Năm A

 
 

Chúa Nhật XXVI Thường Niên - Năm A
Ed 18,25-28 / Pl 2,1-11 / Mt 21,26-32
 

An Phong op : Nói Vâng Với Chúa Bằng Cả Cuộc Đời

Như Hạ op : Thách Đố Cuối Cùng

Fr. Jude Siciliano, op : Lời nói phải đi đôi với việc làm

Fr. Jude Siciliano, op : Xin thức tỉnh lương tâm chúng con

Đọc thêm : Ai Đắc Đạo ?

Lm. Jude Siciliano, op : Chúa mời gọi : Lạy Chúa, con đây

G. Nguyễn Cao Luật op : Có hay là không ?

Giacôbê Phạm Văn Phượng op : Tự do đích thực

Lời Chúa và Thánh Thể : Xin chỉ cho con biết đường lối Chúa

Micae Phạm Vũ Giang Đ́nh op : Lạy Chúa, này con xin đến thực thi ư Chúa.

Đỗ Lực op : Khi ngôn sứ thức dậy

Fr. Jude Siciliano, op : Hôm nay con hăy đi làm vườn nho

Fr. Jude Siciliano, op: Hăy đi làm vườn nho cho Chúa

 


An Phong op

Nói Vâng Với Chúa Bằng Cả Cuộc Đời
Mt 21,26-32

Tin mừng hôm nay thuật lại câu chuyện hai người con được kêu gọi để làm vườn nho cho cha. Một người, ban đầu từ chối (no); nhưng sau anh hối hận và đi làm (yes). C̣n một người đồng ư (yes), nhưng lại không đi làm (no). Như thế, người con thứ nhất là loại người "no" trước "yes" sau; c̣n người thứ hai là người "yes" trước "no" sau.

Lời nói và việc làm phải đi đôi với nhau, đó là một đ̣i hỏi tất yếu trong cuộc sống và trong đời sống Đức Tin. Đức Tin là một tiến tŕnh thuận theo (yes) Đức Giêsu bằng cả lời nói, cả việc làm, và cả cuộc đới. "Đức Tin không việc làm là Đức Tin chết" (thánh Giacôbê). Đôi lúc, một công việc nhỏ bé được thực hiện v́ Đức Tin lại có giá trị hơn một công việc lớn mà do một động lực nào khác. Ai cho một người bé mọn, dù chỉ một chén nước lă thôi - nhân danh Đức Kitô - th́ đă nói được tiếng yes với Chúa rồi.

Bạn có bao giờ thể hiện Đức Tin - cho dù c̣n chưa "bằng hạt cải" - trong một hành động nào, dù thật nhỏ bé chưa ?

Một kinh nghệm về sự yếu đuối (no) đôi khi có thể là cơ hội hoán cải. Nguyễn Huy Thiệp, đă có lần viết : "Ngập trong bùn : khuấy động nó lên, thăng hoa nó - và thế là chí thánh". Đức Giêsu đă đến để kêu gọi người tội lỗi chứ không phải người công chính. Những ngời thu thuế, gái điếm là những người tội lỗi, nhưng họ đă biến cái "no" của gian tham, dục vọng… thành cái "yes" của sự chấp nhận thân phận tội lỗi, dám đưa tay cầu khẩn ơn tha thứ, và thay đổi đời sống.

Ban đă bao giờ dám chân nhận bản thân ḿnh; và thật sự cần đến ơn cứu độ của Chúa chưa ?

Một tiếng "yes" hời hợt, vô trách nhiệm sẽ dễ dàng dẫn đến tiếng "no". Những người sống hời hợt, những người dễ dàng nói "yes" đối với nhiều chuyện, nhất là những chuyện "đạo đức" có lợi cho bản thân ḿnh; chưa hẳn đă dám nói tiếng "yes" với Chúa trong những chuyện khó khăn, gian khổ. Ai đó đă nói "một lỗi lầm lớn nhất của người trẻ là sống hời hợt, thiếu chiều sâu".

Bạn đă dám sống hết ḿnh, hết tấm ḷng, hết nhiệt huyết của tuổi trẻ chưa?

Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đă dấn thân trọn vẹn cuộc đời
và đă dám chết để dâng trọn vẹn sự sống;
Nhằm thể hiện Thánh Ư Chúa Cha
và mang lại ơn cứu độ cho con người.

Xin cho mỗi người chúng con,
cũng dám nói lời "vâng"
với t́nh yêu bao la
và với sứ mệnh Chúa trao phó.


Như Hạ op

THÁCH ĐỐ CUỐI CÙNG
Mt 21,26-32

Thách đố lớn nhất cuộc đời có lẽ là cái tôi. Chính v́ thế Đức Giêsu muốn phơi bầy tất cả sự thật để cảnh giác mỗi người chúng ta trên bước đường theo Chúa.

HAI THÁI ĐỘ

Để minh họa chướng ngại lớn lao đó, Đức Giêsu dùng h́nh ảnh hai người con được thân phụ sai đi làm vườn nho, tượng trưng hai thái độ khác nhau. Người con thứ nhất có dáng dấp thật khó thương. Anh ta bướng bỉnh v́ dám cưỡng lệnh thân phụ. Tại sao anh lại có thái độ như vậy ? Phải chăng đó là thái độ tuổi trẻ ngang tàng ? Nhưng sau cùng lương tâm đă thức dậy. Anh không thể cưỡng lại t́nh phụ tử. H́nh ảnh đó chẳng khác ǵ "kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đă làm, mà thi hành điều chính trực công minh". (Ed 18:27) Chắc chắn hành động đó sẽ thu hút cái nh́n của Thiên Chúa. Thực vậy, những người thành tâm "sẽ cứu được mạng sống ḿnh." (Ed 18:27)

Ngược lại, người con thứ rất dễ thương từ lời nói tới cử chỉ. Không cần suy nghĩ, anh nhanh nhẹn đáp lại lệnh cha truyền. Anh nói để cha yên ḷng, chứ không muốn hành động ǵ cả. Cùng chịu một nền giáo dục như nhau, tại sao lại có hai thái độ khác nhau ? Bao nhiêu luật lệ và thói tục trong nhà đă không hướng được con mắt anh vào đường lối thân phụ. Anh có khác chi "các thượng tế và kỳ mục trong dân" (Mt 21:28.)? Mặc dù đă được ông Gioan chỉ đường công chính, họ "vẫn không chịu hối hận và tin ông ấy." (Mt 21:32.)

Sau khi vẽ lên hai h́nh ảnh đó, Đức Giêsu đặt vấn đề : "Trong hai người con đó, ai đă thi hành ư muốn của người cha ?" (Mt 21:31) Cách đặt vấn đề đă mạc khải chủ điểm câu truyện hôm nay. Thực ra, cả hai người con đều đă có lúc làm phật ḷng cha. Nhưng dầu sao, điểm quan trọng là thực hành, chứ không phải chỉ dừng lại ở lư thuyết. Chính v́ thế, khẳng quyết của Đức Giêsu đă khiến mọi người giật ḿnh : "Tôi bảo thật các ông : những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông". (Mt 21:31) Ngay bây giờ ai dám nói một điều như thế trước những người cầm quyền ? Sở dĩ những hạng người tội lỗi đó được tuyển chọn v́ họ đă hối hận khi nh́n về quá khứ và bước vào đường công chính do ông Gioan Tẩy Giả vạch ra. (Mt 21:32.)

Trên đời, chỉ có một người con duy nhất vừa mau lẹ đáp ứng lệnh truyền của thân phụ, vừa thi hành tới nơi tới chốn, đó là Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu đă nói : "Lương thực của Thầy là thi hành ư muốn của Đấng đă sai Thầy và hoàn tất công tŕnh của Người." (Ga 4:34) Bởi vậy, Chúa Cha đă âu yếm giới thiệu Đức Giêsu với các môn đệ : "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài ḷng về Người." (Mt 17:5) Chính nhờ vâng phục, Người đă trở thành mẫu gương cho muôn ngàn thế hệ. Từ nay muốn chu toàn sứ mệnh Kitô hữu, "anh em hăy có những tâm t́nh như chính Đức Kitô Giêsu," (Pl 2:5) Đấng suốt đời tâm niệm : "Tôi không t́m cách làm theo ư riêng tôi, nhưng theo ư Đấng đă sai tôi." (Ga 5:30) Để thi hành thánh ư, "Người lại c̣n hạ ḿnh, vâng lời cho đến nỗi bằng ḷng chịu chết, chết trên cây thập tự." (Pl 2:8) "Chính v́ thế, Thiên Chúa đă siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu." (Pl 2:9) Thật đơn giản. Chỉ cần vâng phục, Đức Giêsu đă "được trao toàn quyền trên trời dưới đất" (Mt 28:18) để thi hành sứ mệnh cứu thoát muôn dân.

