nhưng tiếc thay, sau khi chịu chức, ông bị bệnh và qua đời trước khi tới nơi mong ước.

Nếu chúng ta không bắt chước được bác sĩ Long-ghê, th́ chúng ta có thể bắt chước được chị y tá trên đây, cầu nguyện cho các bệnh nhân. Tuy nhiên, cụ thể hơn, nếu chúng ta có điều kiện, chúng ta hăy đi thăm hỏi, an ủi những bệnh nhân. Trong lúc đau bệnh, nhất là bệnh lâu ngày lâu tháng, người bệnh thường lo lắng, buồn phiền, chán nản và giảm sút ḷng tin…chúng ta hăy cảm thông, đối xử tử tế và giúp đỡ họ. Chúng ta hăy noi gương Chúa Giêsu, Đấng không hề bệnh tật ǵ, đă mang lấy bệnh tật của mọi người, bao nhiêu bệnh nhân đến với Chúa, Chúa không bao giờ xua đuổi hay làm cho họ phải thất vọng, đau khổ, nhưng Chúa đă an ủi, thương yêu cứu chữa họ, v́ thế, chúng ta hăy đến với các bệnh nhân, họ rất cần đến t́nh thương, chúng ta hăy đem t́nh thương đến cho họ.


Lời Chúa Và Thánh Thể

Thiên Chúa nhân hậu lau sạch nỗi khổ đau
Mc 1, 29 – 39

Trong thân phận xác phàm, mỗi người đều trải nghiệm và đi qua hành tŕnh sinh lăo bệnh tử. Những yếu đau thể lư là lẽ thường trong cuộc đời con người. Nhạc mẫu ông Phêrô với cơn sốt hành hạ vẫn đang phải mệt nhọc chống trả trên giường bệnh. Thế giới cũng đang có những biến chuyển lớn diễn ra giữa ḷng xă hội với những biến động kinh tế, chính trị và cả văn hoá đă tạo nên những cơn sốt nơi xă hội hiện đại theo chiều hướng tăng dần.

Song song với những cơn sốt dễ nhận biết của thế giới, th́ vẫn tồn tại những cơn sốt xuất hiện trong chính mỗi một người có h́nh thái khó nhận diện và có cường độ cao hơn. Đó là cơn sốt quyền và lợi với thái độ khước từ và loại trừ mạnh mẽ, đang ngày càng làm bùng nổ những cuộc tranh giành không khoan nhượng giữa các quốc gia, giữa những người đồng bào, đồng đạo và thậm chí giữa những người thân thuộc. Đó là cơn sốt kỳ thị xâm chiếm tâm trí khiến con người vô tâm quay lưng trước nỗi khốn khó của người thân cận.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, mỗi người chúng con hằng ngày học hỏi, lao động, khám phá để kiến thiết một thế giới tiện nghi, hiện đại hơn về vật chất. Nhưng những biến cố diễn ra nơi này nơi khác và có khi diễn ra ngay chính trong cuộc sống và trong con người chúng con lại cho thấy một thế giới đang bị tan vỡ bởi chiến tranh, bất công và sự kỳ thị, loại trừ. Lạy Chúa, cơn sốt là phản ứng báo hiệu một sự bất thường có hại cho cơ thể, xin giúp chúng con có được trái tim nhạy cảm và trắc ẩn để đủ sức nhận diện những cơn sốt báo hiệu những mối nguy hiểm của sự dữ đang phá vỡ t́nh người, t́nh huynh đệ và làm mất dần cảm thức về tội trong tâm hồn chúng con, xin Ngài hàn gắn những rạn nứt trong các mối tương quan giữa mọi người do sự thiếu vắng t́nh thương, t́nh người nơi tâm hồn nhân loại.

Những con người trong Tin Mừng hôm nay đă rất vui mừng khi gặp thấy Đức Giêsu, họ đến với Ngài và xem Ngài như một người mang niềm hy vọng xoa dịu nỗi đau đớn thể xác cho họ. Người đă cầm lấy tay bà mẹ vợ ông Phêrô và từng con người đau khổ, Người chữa lành và xua trừ mọi ác thần để giải phóng mọi cơn bệnh, mọi nỗi bất hạnh đang đè nặng thân xác con người.