KHÁM PHÁ MỚI

Sứ mạng đó đă được trao cho các tín hữu ngay trong bí tích thanh tẩy. Đó là một vinh dự lớn lao và là một trách nhiệm nặng nề. "Trong xă hội tục hóa ngày nay, càng ngày càng có nhiều người lănh đạm với tôn giáo và sống như không có Thiên Chúa, nhiều người cần tái khám phá các bí tích khai tâm Kitô giáo, đặc biệt là bí tích thanh tẩy" (ĐGH Gioan Phaolô II : Zenit 23.09.2002). Quả thật, tất cả ơn gọi cao đẹp đều được Kitô hữu lănh nhận trong bí tích thanh tẩy. Chính v́ thế, trong cuộc gặp gỡ 1,200 linh mục và giáo lư viên, "ĐGH Gioan Phaolô II đă coi Phương Pháp Tân Giáo Lư như một đường lối quan pḥng đáp ứng lại sự lănh đạm tôn giáo trong nhiều xă hội." (Zenit 23.09.2002) Phong trào này hiện có 17,000 cộng đoàn trong 105 quốc gia, rải rắc trên 900 giáo phận và 5,500 giáo xứ. Trên một triệu giáo dân, 1,500 chủng sinh và 800 linh mục khắp thế giới đang theo đuổi Phương Pháp Tân Giáo Lư này. Thành quả có thể chứng minh rơ ràng khi nh́n đến "bao nhiêu người nhiệt thành và quảng đại rao giảng Tin Mừng Đức Giêsu Kitô nhất là cho những người sa ngă. Biết bao người đă thức tỉnh trước ơn gọi linh mục và tu sĩ." (ĐGH Gioan Phaolô II : Zenit 23.09.2002)

Hơn bao giờ, thế giới hôm nay cần có những nỗ lực thức tỉnh trước những giá trị Tin Mừng. ĐGH nhận thấy thế giới "rất giầu những phương tiện kỹ thuật, vật chất và tiện nghi, nhưng bi đát thay lại nghèo về cứu cánh, giá trị và lư tưởng. Dầu vậy, chúng ta không được phép bi quan và chán nản, v́ Thần Khí hướng dẫn Giáo Hội và ban cho Giáo Hội can đảm xông pha khám phá những phương pháp tân Phúc âm hóa, để có thể tới những những miền chưa từng khám phá. Chân lư Kitô giáo hấp dẫn và có sức thuyết phục rơ ràng v́ có thể in đậm vào cuộc sống nhân loại một chiều hướng rất rơ nét, vững chí công bố Đức Kitô là Đấng Cứu độ duy nhất của nhân loại. Việc loan báo Tin Mừng đó ngày nay vẫn có giá trị như Kitô giáo tiên khởi, khi Tin Mừng loan truyền khắp nơi nhờ bước chân các nhà truyền giáo vĩ đại đầu tiên." (Zenit 23.09.2002) Đó là sứ mạng cao cả nhất đă được Giáo Hội hoàn thành vẻ vang.

Thấy trước những thách đố lớn lao, Đức Giêsu đă cầu nguyện cho các môn đệ: "Con đă truyền lại cho họ lời của Cha. Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật. Như Cha đă sai con đến thế gian, th́ con cũng sai họ đến thế gian." (Ga 17) Sự thật ấy đang bị lăng quên giữa một thế giới trống vắng những giá trị. Con người ngày nay thường rút vào những khung trời nhỏ hẹp và tương đối. Trong bối cảnh vô tri và đôi khi thù nghịch đó, Giáo hội không dễ thực thi sứ mạng cứu độ. (ĐGH Gioan Phaolô II : Zenit 23.09.2002) Nhưng ngay trong hoàn cảnh khó khăn nhất như xă hội Hồi giáo hay vô thần, vẫn có thể có nhiều sáng kiến và nỗ lực Phúc âm hóa. Thực vậy, TGM Henri Teissier nói : ngay tại Algeria, một quốc gia Hồi giáo, "việc rao giảng có thể thực hiện, dù không qua việc dạy giáo lư, nhưng bằng việc loan báo về Thiên Chúa t́nh yêu, bao dung và về lương tâm tự do. Việc công bố Tin mừng sẽ vang vọng khắp nơi nếu mọi người đồng tâm tranh đấu cho nhân phẩm." (Zenit 23.09.2002)


Fr. Jude Siciliano, OP.

Lời nói phải đi đôi với việc làm
(Mt 21, 28-32)

Thưa quí vị.

Thật là xót xa khi ai đó hứa giúp đỡ chúng ta trong cơn hoạn nạn. Nhưng rồi lại không thực hiện. Việc đó làm chúng ta bối rối và thất vọng. Thà không có những lời lừa gạt đó th́ hơn. Tôi biết, ngay sau khi người cha của hai đứa trẻ vừa qua đời. Chị vợ lo lắng không biết phải làm thế nào nuôi con. Họ hàng đến thăm hỏi rất đông. Họ động viên và nói: "Đừng lo, đă có chúng tôi đây". Người vợ tạm an ḷng. Nhưng rồi người giữ lời, người không. Nỗi lo âu của chị ta tăng lên, khi các người tới thăm thưa dần. Chị nhớ lại: "Những người không hứa ǵ cả th́ thường là những người bền bỉ giúp đỡ các cháu, những người hăng hái nhất lại bỏ rơi gia đ́nh sớm nhất." Đời là như vậy, chúng ta không nên trách cứ họ, bởi họ c̣n phải nghĩ đến những công việc khác, như vất vả lao động nuôi sống bản thân và gia đ́nh riêng của ḿnh. Nhưng phần đông là vô tâm, kể cả trong gia tộc, họ hàng, bạn bè, và thân thuộc.

Bài Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay, Chúa Giêsu cũng bắt đầu bằng hiện tượng quen thuộc đó, nhưng Ngài nâng cao lên b́nh diện quan trọng hơn: b́nh diện tôn giáo. Những người biệt phái, các cấp lănh đạo tinh thần trong dân đáng lư ra phải nhận biết tiếng Thiên Chúa kêu gọi và trả lời "có" trước sứ vụ của Chúa Giêsu. Nhưng họ đă từ chối, thậm chí c̣n đặt vấn đề cho những lời Ngài nói, những việc Ngài làm (Mt 21, 23-27). Ngài đă chỉ ra những bất toàn trong việc thờ phượng của họ tại đền thờ, trong dân gian, nhưng thay v́ suy nghĩ lại, họ đă nổi giận. Dân chúng muốn sử dụng danh hiệu thiên sai "Con vua Đavit" để tôn vinh Ngài. Thế lực đền thờ hung hăng cấm đoán. Họ chất vấn quyền bính của Ngài và thánh Matthêo đă lợi dụng cơ hội để xác định vấn đề trong suốt Phúc Âm (Xc. 7,20; 9, 6-8). Ngay cả đến cuối Tin Mừng, thánh nhân c̣n hạ bút : "Mọi quyền năng trên trời, dưới đất đă được ban cho Thầy, vậy anh em hăy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần" (21,18). Điều nghịch lư ở đây là cứ như quyền hạn và chức vụ chính thức th́ những người đầu mục Do Thái phải nhận ra sứ vụ của Chúa Giêsu trước hết và hoạt động tích cực cho công tŕnh giải phóng dân tộc khỏi áp bức tội lỗi. Nhưng thực tế đám dân mù chữ, dốt nát lại làm việc này.

Dụ ngôn hôm nay là một trong ba dụ ngôn Chúa Giêsu đặc biệt hướng về những nhà lănh đạo tôn giáo Do Thái. Hai dụ ngôn khác là những tá điền sát nhân và đám cưới con trai nhà vua. Trong đó có thành ngữ "Kẻ được gọi th́ nhiều, người được chọn th́ ít" (Mt 22, 14). Họ nhất quyết đối đầu với Chúa Giêsu, gài bẫy và bắt bẻ Ngài. Nhưng Chúa Giêsu quay ngược t́nh thế. Cuộc đối thoại giữa người cha và hai con kết thúc bằng câu hỏi: "Ai trong hai đứa con thi hành ư muốn của cha ?" Câu trả lời tự nhiên là người con thứ nhất. Như vậy là họ tự lên án ḿnh. Dụ ngôn có hai ám chỉ rơ ràng : Người Pharisêu và những kẻ ngoài ṿng đạo đức truyền thống. Những công nhân vườn nho đến muộn: gái điếm, thu thuế, x́ ke… Những người này do hoàn cảnh sống của ḿnh thoạt đầu nói "không" cho những giá trị đạo đức. Nhưng khi Chúa Giêsu mời gọi, họ đă thật ḷng ăn năn và nói "Có" cho những đ̣i hỏi của Ngài.

Văn thể trong truyện này khá độc đáo : thay v́ trực tiếp lật tẩy tính đạo đức giả của các đối thủ, Chúa Giêsu đặt câu hỏi ai đă thi hành thánh ư Đức Chúa Trời, để họ tự kết án ḿnh bằng chính miệng lưỡi ḿnh. Tuy nhiên, câu hỏi chẳng dừmg lại ở những lănh đạo Do Thái, nó cũng liên hệ thẳng thắn đến mỗi người chúng ta. Chúng ta được mời gọi dưới ánh sáng của Chúa Giêsu, kiểm tra lại lương tâm, chúng ta trung thành thế nào đối với lời mời gọi của Chúa Giêsu ? Dĩ nhiên chúng ta đă chịu phép thánh tẩy, dĩ nhiên trong quá khứ chúng ta đă phục vụ Chúa trong gia đ́nh, ngoài xă hội. Nhưng thử hỏi chúng ta c̣n nhạy cảm với tinh thần của Ngài nữa không? Chúng ta c̣n sẵn sàng dấn thân như Ngài không ? Mỗi ngày các cơ hội xảy đến, chúng ta c̣n nói "Có" như lúc ban đầu mới trở lại ? Xin nhớ luôn rằng Chúa Giêsu đă nói với đám đông : "Không phải bất cứ ai nói: Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào nước Trời cả đâu, mà chỉ những người làm theo thánh ư Đức Chúa Trời" (Mt 7, 21).

Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta phải luôn can đảm nói "Có" trong rất nhiều t́nh huống, phải lương thiện và trung tín với những lời thề hứa cùng Thiên Chúa, ví dụ trong hôn nhân, bạn bè, con cái, phải bảo toàn tính nguyên vẹn đạo đức trong nhân cách, nơi sở làm, hội hè, đ́nh đám… giống như một sinh viên, chúng ta theo đuổi không những kỹ năng nghề nghiệp mà c̣n phải lọc lựa những cái chi tốt, cái chi thật trên đời. Những cuộc năng rà soát lại lương tâm mới cho chúng ta thấy rơ những lần tích cực và tiêu cực trong sự dấn thân của ḿnh. Thánh Matthêo khởi sự bài giảng trên núi bằng tám mối phúc. Ngài tiếp tục cho thấy người ta chỉ được "Phúc thật" khi trung thành theo chân Chúa Cứu Thế, sống như Ngài, hy sinh như Ngài. Con đường của Ngài là con đường ḥa b́nh, ḥa giải, khiêm nhu, hiền ḥa và làm chứng nhân cho sự thật, lẽ phải. Chúng ta không thi hành lư tưởng đó một ḿnh, cần có ơn Chúa giúp đỡ. Đó là điều phải cầu xin ở thánh lễ này ! Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu gợi lại cho dân chúng kư ức về Thánh Gioan Tẩy Giả. Ngài là vị ngôn sứ rao giảng không mệt mỏi về triều đại Thiên Chúa đang đến gần. Phải thay đổi năo trạng và cách sống, mới được nh́n thấy triều đại ấy. Phải nói "Có" với những đ̣i hỏi của Thượng Đế bằng cách mang nhiều hoa trái tốt. "Các anh hăy sinh hoa quả để chứng tỏ ḷng sám hối" (Mt 3, 8). Thánh nhân nhấn mạnh với các Biệt phái và nhóm Saduceo rằng, bất chấp tội lỗi quá khứ, bất chấp lối sống băng giá trong lề luật, không ai sống ngoài phạm vi ơn thánh của Đức Chúa Trời. Điều này đúng ngay cả với những linh hồn trụy lạc như gái điếm, người thu thuế mướn. Họ vẫn có thể và cần thay đổi nếp sống, cách suy nghĩ mới nên trọn hảo được.

Chúng ta đă nghe tỏ lời mời gọi chưa ? Đă dự tính đổi thay nếp sống ? Bao nhiêu lần thành công ? Bao nhiêu lần thất bại ? Nhưng dù sao bằng dụ ngôn này, hôm nay Lời của Thiên Chúa lại đến với chúng ta. Tinh thần của Chúa Giêsu lại thúc bách chúng ta phải thay đổi những chi cần đổi thay. Hy vọng, nhiều hoặc ít, lần này chúng ta thật sự làm một cuộc cách mạng đổi đời, bởi đă nghe rơ lời kêu mời của Thiên Chúa và kinh nghiệm Chúa Kitô sống động trong những lời đó. Bài đọc hai, thánh Phaolô mô tả Đức Kitô như tiếng "có" muôn đời cho thánh ư Đức Chúa Cha. Ngài thực sự đáp trả Thiên Chúa bằng lời nói và việc làm. Tiếng xin vâng của Ngài không bao giờ rút lại, ngay cả khi đối mặt với sự chết ! Phần chúng ta, trước mặt Ngài chỉ là những môn đệ chao đảo, lúc thế này, khi thế khác, kể cả phản bội. Thế th́ phải làm chi trước Thánh lễ hôm nay ? Xin hăy sốt sắng rước Ngài vào linh hồn ḿnh. Tinh thần của Ngài sẽ làm chúng ta vững chắc trong các quyết định của ḿnh. Ngài sẽ giúp đỡ chúng ta luôn nói "Có" với Thiên Chúa như Ngài đă thực hiện.

Ai trong chúng ta c̣n cảm thấy lẻ loi, sống như người ngoài cuộc ? Bao nhiêu linh hồn cô đơn lạnh giá ? Bao nhiêu thợ làm vườn muộn màng ? Thiên Chúa có sẵn một bản thời gian kỳ lạ ! Đến trước không chắc ǵ đă là chỗ nhất ! Đồng hồ của Ngài là đồng hồ ơn thánh. Sau có thể thành trước, trước có lẽ thành sau ! Lúc nào nhân loại cũng được mời gọi ăn năn thống hối, lúc nào Ngài cũng chờ đợi chúng ta nói "có" với ơn Ngài ban. Xin hăy mạnh dạn đồng ư với Ngài một lần nữa và chờ đợi điều chi sẽ xảy ra trong linh hồn ḿnh ! Là những nhà mô phạm và dạy dỗ, chúng ta có trách nhiệm ghê gớm về lời nói và việc làm. Xin hăy coi xem hành động có am hợp với lời ḿnh phát biểu. Trong dụ ngôn này các bậc làm cha mẹ, cô d́, chú bác, các chính trị gia, thần học gia tức là tất cả những ai có bổn phận giáo dục, phải coi lại hành vi của ḿnh, có thực danh chính ngôn thuận ? Hay dùng kiểu nói của các tù nhân : Bước đi trong lời nói của ḿnh (walk the talk). Chỉ lúc ấy chúng ta mới nhận ra rằng sự đáp trả của ḿnh là trung thực. Amen


Bài đọc thêm : Ai đắc đạo ?

Tôi có người bạn thân, trí thức. Anh học giáo lư rất chăm chỉ nhiều năm, Tuy nhiên mỗi lần đề nghị anh trở lại đạo, chịu bí tích thanh tẩy (rửa tội) anh từ chối ngay. Gạn hỏi, anh kể cho tôi câu chuyện như sau :

Ở Tích Lan, có một nhà sư nổi tiếng. Thiện nam tín nữ đến nghe ông thuyết pháp rất đông. Chuyện đến tai nhà vua, vua cho vời sư ông tới giảng giải giáo lư nhà Phật cho bá quan văn vơ. Chính vua cũng không vắng mặt buổi nào. Sau đó v́ ban ngày bận việc triều đ́nh nên nhà vua thường lẻn khỏi hoàng cung ban đêm để t́m nghe nhà sư thuyết giảng. Hai người đưa nhau lên mỏm núi cao ngồi.

Một hôm, khi đang nghe Phật pháp bỗng trông thấy hoàng cung bốc cháy. Nhà vua vẫn b́nh tĩnh ngồi nghe không tỏ vẻ quan tâm chút nào. Khi chấm dứt bài giáo lư, sư ông hỏi: "Lúc năy hoàng cung cháy bệ hạ không lưu ư sao? " Nhà vua trả lời : "Cháy đền này, ta xây cái khác. C̣n chuyện đạo pháp không như thế được". Đêm hôm sau, hai người lại trông thấy ngôi chùa, nơi nhà sư tạm trú, bốc cháy. Nhà sư bồn chồn lo lắng đứng ngồi không yên. Đức vua hỏi duyên cớ làm sao ? Sư ông trả lời: "Hạ thần c̣n để quên cái khố ở trong chùa." Nhà vua đắc đạo, sư ông th́ không. Đây là lư do tại sao tôi không dám vào đạo. Sợ rằng sau đó cũng như nhà sư thôi.

Nói xong anh bạn nhắm mắt, rùng ḿnh. Tôi hiểu nỗi lo lắng của anh.


Fr. Jude Siciliano, op.

Xin thức tỉnh lương tâm chúng con
(Mt 21, 28-32)

Thưa quí vị.

Xin ư tứ kẻo chúng ta mắc bẫy chống người Do thái trong Tin mừng hôm nay và hai Chúa nhật nữa, những tá điền độc ác và đám cưới nhà vua bị khước từ (Mt 22, 14). Trong đó Chúa Giêsu tuyên bố: “Kẻ được gọi th́ nhiều kẻ được chọn th́ ít”. Ám chỉ các đầu mục Do thái từ chối ơn cứu độ của Chúa Giêsu. Phụng vụ cho chúng ta hay Chúa phải đối đầu với cấp lănh đạo Do thái về sứ mệnh, giáo lư của Ngài. Giọng điệu bài đọc rất gay gắt, kể truyện hai người con trai, một người không vâng lời nhưng lại làm theo ư cha truyền, người khác mau mắn thuận theo nhưng lại từ chối công việc. Thánh Mattheo mở đầu bài đọc: “Đức Giêsu nói với thượng tế và kỳ mục trong dân…” Rồi ngài mượn lời Chúa Giêsu kết luận: “Phần các ông khi đă thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.” Các tuần tiếp theo cũng tương tự. Nó là chứng cớ xung đột giữa Chúa Giêsu và quyền bính Do thái. Xung đột này phần nào vẫn tồn tại nơi cộng đoàn thánh Mattheo, nên thánh nhân ghi lại để giáo dục.

Ngày nay, hoàn cảnh có khác đi, nhưng năo trạng th́ vẫn vậy. Nói cho cùng không phải những lănh đạo giết Chúa Giêsu, nhưng giáo lư của họ, cho nên có tác giả đă gọi giáo lư ấy là thủ phạm chủ yếu giết con Đức Chúa Trời (giáo lư giết người = murderous theology). Năo trạng này vẫn tồn tại trong các tôn giáo suốt ḍng lịch sử nhân loại. Cho nên chúng ta phải tránh những bất công, biến các lănh đạo Do thái thành đao phủ, dùng họ như những thí dụ xấu cho một đức tin bảo thủ, từ chối thông điệp và con người Chúa Giêsu. Tốt hơn, chúng ta nên phân biệt rơ tội lỗi và tội nhân trong sứ điệp của bài đọc hôm nay, và t́m ra chân lư liên hệ với thời hiện tại. Người ta thường nói bản tính con người không thay đổi từ khi sa ngă, nếu có thay đổi th́ cũng chẳng đáng kể.