Lạy Chúa Giêsu, mỗi Kitô hữu chúng con được mời gọi minh chứng cho Tin Vui chữa lành. Tin Vui ấy chỉ thực sự đến với mọi người và hữu ích cho nhiều người nếu chúng con có được một thái độ thân ái không giả tạo khi gặp gỡ nhau và một tâm hồn rộng mở không nghi kỵ, xét đoán hay tư lợi mỗi khi kết giao cùng mọi người. Chúa đă đến và đưa tay nâng đỡ để chữa lành những kiếp sống khổ đau bằng chính ḷng thương xót của Ngài. Xin cũng dạy chúng con ư thức ḿnh cần trở nên khí cụ trong tay Chúa để góp phần nhỏ bé xoa dịu những nhọc nhằn của anh chị em chúng con gặp gỡ trên đường đời về thể xác cũng như tinh thần, v́ chính lúc cho đi là khi được nhận lănh, chính lúc quên ḿnh là lúc gặp được bản thân và chính lúc mất đi là khi vui sống muôn đời. Amen


Giuse Hoàng Hải Đăng op

Cầu Nguyện Có Sức Biến Đổi Con Người
Mc 1, 29-39

Cộng đoàn thân mến !

Bỏ lại sau lưng một tuần lễ làm việc với bao vất vả và lao công khổ trí, với bao lo âu và căng thẳng. Giờ đây, trong bầu khí linh thiêng nơi đền thánh này, cộng đoàn chúng ta xum vầy bên nhau để cầu nguyện, hầu kín múc cho ḿnh những nghị lực mới và những niềm hy vọng mới từ nguồn suối ân sủng bất tận của mầu nhiệm Thánh Thể.

Đây chính là cách thức hành động của Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe. Sau một ngày bận rộn với công việc chữa bệnh và rao giảng Tin Mừng, Người t́m một nơi thanh vắng để cầu nguyện với Chúa Cha. Điều đó cho thấy đối với Chúa Giêsu, việc cầu nguyện là quan trọng, là điều không thể thiếu trong cuộc đời của Người. V́ thế, trước khi bắt tay vào làm việc, Chúa Giêsu thường cầu nguyện với Chúa Cha để kín múc lấy nguồn sức mạnh cho các hoạt động truyền giáo sau này. Và đỉnh điểm của nguồn sức mạnh linh thiêng này được Người biểu lộ trên Thánh giá khi Người cầu nguyện: “Lạy Cha, xin tha cho họ, v́ họ không biết việc họ làm.”(Lc 23,34)

Cảm nhận sâu xa nguồn sức mạnh của cầu nguyện, Người không ngừng mời gọi chúng ta hăy tỉnh thức và cầu nguyện. Bởi chỉ trong cầu nguyện, chúng ta mới kín múc được suối nguồn ân sủng của Thiên Chúa. Nguồn ân sủng dẫn đưa chúng ta đến chỗ trở nên một phần trong sứ vụ của Chúa Giêsu trong việc dẫn đưa mọi người vào trong sự mật thiết với t́nh yêu Thiên Chúa.

Chúng ta hăy nh́n vào mẫu gương cầu nguyện không biết mệt mỏi của thánh nữ Monica, mẫu thân của thánh Âutinh. Suốt hai mươi năm, thánh nữ đă khóc hết nước mắt và liên lỉ cầu xin Chúa hăy cứu vớt con trai ḿnh. Cuối cùng, Thiên Chúa đă thương nhận lấy những giọt nước mắt và lời cầu nguyện của thánh nữ mà cho thánh Âutinh quay trở về với Thiên Chúa. Sau này, thánh Âutinh trở thành một vị thánh cả trong Giáo Hội.

Như vậy, chính sự cầu nguyện thẳm sâu đă nối kết tâm hồn thánh Monica với Thiên Chúa và đem lại cho thánh nữ sức sống vượt lên trên mọi thử thách, đau khổ. Nhờ đó mà thánh nữ không chỉ biến đổi chính ḿnh mà c̣n làm biến đổi người con mà thánh nữ hằng nhớ đến trong những lời cầu nguyện.

Và để có được đời sống cầu nguyện thẳm sâu như thánh Monica, chúng ta hăy học ở nơi người sự tín thác vào Thiên Chúa. Nhờ tín thác vào Thiên Chúa mà chúng ta không chỉ gặp gỡ Người trong tiếng th́ thầm và trong tiếng gió h́u hiu mà c̣n gặp gỡ Người giữa những cơ cực của trần thế, trong những nỗi khốn quẫn và hân hoan của đồng loại. Nhờ đó, chúng ta mang trong tâm hồn mọi đớn đau, sầu khổ; mọi sự đói, cô đơn và cùng khốn của con người.