Tuy nhiên tuyên bố không áp dụng cho văn minh vật chất. Những người làm tôn giáo luôn có khuynh hướng biến việc tuân thủ lề luật và vâng lời thành h́nh thức biểu diễn như đóng kịch mà không có thực chất nâng đỡ. Hay dùng lời Chúa Giêsu : Họ nói mà không làm. Tức giảng dạy mà không thi hành. Ca tụng nghèo khó mà không thấy dấu chỉ nào trong cuộc sống của ḿnh, dù tập thể hay cá nhân. Lúc này chúng ta nh́n vào bối cảnh của câu truyện: Quyền bính đền thờ thách thức Chúa Giêsu và Ngài phản ứng lại, hỏi xem phép rửa của Gioan Tẩy giả bởi đâu mà ra, bởi Thiên Chúa hay bởi nhân loại? (21, 25). Các lănh đạo Do thái ương ngạnh không trả lời. Họ chỉ nói gọn nhẹ: Chúng tôi không biết. Bởi nếu công nhận nguồn gốc phép rửa ấy là Thần linh, họ cũng phải chấp nhận tính “bởi trời” của các việc Ngài làm. V́ thánh Gioan đă nói về Chúa Giêsu cho dân chúng nghe bên sông Giodanô: Ngài sẽ rửa anh em trong Thánh Thần và lửa (3, 11).

Tiếp tục Ngài kể cho họ dụ ngôn hai người con được cha sai đi làm vườn nho. Ngài giữ họ trong câu truyện để tỏ rơ tính cứng đầu, cứng cổ của họ đối với giáo lư của Ngài. “Các ông nghĩ sao ?” là câu hỏi Chúa đặt ra cho họ, rồi Ngài kết luận: “Ai trong hai người con đó làm theo ư cha ḿnh ?” Nói cách khác, ai trong hai hạng người của nhân loại thực hiện ư Đức Chúa Trời ? Đĩ điếm hay thế lực đền thờ ? Thật khó trả lời, bởi lẽ lương tâm là quan toà không dễ lừa dối. Giả dụ quyền bính đền thờ diễn lại câu truyện, hẳn họ phải từ bỏ lối sống hiện thời mà tin nhận Chúa Giêsu. Việc mà trong hoàn cảnh lúc ấy và cho đến muôn đời họ không làm được. Ngày nay cũng vậy thôi, nếu chúng ta không chịu đổi thay con tim và khối óc theo sự chỉ dẫn của Chúa Thánh Thần, sự thật và lẽ phải. Rơ ràng thay đổi một cái nh́n khó biết bao ! Chúa Giêsu mong đợi quyền bính đền thờ đổi thay năo trạng từ nói “không” sang “có” với thông điệp cứu rỗi của Đức Chúa Trời, như người con cả trong dụ ngôn. Ước mong của Ngài chẳng bao giờ thành hiện thực.

Liệu chúng ta là thính giả ngày nay có làm Chúa vui ḷng không ? Chúng ta có giám từ bỏ giáo lư giết người, để ôm ấp quan điểm của Chúa Giêsu nhân ái và tốt bụng không ? Người Do thái đă làm lỡ mất cơ hội, liệu chúng ta có khôn hơn họ mà mở ḷng ra cho Lời Chúa thâm nhập? Chúng ta thường công khai tuyên xưng đức tin, nhưng ít khi thực hành đức tin ấy cho thiên hạ xem thấy, tương tự như thắp đèn rồi lấy thùng đậy lại. Trong bản tiếng Anh và nhiều thứ ngôn ngữ khác, dịch câu trả lời của người con dễ đưa đến hiểu lầm: “yes, sir” thưa ông vâng. Chính xác phải dịch là “Thưa Chúa, vâng” (kyrie). Tiếng Việt Nam khá hơn: “Thưa ngài, con đây”. Bởi lẽ câu này vang vọng lời Chúa trong một dịp khác: “Qủa thật, quả thật ta nói cho anh em hay, không phải bất cứ ai thưa với Thày “Lạy Chúa, lạy Chúa” là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ những ai thi hành ư muốn của Cha Thày, Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.” (7, 21). Hai bản văn ăn khớp với nhau để nhấn mạnh tuyên bố của Chúa Giêsu và thánh ư của Đức Chúa Trời.

Nghĩa là Chúa mong đợi những ai theo Ngài, tuyên xưng đức tin vào Ngài, gọi Ngài là “Chúa”, th́ phải thi hành những điều Ngài chỉ bảo. Dịp khác Chúa nói rơ hơn: Yêu mến Thày là tuân giữ các giới răn của thày. Cho nên vấn đề không phải của lănh đạo Do thái mà thôi, mà mọi nơi, mọi thời. Tiên tri Ezechiel sau khi đă trưng ra sự trừng phạt Gierusalem và thời đi đầy, đă nói đến trách nhiệm cá nhân trong bài đọc một: “Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính của ḿnh, và làm điều bất chính mà chết, th́ chính v́ điều bất chính nó làm mà nó phải chết”. Trách nhiệm chúng ta là phải làm theo ư Đức Chúa trời. Chúng ta phải phản ánh Lời Chúa trong cuộc sống ḿnh.

Khi cử hành Phụng vụ, cầu nguyện, làm việc thiện, chúng ta tuyên xưng Đức Giêsu bằng danh hiệu “Chúa”, th́ phải thực hành những nội dung của lời kêu xin. Nhưng thường khi quyên lăng, v́ vậy trước Thánh lễ hôm nay, chúng ta kêu xin Chúa: Lord have mercy, Christ have mercy, Lord have mercy: Xin Chúa thương xót, xin Chúa Kitô thương xót, xin Chúa thương xot. Nhưng tôi cam đoan chẳng ai dám nói rơ những ai là kẻ có lỗi, ai không ? Cho nên dụ ngôn chỉ ra các trường hợp ăn năn thống hối để chúng ta noi gương. Người đời thường nói: Bộ diện va lời nói có thể lừa dối. Nếu thiếu phán đoán, khi thoạt nghe người con thứ nhất trả lời bố: con không đi. Chúng ta lập tức cho hắn là hư hỏng, không vâng lời cha. Cũng vậy, với người con thứ hai ngọt ngào: con sẽ đi, chúng ta liền cho hắn là đứa ngoan. Chúng ta vỗ lưng hắn khen, tốt quá, đứa con dễ bảo, và c̣n thêm: chắc chắn ba mày hănh diện về mày. Nhưng thực tế có đúng như vậy đâu. Đứa con thứ hai mới là đứa con hư, không vâng lời bố. Bé cái lầm. Biết bao lần thiên hạ đă mắc bẫy như vậy, v́ hồ đồ, tưởng tượng. Cầu xin Thánh Linh giúp chúng ta tránh được hoàn cảnh này càng nhiều càng tốt, tuy không tránh khỏi hoàn toàn v́ yếu đuối con người.

Tôi cảm thấy rằng trong dụ ngôn, hai người con có rất nhiều thời gian và không gian. Sau lời đề nghị của bố, họ có cơ hội suy nghĩ, không vội vàng phản ứng. Người con thứ hai có thể chu toàn câu trả lời “có” của ḿnh, không ai thúc giục và người con thứ nhất cũng có thể thay đổi ư kiến. Phải chăng thánh Mattheo đă cho chúng ta cơ hội để thi hành thánh ư Đức Chúa Trời ? Nếu chúng ta nhận ra lẽ phải và lợi dụng thời gian. Các lănh đạo Do thái cũng có cơ may như vậy. Họ có đủ thời giờ để vâng theo tiếng Chúa Giêsu kêu gọi. Nhưng họ cố t́nh bịt tai, bởi Chúa Giêsu không có địa vị nào khiến họ chú ư lắng nghe. Ngài chẳng qua là một thanh niên vô danh tiểu tốt, làm nghề thợ mộc, đi lang thang rao giảng những điều khác với truyền thống. Cho nên họ đă chất vấn Ngài: “Ông lấy quyền nào mà làm những điều ấy”. Thực ra sự thật tự nó đă là một thứ quyền bính mà người ta không thể cưỡng lại được. Đến đây chúng ta lại thấy thành ngữ giáo lư giết người (murderous theology) là có lư. Bởi nó bịt mắt con người không cho phép trông thấy sự thật. V́ lẽ đó, Chúa Giêsu cầu xin Chúa Cha tha thứ cho họ, v́ lầm không biết. Tin mừng là cuốn sách kể truyện đời xưa, nhưng cũng là cuốn sách của thời bây giờ. Vậy trước Thánh thể nó khởi động lại câu truyện của hai người con cho chúng ta suy nghĩ. Chúng ta cũng có nhiều thời giờ để lựa chọn:

Thái độ của người con thứ nhất hay hành xử của người con thứ hai ? chúng ta cùng nhau cầu nguyện để biết trả lời thế nào cho yêu cầu của “Chúa” làm vườn nho cho Ngài trong cuộc sống hằng ngày, như là mỗi cá nhân ? Phải trả lời thế nào cho Chúa mà chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: Tôi tin kính Đức Giêsu Kitô, là Thiên Chúa và là Chúa chúng tôi trong thời đại đầy nhiễu nhương này ? Thời đại đ̣i hỏi nhiều hy sinh chứng tá ? Phải chăng vườn nho Giáo hội đ̣i hỏi nhiều tay thợ “lành nghề” hơn là thợ chỉ biết khoa trương môi miệng ? Liệu chúng ta có trung thực công bố danh thánh Đức Chúa trong cuộc sống ḿnh ? Nếu trung thực th́ lời phán xét của Chúa trong ngày sau hết mà thánh Mattheo ghi lại không làm cho chúng ta sợ hăi. Trái lại vui mừng, v́ danh Chúa đă được biểu dương, thờ phượng : “Xưa ta đói các ngươi đă cho ta ăn, ta khát các ngươi đă cho uống, ta ḿnh trần các ngươi đă cho mặc, ta là khách lạ các ngươi đă tiếp rước, ta đau yếu các ngươi đă viếng thăm.” (25, 31). Nếu không dụ ngôn c̣n cho ta cơ hội để cải tổ, nó khuyến khích chúng ta thay đổi suy nghĩ và khởi sự những chi con cái Thiên Chúa phải thực hiện để được vào Nước trời.