Và cũng nhờ cầu nguyện, chúng ta để cho sự ấm cúng của t́nh yêu Thiên Chúa làm tan chảy băng giá của sự hận thù, để cho ḷng nhân hậu của Thiên Chúa mở ra một không gian nơi niềm vui khỏa lấp nỗi buồn; để cho sự hiền lành và ấu yếm của Chúa xua tan sự ghen ghét, sự hững hờ. Như thế, cầu nguyện chính là phương thế tốt nhất đưa dẫn mọi đau khổ tới nguồn mạch của mọi sự chữa lành.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,

Đôi khi v́ thiếu ḷng tin, chúng con đă không c̣n thấy nhu cầu để cầu nguyện. V́ những bận rộn, lo toan trong đời sống mà chúng con không c̣n muốn chạy đến với Thiên Chúa. Nhất là v́ thấy những lời cầu xin của ḿnh không được như ư nên chúng con cảm thấy chán nản, thất vọng và buông xuôi. Xin ban cho chúng con niềm tin mạnh mẽ để chúng con tin rằng những lời cầu nguyện của chúng con nhất định sẽ được Chúa nhậm lời. Để từ đó, chúng xác tín rằng cầu nguyện là lẽ sống, là hơi thở của đời con. Và một khi đă xác tín như thế, chúng con sẽ sẵn sàng dành trọn 30 phút mỗi ngày cho việc cầu nguyện.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin cho con luôn biết phó thác cho t́nh yêu bao la và quan pḥng của Thiên Chúa trong từng giây phút đời con để trong con không c̣n một khát vọng nào khác ngoài sự kết hiệp mật thiết với Chúa. Amen.


Lm Jude Siciliano, OP (
Chuyển ngữ : Anh em HV Đaminh G̣-Vấp)

THIÊN CHÚA LUÔN Ở BÊN CẠNH CHÚNG TA
Mc 1: 29-39

Có thể người đọc sách thánh hôm nay sẽ yêu cầu các phụ huynh lấy tay bịt tai con ḿnh lại trước khi nghe đọc bài sách Gióp. Chắc chắn đây là một bài đọc bi thảm, (“…số phận của tôi là những đêm đau khổ ê chề… mắt tôi sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ”). Những người lớn như chúng ta khi nghe đọc bài sách này liệu đến cuối bài đọc chúng ta cũng sẽ thưa như thường khi “Tạ Ơn Chúa” ? Điều đó có xa lạ với chúng ta khi chúng ta nghe tin dữ ?

Khi bi kịch ập xuống trên một ai đó, đôi lúc họ sẽ phải thốt lên “Tôi đă làm ǵ khiến Chúa phạt tôi thế này ?” Đó là cách phản ứng tự nhiên và nó gắn liền với một lối phản ứng xa xưa mà con người thường tỏ ra cách này hay cách khác. Những tôn giáo trước đây từng nói “các thần linh đang phạt chúng ta”. Rồi họ đốt lên một đống lửa và hiến tế một người để các thần linh bỏ qua.

Những người nói vài câu đạo đức rởm thường chẳng giúp được ǵ khi đối diện với những nỗi đau quá sức chịu đựng. “Sau cơn mưa trời sẽ sáng”. “Chúa chẳng đời nào lại thử thách quá sức chịu đựng của chúng ta”.

Sách thánh hôm nay tŕnh bày cho chúng ta nhân vật Gióp bi thảm. Ông là người rộng lượng và có một gia đ́nh lớn. Ông dường như mất tất cả: con cái, tôi tớ và của cải. Để khiến cho t́nh trạng tệ hại hơn, ông c̣n mắc một chứng bệnh ghê tởm, và ngồi trên đống phân súc vật. Đau buồn đă khiến cho tâm hồn ông tan nát. Ai dám nói ḿnh đau khổ hơn Gióp? Người khôn ngoan thời đó có lẽ đă cho rằng chắc hẳn ông đă làm điều ǵ đó rất xấu nên mới bị phạt nặng như thế. Nhưng thực ra ông có làm ǵ ác đâu; ông là một mẫu người vô tội nhưng phải chịu khổ.