Một ḍng chữ của dụ ngôn gây cho tôi ấn tượng nhất, an ủi và thách thức tôi nhất, là khi nói về người con thứ nhất. Ḍng chữ đó là : “Hắn thay đổi ư nghĩ”. Thánh Mattheo viết như sau : “Nó đáp, con không muốn, nhưng sau đó nó hối hận nên lại đi”. Chi tiết nhỏ nhưng tính vĩ đại của nó nằm trong việc thi hành ư muốn của cha ḿnh. Nhiều lần tôi trầm ngâm trước câu văn này: Nó bảo đảm với linh hồn tôi và mọi người rằng, cho đến lúc qua đời, chấm dứt mọi hành động th́ chẳng có chi kết liễu, chẳng có chi cố định, chẳng có chi khoá chặt lại. Người ta c̣n cơ hội đổi thay. Không nhất thiết tôi vẫn tiếp tục nếp sống xưa cũ. Tôi c̣n khả năng thay đổi, c̣n khả năng trở nên hoàn thiện, bắt đầu một cuộc sống mới. Giây phút này là tội nhân, giây phút sau có thể là thánh nếu tôi tích cực nghe theo ơn Chúa Thánh Thần thúc giục.

V́ vậy, thánh Phaolô trong bài đọc hai viết cho tín hữu thành Philipphê : “Thưa anh em nếu quả thật, sự liên kết với Đức Kitô đem lại cho chúng ta niềm an ủi, nếu t́nh bác ai khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần Khí, nếu chúng ta sống thân t́nh và biết cảm thương nhau, th́ xin anh em hăy làm cho niềm vui của tôi được trọn ven.” Thánh nhân kêu gọi sự thánh thiện nơi các tín hữu, trở về với cảm tính thiêng liêng. Ngài khuyên nhủ họ trong Đức Kitô để cùng nhau dự yến tiệc hiệp thông trong Thần khí: Bắt chước Đức Kitô tận thâm tâm, từ đó nẩy sinh vui mừng và an ủi. Thánh nhân đă dùng đến công thức ba ngôi trong lời kêu gọi: liên kết với Đức Kitô, khích lệ của Chúa Cha (bác ái) và hiệp thông trong Thần khí. Lời kêu gọi như vậy rất mạnh mẽ. Các tín hữu Philipphê phải nên thánh, trở về cùng Đức Chúa Trời, thi hành thánh ư Ngài như người con cả trong dụ ngôn hôm nay. Sau đó ngài cao hứng chép toàn bộ lời kinh Phụng vụ của cộng đoàn tín hữu tiên khởi, ca tụng nhân đức của Chúa Giêsu. Bài ca này, Phụng vụ cho chúng ta đọc thường xuyên trong kinh chiều, ngơ hầu nhớ lại gương sáng của Chúa Giêsu trong đời sống tín hữu.

Như vậy trước thánh thể hôm nay, chúng ta được Chúa kêu gọi thay đổi cuộc sống. Thánh thể là của ăn thức uống nuôi dưỡng ước vọng ấy. Tôi nghe như người con cả trong thâm tâm khích lệ ḿnh quay trở về với lời mời gọi của Thiên Chúa, thay đổi năo trạng và nếp sống. “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào nước Thiên Chúa trước các ông”. Là lời cảnh cáo nghiêm khắc, nếu tôi không thay đổi con người ḿnh. Chúa không đưa ra lời doạ dẫm trống rỗng, nhưng là một lời khuyên chân thật. Liệu tôi có đủ thiện chí lắng nghe ? Cuộc đời tôi đă rập khuân theo những thói quen khó bỏ, gần giống như bản tính thứ hai. tôi có nhiều nguy cơ chống lại lời mời gọi nên hoàn thiện của Chúa Thánh Thần. Giống như người con thứ hai, mau mắn vâng lời cha, nhưng kỳ thực vẫn ù lỳ trong các tḥi xấu của ḿnh : ươn lười, hưởng thụ, tiện nghi, dễ dăi, khoái lạc. Lạy Chúa Giêsu, Đấng kể dụ ngôn cho nhân loại, xin thức tỉnh lương tâm chúng con. Amen.


Lm. Jude Siciliano, OP (Chuyển ngữ FX Trọng Yên, OP)

Chúa mời gọi : Lạy Chúa, con đây
Mt 21: 28-32

Anh chị em thân mến,

Anh chị em có nhớ những tấm b́a cứng không ? Trên đó các nhà thuyết giảng thường viết dàn ư chính bài chia sẻ của ḿnh. Và đây là một gợi ư cho Anh chị em : hăy nhớ lại những lần có người đă hứa là sẽ làm một việc nào đó cho anh chị em, nhưng rồi họ không làm, hoặc thậm chí có người hứa chắc chắn làm điều ǵ với anh chị em, nhưng lại đổi ư rồi quên luôn. Những lần như thế có làm cho chúng ta thất vọng không ? Và mỗi lần bị như vậy chúng ta nên viết lên một tấm giấy. Dĩ nhiên khi anh chị em làm như tôi nói, sẽ thấy việc thực hành này hơi vất vả. Và rồi anh chị em thử sắp những tấm giấy ấy trước mắt để đếm xem có bao nhiêu tấm b́a cứng ?

Làm như vậy sẽ nhắc anh chị em nhớ đến tất cả những điều xảy ra thời thơ ấu: như có một người bạn hứa, rồi làm dấu thánh giá trên ngực như để cam kết giữ lời. Hay một nhóm bạn bè hứa sẽ giúp bạn qua cơn khó khăn trong đời, nhưng sau đó quên lới hứa. Một người thân qua đời, và nhà quàn của người bà con hay anh em trong nhà hứa "tôi sẽ giúp bạn ngay", nhưng rồi họ quên tịt đi. Một người hẹn sẽ gặp bạn, nhưng sau đó không hề gọi lại bạn và im bặt. Tôi nghĩ, thà rằng những người đó nói thẳng là không giúp được bạn đi. Thà rằng họ nói "không, tôi không giúp được", như thế c̣n thật thà hơn là nói "để tôi giúp" rồi lại "không giúp".

Khi có một người mà chúng ta tin tưởng và có vẻ thành thật, nói là "sẽ giúp" rồi không giữ lời hứa, làm chúng ta thất vọng. Chúng ta bị hụt hẫng, v́ chúng ta tin tưởng vào lời hứa của họ. Chúng ta nghĩ, có thể dựa vào lời hứa của người đó khi chúng ta gặp khó khăn, nhưng rồi người đó biến đi đâu mất. Chúng ta muốn nói ngay với người đó là "sao bạn lại hứa.." nhưng, họ đâu có đấy để chúng ta than với họ.

Có những khoảnh khắc hệ trọng xảy ra trong đời sống chúng ta và một người bạn đă nhận là "tôi sẽ giúp" một cách thành thật. Lời hứa đó thật cần thiết, nhất là những khi có chuyện không may xảy ra. Một người hứa sẽ thương yêu và trung thành "khi khỏe mạnh cũng như lúc yếu đau, cho đến khi cái chết chia ĺa", nhưng rồi chúng ta thấy những lời thề "xin vâng" trong những lúc quan trọng đó cũng thành những lời thề trống rỗng, hay không thành thật. Sau một thời gian, đời sống trở nên lạnh nhạt rồi lời thề "xin vâng" thành "không".

Làm sao chúng ta lại không chán nản được khi nh́n thấy những tờ b́a mà chúng ta xếp thành một chồng cao ? Ai có thể trách chúng ta khi trái tim và ḷng chúng ta đă khép lại v́ không c̣n tin vào lời hứa của ai nữa ? Chúng ta nh́n vào chồng b́a giấy đó với cơi ḷng se lại v́ những vết thương được ghi trên các tấm giấy ấy.

Nhưng chúng ta cũng nên nhớ rằng, đă có những lần chính chúng ta cũng đă nói "vâng" rồi sau đó thành "không". Thử hỏi chúng ta c̣n nhớ không ? Thử hỏi chúng ta có nên viết một chồng giấy b́a khác hay không, để xem xét những lời hứa mà chính chúng ta đă quên đối với người khác? Nhiều khi chúng ta v́ muốn làm vừa ḷng một ai đó nên hứa "vâng" đại, nhưng sự thật là "không". Chúng ta đôi khi nói "vâng" để tránh sự phiền phức, rơ ràng là chúng ta đă không thành thật. Chính chúng ta cũng đă nhiều lần hứa không thành thật. Làm cho người khác tin vào chúng ta, nhưng sự thật chúng ta không hề giữ lời hứa với họ, và những người đó cũng đă thất vọng với chúng ta.

Có những người trong chúng ta đă tuyên thệ, nhưng rồi không hoàn toàn giữ lời thề. Chúng ta có thể đă coi thường người khác, nên để sự việc trở nên bê bối, không hoàn toàn dấn thân giữ lời hứa khi gặp khó khăn.

Qua Bí Tích rửa tội, và với nhiều lần tuyên lời cam kết của Bí Tích rửa tội, chúng ta đă thưa "vâng" với Chúa Giêsu nhiều lần. Nhưng thử hỏi lời cam kết "vâng" ấy có bị chúng ta biến thành "không" chưa? Việc sống đạo của chúng ta có trở thành lối sống bề ngoài không? Có khi nào chúng ta tỏ vẻ sống đạo thật nhưng bên trong th́ lơ là không? Hay là chúng ta chỉ theo thói quen mà thôi? Chúng ta không để hết tâm trí vào đời sống đạo thật, lời hứa "vâng" thật ra là lời nói "không". Chúng ta lo ngại là nếu chúng ta thành thật thưa "vâng" với Chúa Kitô để phục vụ Ngài th́ chúng ta sẽ phải thay đổi đời sống hiện tại của chúng ta, nên chúng ta lại định là "không".

Chúng ta nên xét kỹ từ đáy ḷng v́ có thể chúng ta đang chống đối lại Thiên Chúa. Chúng ta có thể giống như những người cố gắng chừa rượu. Những người đó phải đi qua một chương tŕnh gồm 12 giai đoạn, nhờ vậy họ nói là chương tŕnh đó đă giúp họ bỏ rượu. Vậy chúng ta phải làm ǵ để thay đổi như họ, hay chúng ta lờ đi, coi những điều hứa đó chưa đúng thật, để rồi lời nói của chúng ta không đi đôi với việc chúng ta làm. Trước mặt người khác chúng ta nói "vâng" nhưng thật ḷng chúng ta th́ không như vậy.

Khi đến bàn Tiệc thánh hôm nay, chúng ta nên mang đến hai xấp giấy b́a. Trong đó ghi những trường hợp làm chúng ta bị thất vọng nặng nề v́ những lời hứa của người khác. Chúng ta xin được diệu êm trong ḷng, và nhờ Chúa Kitô đang hiện diện trong bí tích Thánh Thể sẽ an ủi chúng ta, v́ chính Ngài cũng đă bị thất vọng về những phản bội của người thân Ngài.

Chúng ta cũng xin ơn tha thứ cho những ai đă bị chúng ta gây thất vọng v́ những lời hứa không thành thật của chúng ta. Những người đó đặt tin tưởng vào chúng ta, trong những lúc họ cần sự giúp đỡ, mà chúng ta bỏ quên họ và không hiện diện để giúp họ theo lời hứa của chúng ta.

Trong dụ ngôn hôm nay, tôi thấy hơi lạ, v́ dụ ngôn không nói ǵ đến kết quả của câu chuyện. Người con thứ nhất làm việc ra sao sau khi người đó ra vườn nho làm việc? Anh ta có làm đầy đủ công việc không? Không có câu nào nói về những việc phải làm trong ruộng nho. Điểm chính chỉ hướng vào người con đổi ư, rồi sau đó trở lại giữ lời thực hiện công việc. Có lẽ đó là những việc làm đẹp ḷng Thiên Chúa, do vậy chúng ta hăy muốn phục vụ Ngài, chúng ta muốn cố gắng đáp lời mời gọi của Ngài trong lúc chúng ta để chính Thiên Chúa giúp chúng ta làm những điều khác, từ việc lớn tới việc nhỏ. 


G. Nguyễn Cao Luật op

Có hay là không ?
Mt 21,26-32

Nhạy cảm trước t́nh yêu

Sau khi Đức Giêsu đuỗi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ, các thượng tế và kỳ mục rất bực ḿnh. Họ chất vấn Đức Giêsu : "Ông lấy quyền nào mà làm những điều ấy ? Ai cho ông quyền ấy ?" Đức Giêsu không trả lời câu hỏi của họ, Người lại hỏi họ : "Phép rửa của ông Gioan do đâu mà có ? " Nếu họ trả lời được câu hỏi này, th́ họ cũng trả lời được điều họ đă chất vấn Đức Giêsu, bởi v́ ai ai cũng tin ông Gioan là ngôn sứ làm chứng về Đức Giêsu ; nếu tin ông Gioan th́ cũng phải tin Đức Giêsu.

Các thượng tế và kỳ mục lúng túng. Họ không biết phải trả lời thế nào, hay nói đúng hơn, họ không dám trả lời, v́ họ nhận thức được mối liên hệ giữa vị Tiền Hô và Đấng Thiên Sai. Nếu nhận phép rửa của ông Gioan là do từ Thiên Chúa th́ cũng phải nhận Đức Giêsu từ Thiên Chúa sai đến, v́ chính ông Gioan loan báo và chỉ cho dân biết Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai. Bởi vậy, họ nghĩ rằng tốt hơn hết là tảng lờ như không biết.

Trước lời đáp giả vờ này, Đức Giêsu kể dụ ngôn về hai người con để vạch rơ tâm địa và sự sai trái của họ.

Thượng tế và kỳ mục ... thu thuế và gái điếm. Hai thế giới riêng biệt, chẳng có ǵ liên lạc với nhau, nhưng Đức Giêsu đă đặt hai thế giới đó bên cạnh nhau, có vẻ như hơi thô bạo, để làm bùng nỗ những khác biệt về xă hội cũng như về tôn giáo.

Lời giảng của Đức Giêsu gây bối rối cho những người không cảm thấy rung động trước lời Chúa. Họ đă bị đóng kín trong một hệ thống vững chắc có vẻ như rất phù hợp với tinh thần tôn giáo, và rất đạo đức, nhưng thực ra, chính hệ thống ấy lại hàm chứa những yếu tố khiến Thánh Thần không thể hoạt động.

Dụ ngôn là một lời tra vấn những kẻ chống đối Đức Giêsu và t́m cách bắt bẻ Người. Ư nghĩa của dụ ngôn này thật rơ ràng : trong hai người con, người thi hành ư định của cha lại không phải là kẻ chỉ nói suông, nhưng là kẻ, dù đă từ chối vâng lời, nhưng lại sám hối và thi hành.

Người ta có thể nhận ra ngay Đức Giêsu muốn nói đến các thượng tế và kinh sư qua h́nh ảnh người con thứ hai, c̣n những người thu thuế và gái điếm trong h́nh ảnh người con thứ nhất. Khởi đầu, những người này có lẽ đă lầm lạc, đă hành động không phù hợp với thánh ư, và tỏ ra xa lạ với Nước Thiên Chúa, nhưng cuối cùng họ đă hối hận, đă cảm thấy cần phải thay đỗi đời sống khi nghe sứ điệp của ông Gioan.

Sau đó, cuộc tra vấn c̣n tiếp tục mạnh mẽ hơn : "những người thu thuế, những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông đấy". Đức Giêsu tố cáo những kẻ chất vấn Người là đă không đón nhận sứ điệp do ông Gioan loan báo. Họ tự nhận ḿnh là những người tốt, và coi thường những người khác. Trong thực tế, những người vốn thường bị kết án là những người tội lỗi lại có tinh thần nhạy cảm trước Tin Mừng.

Và điều quan trọng hơn "khi đă thấy vậy rổi, các ông cũng vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy." Câu nói của Đức Giêsu như muốn đặt ra một câu hỏi việc người tội lỗi được sống không phải là một dấu chỉ về Nước Trời sao ? Tại sao lại có những người muốn tự giam hăm chính ḿnh khi nghĩ rằng ḿnh đă nắm giữ sự thật và đă nên công chính ? Những người này rất khó có thể nhận ra Thiên Chúa-T́nh Yêu.

Làm hơn là nói

Qua dụ ngôn, Đức Giêsu muốn cho người ta hiểu rằng những người vốn bị coi là tội lỗi chưa hẳn là đă xấu và bị kết án, và những người được coi là đạo đức chưa hẳn là đáng khen ngợi. Những hoàn cảnh này chưa phải là yếu tố để kết án hay khen thưởng, bởi v́ Thiên Chúa không chỉ xét đoán dựa trên những nhăn hiệu người ta thường gán cho ḿnh hay cho người khác. Người nh́n thấu điều bên trong, vượt khỏi những biểu hiện bên ngoài và cách đánh giá của con người không giống như cách đánh giá của Thiên Chúa.

Người ta sẽ dễ dàng kiểm chứng giáo huấn của Đức Giêsu khi nhắc lại những đoạn văn Tin Mừng khác. Chẳng hạn dụ ngôn về những người thợ làm vườn nho được gọi vào giờ thứ mười một, dụ ngôn về người con hoang đàng, câu chuyện về người phụ nữ Sa-ma-ri, người trộm lành, Ma-ri-a Mác-đa-la ... Tất cả những người này đă có thái độ rộng mở trước sứ điệp của Đức Giêsu. Chính hoàn cảnh bất hạnh tuy không đáng khen, đă giúp họ đạt được những sự giàu có mới lạ. Chính đời sống khốn khỗ đă giúp họ nhận ra sự thiệt tḥi, sự mất mát của ḿnh và họ muốn chuộc lại. Nhờ thái độ chân thành, họ đă khám phá ra t́nh yêu và họ gắn bó với t́nh yêu, và măi măi họ sẽ không mất t́nh yêu.

Trong tương quan giữa con người với Thiên Chúa, thái độ vâng phục phải được diễn tả bằng hành động, chứ không phải chỉ là thưa "vâng" hay "a-men". "Làm theo ư muốn của Cha" có ư nghĩa cụ thể là hối hận v́ sự từ chối của ḿnh và sau đó dấn thân hoạt động cho Nước Thiên Chúa. Như vậy, thái độ vâng phục đích thực không phải là tự măn, không dậm chân tại chôỵ, ở yên trong trạng thái tốt lành theo chủ quan của ḿnh.