Những người bạn đến an ủi ông. Họ nhất định cho rằng ông đă phạm tội và khuyên ông hối cải. Nhưng Gióp xác quyết sự trong sạch của ông. Ông than trách ngày ông sinh ra và chờ đợi mỏi ṃn đến khi chết. Thậm chí ngay cả vợ của Gióp cũng không chấp nhận sự quả quyết của ông và thúc giục ông “hăy trách cứ Thiên Chúa và chết đi!” Thái độ phản kháng hợp lư khi không có niềm hy vọng trong những hoàn cảnh khốn cùng của chúng ta là t́m đến cái chết.

Gióp ngờ ngợ rằng t́m kiếm những lư do giải thích cho những đau khổ thực ra chẳng đưa ḿnh tới đâu. Ông cũng không nghe theo lời đề nghị của vợ ông v́ dù cho ông có phải mất mát và đau thương th́ ông cũng nhất quyết không rời xa Chúa. Thế nên ông quan qua Chúa để bày tỏ những phàn nàn của ḿnh. Đức Chúa không đáp lại để giải quyết những khốn khổ mà ông đang phải chịu, nhưng nói đến những hữu hạn của con người và uy quyền của Thiên Chúa. (“Lời Đức Chúa phán dạy”, các chương 38-41 là áng thơ uy hùng về vương quyền của Thiên Chúa)

Cũng như Gióp, chúng ta muốn có câi trả lời cho những vấn nạn quan trọng trong cuộc sống. Gióp đă nhượng bộ Thiên Chúa uy nghiêm và bí ẩn mà ông từng chiến đấu với. Mối tương quan của ông với Chúa ngày càng khắng khít và sâu đậm hơn. Nhưng sách Gióp không khép lại với câu trả lời chắc chắn cho những vấn nạn về sự khổ. Cùng với Gióp, chúng ta cũng bị bỏ lại trong mầu nhiệm và được mời gọi để tin tưởng.

Chúng ta trở lại với bài Tin mừng và thật không dễ ǵ t́m được câu trả lời cho những vấn nạn mà Gióp và chúng ta đặt ra. “Câu trả lời” mà chúng ta nhận được là chính Đức Giêsu. Trong Đức Giêsu, Thiên Chúa đề cập đến những khúc mắc và thiếu thốn của chúng ta. Người nhanh chóng cho chúng ta biết Thiên Chúa đă đáp lại những thiếu thốn của chúng ta trong sứ vụ của Người, bằng cách trước hết chữa lành bệnh cho bà mẹ vợ của Phêrô và những người “ốm đau, bệnh tật và trừ quỷ”.

Có những thắc mắc đối với những người thời Đức Giêsu và v́ thế, trong con mắt loài người, những việc chữa lành này không khiến cho Người trở nên độc nhất. Khi Người đi cầu nguyện, Simon và những người bạn của ông “đi t́m Người”. Những môn đệ đầu tiên này có lẽ đă xem Đức Giêsu như một người tuyệt vời – có khả năng chữa mọi bệnh hoạn tật nguyền của con người. Họ cho rằng ḿnh đă nắm được vận may, một tương lai tươi sáng với Đức Giêsu đang chờ đón họ. Họ đi t́m Đức Giêsu v́ họ muốn nhiều phép lạ nữa được thực hiện ở đây. Nhưng Đức Giêsu bảo họ là phải đi đến các làng khác nữa. Họ phải bỏ lại sau lưng những niềm phấn khởi mà Đức Giêsu khơi lên nhờ việc chữa lành và sự nổi tiếng mà họ được chia sẻ với Người. Người c̣n nhiều việc phải làm và họ c̣n phải học hỏi nhiều hơn nữa.

Trong suốt Tin mừng Maccô, Đức Giêsu thường xuyên bị hiểu lầm, nhất là từ phía các môn đệ. Trong khi Người là người trị bệnh và trừ quỷ, các ông và cả chúng ta luôn thắc mắc “Những việc lạ lùng đó cho chúng ta biết ǵ về Người? Những việc đó nói v́ về Thiên Chúa, nhất là trong những khía cạnh đau khổ và thiếu thốn?” Các môn đệ của Đức Giêsu chỉ nhận thấy một người kỳ lạ. Khi chúng ta cùng lên đường với Người qua Tin mừng Maccô, lắng nghe giáo huấn của Đức Giêsu và chứng kiến những công việc phi thường của Người, liệu chúng ta có đón nhận Thiên Chúa cứu độ mà Đức Giêsu đang tỏ bày cho chúng ta? Liệu chúng ta có c̣n trung thành và hy vọng nơi Thiên Chúa, dù giữa những góc khuất của cuộc đời?