Do đó, dụ ngôn chống lại thái độ cứng ḷng trong tâm hổn, sự kiêu hănh tôn giáo, sự an b́nh giả tạo. Con người phải luôn hoán cải và để cho người ta hoán cải không ngừng. Bởi v́ từ một thái độ sai lạc, người ta sẽ lạc vào đường xấu, cho dù bên ngoài xem ra tốt đẹp.

Dụ ngôn ca ngợi tinh thần hối cải, chứ không phải thái độ từ chối ban đầu. Dụ ngôn khiển trách thái độ hoán cải giả tạo và thái độ bất măn ban đầu. Khi con người đi từ thái độ chấp nhận đến từ chối, th́ đó là thái độ đáng thương hại. V́ thực ra, phải đi từ từ chối đến chấp nhận mới hợp lư. Con người mà luôn luôn liều lĩnh chối bỏ Thiên Chúa, cũng sẽ phải tỏ ra luôn sẵn sàng hối cải cách trung thực nhất (x. R.Gutzwiller, Suy niệm Tin mừng Mát-thêu, tập 2 ,trang 142).

Dĩ nhiên, nếu việc chấp nhận bằng lời nói được đi kèm với việc làm th́ đó điều lư tưởng. Tuy vậy, vẫn phải nh́n nhận việc làm có giá trị hơn lời nói. Cũng cần hiểu rằng việc chấp nhận không chỉ cần thiết vào lúc đầu, nhưng phải là một thái độ thường xuyên. Hoán cải là một tinh thần đặc biệt của Ki-tô giáo, ngừng hoán cải th́ việc chấp nhận trở thành dối trá. Không dám nh́n nhận những thiếu sót của ḿnh để rổi thay đỗi và tiến lên phía trước, chính là ngưng lại trên đường.

Loại bỏ tính thụ động

Dụ ngôn về hai người con phản ánh thực trạng của con người mọi thời. Đức Giêsu không chỉ nói về những giới chức lănh đạo đương thời, nhưng c̣n nói về chúng ta nữa.

Đă nhiều lần chúng ta nói : "Vâng, lạy Chúa", nhưng rổi vẫn không nhúc nhích. Chúng ta vẫn cứ an tâm với những thói quen, những nguyên tắc của ḿnh. Bởi thế, khi không muốn kiểm điểm lại đời ḿnh theo cách nh́n của Thiên Chúa, chúng ta đă bỏ mất cơ may để Người hoán cải trái tim chai đá của chúng ta thành trái tim bằng thịt.

Chúng ta cảm thấy quá an toàn, có vẻ như tự măn và không c̣n cảm thấy bị đụng chạm ǵ trước câu nói của Đức Giêsu : "những người thhu thuế, những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông đấy". Trong thực tế, không một ai trong chúng ta dám đánh cuộc với những người này khi mà họ chẳng có một chút cơ may có được những dấu chỉ về t́nh yêu của Thiên Chúa.

Tuy nhiên, thế giới của chúng ta không hề thiếu những người nghèo, những người bé mọn. Họ là những ngôn sứ của thời đại, tựa như vô số lời đáp trả trước tiếng nói của Thiên Chúa.

Trở ngại đích thực và lớn lao nhất là tính thụ động. Tiếng "Vâng" của chúng ta sẽ là sự khiêu khích, sự khinh bỉ với Đấng Phục Sinh, nếu chúng ta cứ nghĩ rằng ḿnh đang đi đúng đường, cứ theo những bậc thang giá trị của ḿnh, cứ dựa vào những nguyên tắc của con người.

V́ vậy, không bao giờ là quá trễ khi để cho Thiên Chúa hoán cải chúng ta. Mỗi người cần nhớ lại bài Tin Mừng tuần trước : vào làm việc trong vườn nho ở bất cứ giờ nào, điều ấy không quan trọng, nhưng nhất thiết phải đi vào vườn nho.


Giacôbê Phạm Văn Phượng op

Tự do đích thực
Mt 21,28-32

Là một nhà giáo dục tài giỏi, Chúa Giêsu thường đặt những câu hỏi chất vấn trước, hơn là đưa ra ngay những lời quả quyết, nhằm khơi gợi cho người ta suy tư. Chúa hỏi thính giả đang nghe Ngài : “các ông nghĩ sao ?”, rồi Chúa kể một dụ ngôn về hai thái độ của hai đứa con để ám chỉ về hai nhóm người. Đứa con thứ nhất trả lời “không”, nhưng sau lại làm. Đó là h́nh ảnh nhóm người bị khinh dể, miệt thị, kết án, là những người thu thuế và những người đàng điếm. Họ không nói mà lại làm, tức là trước đó họ không giữ luật, nhưng nay nghe lời Chúa giảng, họ đă sám hối và thay đổi đời sống. Đứa con thứ hai trả lời “vâng”, nhưng sau lại không làm. Đó là h́nh ảnh nhóm người lănh đạo dân chúng thời đó, là các thượng tế, kinh sư và Pha-ri-sêu. Họ nói mà không làm, tức là họ tự cho ḿnh là giữ luật, nhưng lại không chấp nhận Chúa, không nghe lời Chúa giảng dạy, không ăn năn hối cải.

Cả hai nhóm người trên đều đă sử dụng sự tự do của ḿnh để chọn lựa cách sống cho cuộc đời ḿnh. V́ thế, bài Tin Mừng hôm nay nêu ra một điều rất đáng chú ư và cần t́m hiểu, đó là sự tự do của con người. Chúng ta đều biết : sự tự do đă được xác định, đă được tuyên xưng, đă được ca tụng như một trong những giá trị cơ bản nhất trong cuộc sống của con người. Một nhà ai quốc Hy Lạp, khi bị tù đày đă viết như sau : “Khôn ngoan là một điều tốt, nhưng nếu không có tự do th́ khôn ngoan cũng trở thành vô ích. Lư lẽ là điều tốt, nhưng nếu không có tự do th́ lư lẽ cũng trở thành vô ích. Có tất cả mọi thứ mà không có tự do th́ kể là không có ǵ cả”.

Tự do là ǵ ? Tự do là thế nào ? Đâu là tự do đích thực? Có phải tự do là được sống theo sở thích, được hành động theo ư muốn của ḿnh ? Hay theo kiểu nói đơn giản : tự do là muốn làm ǵ th́ làm ? Có đúng không? Đúng, nhưng chưa đủ. Tự do là muốn làm ǵ th́ làm, nhưng c̣n phải thêm điều này nữa, là làm như luật pháp cho phép. Bởi v́ nếu ai cũng hành động và sống theo sở thích của ḿnh, bất chấp luật pháp, th́ xă hội sẽ rối loạn và không c̣n tự do nữa.

Như vậy, tự do của con người không phải là một thứ tự do tuyệt đối, mà là một tự do có điều kiện. Tự do của con người cũng giới hạn như chính con người. Ư thức được những giới hạn ấy, ư thức được sự hiện diện của những người chung quanh, đó là bước đầu tiên trong việc hướng đến tự do đích thực. Khuôn vàng thước ngọc để sống tự do đích thực là lời khuyên của Chúa Giêsu : “Điều ǵ các ngươi không muốn người khác làm cho ḿnh th́ các người cũng đừng làm cho người khác”. Lời Chúa Giêsu là một khẳng định về tính cách giới hạn tự do của con người, đồng thời cũng nói lên tính cách tích cực của tự do của con người. Con người chỉ thực sự có tự do khi con người biết ra khỏi chính ḿnh để đến với người khác. Khắc phục những đam mê và nô lệ trong con người của ḿnh để sống cho người khác, đó là cung cách đích thực của một người có tự do.

Nhà thần học nổi tiếng của Tin Lành là ông Pô-thét Bôn-voi-es-tô đă viết : “Con người tự do nhất là con người có thể làm chủ, không phải đối với vũ trụ, nhưng là làm chủ được những chọn lựa của ḿnh”. Quả thực, nói đến tự do là nói đến khả năng chọn lựa. Chọn lựa th́ có thể chọn đúng, có thể chọn sai. Sai, lại có nhiều thứ sai khác nhau, có thứ sai ít, có thứ sai nhiều, có thứ sai người ta có thể làm lại được, có thứ sai một lần là măi măi mang niềm tủi hận. Đi lộn một khúc đường th́ mất thời giờ đi lại, nhưng đi lộn lư tưởng cuộc sống là mất cả cuộc đời. Mua lầm một cái áo th́ có thể mua cái khác, cưới lầm một t́nh yêu th́ vấn đề lại khác rồi. Nhưng cái sai lầm lớn nhất là dấn thân vào những cái xấu mà cố t́nh, cố chấp không nhận ḿnh sai lầm và không chịu cải sửa. Đó là thảm cảnh của tự do trong vấn đề chọn lựa.

V́ thế, mỗi người chúng ta phải tự quyết định lấy. Mỗi người hăy cố gắng trở nên ngày hôm nay điều chúng ta muốn cho ngày mai. Chúng ta phải biết can đảm chống lại những khuynh hướng xấu, phải dứt khoát với những cám dỗ, những cái xấu. Những lầm lỗi trong cuộc sống là điều không tránh khỏi : nhân vô thập toàn. Nhưng điều quan trọng là biết dừng lại, biết hối hận và quyết tâm sửa đổi. Chúng ta hăy nhớ : biết chấp nhận những giới hạn và những lầm lỗi là cung cách của một người tự do đích thực.