Tất cả những chứng cứ chẳng là ǵ cho đến sau khi Đức Giêsu chết và sống lại. Nếu Người đă thực hiện những việc lạ lùng, chết và trỗi dậy, rồi về với Chúa Cha th́ qua Người chúng ta có thể bước vào mầu nhiệm cuộc sống của Người như đă được tỏ lộ. 

Trong Đức Giêsu và qua những phép lạ Người thực hiện chúng ta nhận ra rằng vương triều của Thiên Chúa đă tan vở trong cuộc đời chúng ta. Chúng ta nhận ra trong Đức Giêsu rằng dù chúng ta không t́m được câu trả lời cho những khốn khổ mà chúng ta và thế giới này đang gánh chịu, th́ những khốn khó đó cũng không phải là những h́nh phạt Thiên Chúa giáng trên chúng ta v́ những sai trái chúng ta đă trót phạm. Đức Giêsu mặc khải cho ta biết sự quan pḥng và chữa lành của Thiên Chúa luôn hiện hữu giữa chúng ta. Điều này giúp chúng ta hy vọng dù chúng ta không có được câu trả lời cho vấn đề đau khổ, chúng ta cũng chắc chắn rằng ma quỷ cuối cùng cũng sẽ thua cuộc và rằng qua Đức Giêsu, Thiên Chúa luôn ở cạnh chúng ta.

Chính Đức Giêsu cũng đă trải qua nhiều khổ cực, giống như Gióp, Người không bỏ cuộc nhưng luôn hy vọng nơi Chúa khi Người phải đối diện với lực lượng quỷ thần. V́ Đức Giêsu, chúng ta cũng hy vọng và mong chờ sự phục sinh vào cơi vĩnh hằng. Không như những lời an ủi của Gióp, Đức Giêsu bày tỏ một bản tính đích thực của Thiên Chúa cho chúng ta. Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa luôn yêu thương, Đấng không bao giờ bỏ rơi chúng ta khi chúng ta chịu đau khổ và buồn phiền. 

Lm. Jude Siciliano, OP.

 

Rao giảng Tin Mừng là sứ vụ

 G 7,1-4.6-7;  1 Cor 9,16-19.22-23; Mc 1,29-39

Kính thưa quí vị,

Phải chăng nhiều người sẽ cảm thấy lạ và bối rối khi nghe đọc viên kết thúc bài trích sách Gióp: “Đó là lời Chúa”, và chúng ta đáp lại “Tạ ơn Chúa”? Quả vậy, cuối đoạn trích, Gióp ca thán t́nh cảnh bi đát của ḿnh, “mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ.” Gióp thật đáng thương! – ông đă có nhiều thứ và rồi mất mọi thứ - nào là con cái, của cải, đất đai, và đầy tớ. Ông lại mang căn bệnh khủng khiếp và ngồi trên đống phân. Liệu chúng ta có muốn đáp trả bẳng lời “Tạ ơn Chúa” không? Có lẽ chúng ta cũng than văn như ông Gióp, “Sao tôi khổ thế này!”

Những kẻ được gọi là bạn bè chẳng giúp được ǵ. Họ đến để “an ủi” ông và vô t́nh làm cho ông bị tổn thương thêm khi hối thúc ông xin Chúa tha tội. Trong cách nghĩ của họ, người tốt được Chúa “chúc lành” ở đời này với nhiều của cải, sức khỏe và con đàn cháu đống; c̣n tội nhân bị chúc dữ với nghèo khổ và bệnh tật. Thảm cảnh của ông Gióp gợi lên trong trí họ rằng ông bị Chúa phạt v́ đă phạm tội. Ban đầu, những người bạn của ông ngồi thinh lặng bên ông suốt một tuần. “Họ ngồi xuống đất bên cạnh ông, suốt bảy ngày đêm, chẳng nói với ông một lời, v́ họ thấy rằng nỗi đau khổ của ông  quá lớn” (G 2,13). Đôi khi đối diện với nỗi khổ quá lớn của ai đó, tất cả những ǵ chúng ta có thể làm là ở bên họ trong thinh lặng. Sự thinh lặng ban đầu của những người bạn ông Gióp là một chọn lựa tốt hơn những ǵ họ làm sau đó.

 Những người bạn của Gióp đă phạm sai lầm khi cố khuyên nhủ ông. Họ gắng thuyết phục ông rằng chắc hẳn ông đă làm điều ǵ đó không tốt nên mới đến nông nỗi này. Gióp nổi giận v́ “liều an thần” của họ. Ngay cả vợ ông cũng hùa theo luận điệu nhạo báng của đám người khuyên nhủ ông, “Hăy nguyền rủa Thiên Chúa và chết đi cho rồi” (2,9).

Ông Gióp là h́nh ảnh người tốt vô tội phải chịu đau khổ. Khi kẻ xấu chịu khổ chúng ta có thể lư giải rằng họ nhận được những ǵ họ đă gieo; nhưng khi người vô tội phải chịu đau khổ chúng ta không thể viện ra lư do nào để lư giải cho nỗi đau của họ. Ông Gióp không thể hiểu nổi tại làm sao những chuyện ấy lại xảy đến với ḿnh. Ông bị hoảng loạn v́ những mất mát, nỗi đau thể lư lẫn tinh thần. Điều tệ hại hơn là ông không thể hiểu tại sao Thiên Chúa lại đối xử với ḿnh như vậy. Ông trách cứ Chúa, nhưng ông không bỏ Chúa. Ông không đánh mất mối tương quan với Chúa. Quả vậy, vào đoạn cuối sách Gióp, mối tương quan của ông với Chúa trở nên sâu sắc và mạnh mẽ hơn. Giống như ông Gióp, đức tin của chúng ta cũng bị thử thách bởi những đau khổ không lư giải được. Làm sao chúng ta có thể giải thích được? Chúa ở đâu khi chúng ta đang ở tận cùng của đau khổ? Ngài bênh vực ta hay chống lại ta? Phải chăng sự đau khổ là dấu chỉ chúng ta đă làm phật ḷng Chúa và v́ thế bị Người phạt? Giờ đây chúng ta sẵn sàng lắng nghe bài Tin Mừng.

Đức Giêsu không chấp nhận lối nghĩ thông thường lúc bấy giờ, rằng đau khổ là hệ quả của tội lỗi hay vi phạm một điều luật tôn giáo nào đó. Sứ điệp của Đức Giêsu ngược lại hoàn toàn. Tin Mừng Máccô mô tả Đức Giêsu không ngừng loan báo triều đại Thiên Chúa qua lời nói và việc làm. Máccô thường bắt đầu tŕnh thuật với “Ngay tức khắc…” “Ngay khi…,” “Khi ấy…” để nói lên sự liên tục trong các hoạt động của Đức Giêsu. Như thể muốn nói, Người nóng ḷng loan báo Tin Mừng của nước Thiên Chúa.

Sứ vụ của Đức Giêsu sẽ dẫn Người đến cây thập giá, nhưng như ông Gióp, Người không bỏ Thiên Chúa, ngay cả khi Người bị cám dỗ và lúc đau đớn tột độ. Người sẽ tiếp tục giảng dạy nhân danh Thiên Chúa bởi v́, như Người đă nói, “V́ điều này mà Tôi đă đến thế gian”.

 

Đức Giêsu đến nhà ông Simon và được nghe nói  người mẹ vợ của ông bị ốm. Người không nói ǵ, nhưng chỉ “cầm lấy tay và đỡ bà dậy.” Động từ Máccô sử dụng là “egeiren”, cũng chính là động từ dùng để mô tả sự phục sinh của Người (16, 6). Như vậy đă có một manh mối trong tŕnh thuật này về sự sống mới Đức Giêsu ban tặng cho chúng ta. Máccô nói với chúng ta rằng người đàn bà đứng dậy và “phục vụ các ông.” Không ai yêu cầu bà phải phục vụ, ngược lại, chính bà đă có sáng kiến ấy. Đấy chính là điều mà tất cả các môn đệ cần phải làm sau khi nhận được đời sống mới trong Đức Kitô. Chúng ta hăy nh́n quanh ta để t́m cách nào có thể để phục vụ cộng đoàn – làm mục vụ. Bà mẹ vợ ông Simon là “trợ tá” (người phục việc) đầu tiên.

Khi ông Simon và những môn đệ khác được bảo rằng nếu họ muốn theo Đức Giêsu, họ phải phục vụ người khác “Ai muốn làm lớn giữa anh em th́ phải làm người phục vụ anh em.” (10:43-44), th́ họ cưỡng lại. Mẹ vợ ông Simon dường như đă hiểu được điều này. Thế nhưng các môn đệ th́ không, măi cho đến khi Đức Giêsu sống lại và sai các ông đi vào thế giới để công bố Tin Mừng (16, 15). Trong khi đó, mẹ vợ ông Simon đă thực hiện những ǵ bà có thể trong khung cảnh đơn sơ ở nhà ḿnh: bà phục vụ người khác sau khi được Đức Giêsu  cho “trỗi dậy”.

Quả là một ngày bận rộn đối với Đức Giêsu: Người chữa lành mẹ vợ ông Simon, chữa nhiều kẻ bệnh tật và trừ quỷ. Người đi khỏi đấy để cầu nguyện, nhưng ông Simon và những người khác “đi theo,” hoặc “lần theo” Đức Giêsu. Động từ dùng để diễn tả hành động của họ là động từ dùng trong việc săn lùng động vật. Như vậy có một nét nghĩa mạnh mẽ và hung hăng trong động từ này. Một lối tiếp cận tŕnh thuật Tin Mừng ngày hôm nay có lẽ là sự tương phản giữa việc làm môn đệ Chúa theo cách mẹ vợ ông Simon, đối lại với sự mănh liệt của các môn đệ của Đức Giêsu “lần theo” Người và muốn Người quay về với đám đông náo nhiệt. Liệu các ông có hưởng được sự nổi danh và thán phục của dân chúng dành cho các ông v́ các ông thuộc về nhóm người đi theo Đức Giêsu? Các ông có muốn trở lại với những đám đông tôn sùng các ông không? Đức Giêsu đă kéo các ông ra khỏi những ước mơ vinh quang của các ông, v́ Người phải tiếp tục đi đến những nơi khác “để Người c̣n rao giảng ở đó nữa.”

Đức Giêsu phải đi ra khi trời c̣n tối, “trước hừng đông”, để cầu nguyện. Trong Tin Mừng Máccô, bóng tối không phải là một nơi dễ chịu hay là nơi dành cho việc chiêm niệm cầu nguyện. Phải chăng trời c̣n tối khi Đức Giêsu cố phân định đâu là sứ mạng thực sự của Người? Trong các tŕnh thuật phục sinh, các người phụ nữ ra mộ Đức Giêsu “ngay sau khi mặt trời ló dạng” (16, 2). Bóng tối hiện hữu trong trần gian và nơi các môn đệ sẽ bị xua tan bởi ánh sáng phục sinh của Đức Giêsu.

Chúng ta vẫn đang ở phần đầu của Tin Mừng Máccô, nhưng chúng ta cũng thoáng thấy được những ǵ sắp diễn ra; triều đại Thiên Chúa sẽ nhập thể như thế nào. Chúng ta đă thấy các tầng trời mở ra (1:10); cuộc chiến đấu với Satan nơi hoang địa (1:12-13), giáo huấn về triều đại Thiên Chúa sắp đến; Chúa gọi các môn đệ đâu tiên (1, 16-20). Và chúng ta vẫn c̣n trong chương một! Đó là “ngày thứ nhất” của Tin Mừng.

Tại thời điểm này trong câu chuyện, “ngày thứ nhất” chúng ta đă nếm được hương vị và nắm bắt được mẫu thức của toàn bộ Tin Mừng Máccô. Trong các Chúa Nhật tới chúng ta sẽ được nghe Đức Giêsu bắt đầu dạy dỗ các môn đệ, tiếp tục giảng dạy và chữa lành trên hành tŕnh về Giêrusalem. Câu chuyện chỉ mới bắt đầu và mỗi tuần chúng ta lại được nghe nhiều cách Đức Giêsu mang lại cho thế giới triều đại ân sủng của Thiên Chúa.

Chúng ta sẽ làm ǵ khi phải nếm trải sự đời, khi mà đau khổ và nghi nan ghi dấu ngày sống của ḿnh? Liệu chúng ta có giữ vững được sự tín thác nơi Thiên Chúa như ông Gióp không? Chúng ta có nhận được niềm hy vọng và sự can đảm mà Tin Mừng mang lại không? Chúng ta đến với Thiên Chúa và đặt ḿnh trong tay Người, luôn đứng vững nhờ niềm hy vọng ta có trong Đức Giêsu.