Lời Chúa và Thánh Thể

Xin chỉ cho con biết đường lối Chúa
Mt 21, 28 – 32

Lạy Chúa Giêsu Thánh thể ! Dụ ngôn trong bài Phúc Âm mà chúng con vừa được nghe. Nói về thái độ của hai người con khi người cha già giao việc đi làm vườn nho. Một người th́ từ chối, nhưng cuối cùng ân hận và lại đi. C̣n một người th́ vâng dạ, nhưng cuối cùng lại ngại ngùng và không đi.

Hai thái độ ngược nhau hoàn toàn. Nếu như người con trai thứ nhất đă đáp trả lời mời gọi của người cha một cách bất lịch sự, cộc cằn là “không”. Nhưng rốt cuộc lại đi làm. Bởi v́, người con này đă nghĩ lại đạo làm con và bổn phận chữ hiếu. Trái lại, người con thứ. Nếu như lúc đầu anh ta đă nhận lời người cha là sẽ đi làm vườn nho, bởi anh ta muốn đẹp ḷng cha. Nhưng v́ ngại khó ngại khổ và anh ta đă không đi. Qua bài dụ ngôn này Chúa muốn nói với chúng con phải biết chọn lựa lẽ phải, phải biết kết nối giữa lư thuyết và thực hành. Có lư thuyết và thực hành, đó là xây nhà trên đá, là kẻ lớn trong nước trời. Người con cả là biểu trưng cho những người làm vườn nho giờ thứ 11, là đứa con hoang đàng trở về, là người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện… Và chính thái độ của người con cả này đă đẹp ḷng Chúa.

Lạy Chúa ! Trong cuộc sống hàng ngày, có những lúc chúng con vẫn như người con thứ “vâng vâng” “dạ dạ” đó, nhưng chúng con lại chẳng giữ lời, lại quên ngay với những toan tính cho riêng bản thân chúng con và không đáp trả lại lời mời gọi của Chúa. Chính điều này, chúng con biết rằng Chúa buồn chúng con rất nhiều. Chúa luôn muốn chúng con vâng lời với một thái độ dứt khoát, chứ không phải như người con thứ chỉ vâng lời ngoài môi ngoài miệng, c̣n trong ḷng th́ lại chống lại và làm những thứ ḿnh thích. Chúa ơi ! Ngay chính giữa cuộc sống gia đ́nh chúng con, nhiều khi chúng con vẫn tỏ thái độ không chấp nhận ư kiến, lời chỉ dạy của cha mẹ. Vẫn biết rằng phận làm con, chúng con phải có bổn phận “Kính trên nhường dưới”, vâng lời trong lẽ phải, trong chân lư. Nhưng nhiều lần, chúng con đă không chấp nhận và vâng lời như thế. Chúng con cứ cho là ḿnh sống mới, hợp thời hơn cha mẹ. Chúng con coi cha mẹ là cổ hủ, không hợp thời, rồi chúng con nghĩ ḿnh “Con hơn cha nhà có phúc”. Nhưng lạy Chúa ! Đây chỉ là suy nghĩ nông nổi của tuổi trẻ chúng con, chính cha mẹ mới là những người có nhiều kinh nghiệm và khôn ngoan trong cuộc sống. V́ vậy mà “Cá không ăn muối cá ươn”. Nếu như gia đ́nh là một con thuyền, th́ chính cha mẹ của chúng con là bánh lái, c̣n chúng con chỉ là mái chèo mà thôi. Chúng con vẫn biết rằng nếu như trong gia đ́nh không có uy quyền, không c̣n chữ vâng lời th́ gia đ́nh đó chắc chắn sẽ diệt vong.

Chắc chắn rằng, lạy Chúa ! Trong cuộc sống cũng đă nhiều lúc chúng con tỏ thái độ như người con thứ. Mới nghe th́ chấp nhận, nhưng khi bắt tay vào việc gặp khó khăn thất bại chúng con lại nản ḷng và từ chối không thực thi Thánh ư của Chúa. Nếu như ngày xưa nhóm Kư lục và Pharisiêu bị lên án dữ dội v́ họ giả h́nh. Nói nhiều, làm ít, đặt gánh nặng lên vai người khác nhưng trốn tránh cho chính ḿnh. Ngày nay cũng vậy, nhiều lúc chúng con cũng chẳng hơn ǵ những Pharisiêu ngày xưa, chúng con cũng lười biếng, luôn muốn bản thân được an nhàn. Trong khi đó lại thích người khác phục vụ ḿnh hơn là ḿnh phục vụ người khác. Nhiều lúc chúng con cũng chỉ biết ra lệnh cho người khác làm, c̣n chúng con lại chẳng làm ǵ. Nếu như trong cuộc sống cộng đoàn đ̣i hỏi chúng con phải đóng góp công sức của ḿnh, th́ chúng con lại muốn anh em khác góp phần xây dựng, nhưng chính chúng con lại lẩn tránh không muốn đóng góp. Mọi công việc và trách nhiệm đùn đẩy cho những anh em khác, ai muốn làm ǵ th́ làm, c̣n tôi th́ ngồi chơi.

Lạy Chúa Giêsu Thánh thể, chắc hẳn rằng trong mỗi người chúng con luôn muốn nên tốt và hoàn thiện hơn trước mặt Thiên Chúa và luôn muốn thực thi ư Chúa. Nhưng để hiểu được ư Chúa muốn chúng con thi hành quả không phải là dễ, không phải là chúng con không muốn làm công việc mà Chúa muốn chúng con làm. Lạy Chúa xin chỉ cho chúng con biết đường lối Chúa, để chúng con có thể đem ra thi hành trong cuộc sống của chúng con. Chính Chúa Giêsu đă tự xưng ḿnh là đường và Chúa đă mời gọi chúng con bước theo Chúa trên con đường mà Chúa đă đi, đó là con đường Thánh giá.

Vâng Chúa ơi ! Lời Chúa mời gọi chúng con sẵn sàng nghe theo, nhưng với thân phận yếu đuối và sự ươn lười của tính xác thịt, không ít lần chúng con đă ngoái đầu lại và không muốn bước đi trên con đường mà Chúa đă dọn cho chúng con. Và nhiều khi đă gần đi trọn con đường rồi, gần đến đích rồi, nhưng chúng con lại bỏ cuộc và rẽ sang hướng khác. Xin Chúa hăy ban cho chúng con ḷng can đảm bước đi đến cùng trên con đường mà Chúa muốn chúng con đi và cũng xin cho chúng con có thái độ vâng lời dứt khoát trong việc đáp trả lời mời gọi đi làm vườn nho cho Chúa. Amen.

 
Micae Phạm Vũ Giang Đ́nh op.

Lạy Chúa, này con xin đến thực thi ư Chúa.
Mt 21: 28-32

Lời Chúa hôm nay, thánh sử Mat-thêu đă thuật lại cho chúng ta việc Chúa Giêsu nói các thượng tế và kỳ mục về những ai thực thi ư Chúa qua dụ ngôn hai người con làm vườn nho cho cha. Người con thứ nhất đáp: “con không muốn” nhưng anh ta nghĩ lại, hối hận v́ lời nói của ḿnh nên anh đi làm vườn nho cho cha. Ngược lại, người con thứ trả lời “con đi” nhưng anh ta lại không đi làm vườn nho cho cha.

Thiên Chúa là người cha nhân từ, Ngài luôn mời gọi mỗi người chúng ta hăy làm vườn nho cho Chúa - Là thực thi ư Chúa bằng chính đời sống hằng ngày của chúng ta.

Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thường gặp hai loại người: một là loại người không nói nhưng lại làm. Hai là loại người nói nhưng không làm. Hoặc là người nói nhiều nhưng làm ít, và người nói ít nhưng làm nhiều. Thiên Chúa muốn chúng ta thực hiện lời hứa bằng hành động của ḿnh, chứ không phải hứa suông bằng môi miệng. Đức Giêsu đă nhiều lần lên án thái độ h́nh thức bên ngoài “ không phải những ai thưa lạy Chúa, lạy Chúa! mà được vào nước trời cả đâu, nhưng chỉ ai thi hành ư muốn của Cha, Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi”. Sở dĩ như vậy, v́ họ là những người tội lỗi biết ḿnh lầm lạc đă ăn năn hối cải, nên được vào nước Thiên Chúa. Điều quan trọng là nhận ra lỗi lầm, biết ăn năn hối cải quay trở về với Thiên Chúa. Mặc dù quá khứ cho dầu đầy tội lỗi, nhưng tỏ ḷng ăn năn sám hối và tin vào t́nh thương của Thiên Chúa th́ sẽ được vào nước Ngài.

Qua dụ ngôn hai người con làm vườn nho cho Cha, Đức Chúa Giêsu chính là người con mẫu mực và tuyệt hảo. Đức Giêsu đă nói với Cha tiếng “Dạ”, tiếng “Vâng” ngay từ thuở ban đầu: “NÀY CON XIN ĐẾN THỰC THI Ư CHA” và đă thực thi đến nơi đến chốn mọi thánh ư của Chúa Cha.

V́ Đức Giêsu là người con mẫu mực và tuyệt hảo của Chúa Cha, chúng ta phải lấy Người làm chuẩn mực cho mọi suy nghĩ, lời nói và việc làm cho cách sống của chúng ta. Chúng ta phải đặt ra cho ḿnh mỗi ngày, để định hướng cuộc sống hoặc điều chỉnh những sai lạc của chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Chúng con là những con người thân phận yếu đuối, tội lỗi, và bất toàn v́ nhiều lần trước mặt Chúa vào những giờ kinh, lễ ở nhà thờ, mỗi lời kinh là lời “thưa Chúa, con đi làm”, nhưng ra khỏi nhà thờ, về đời sống xă hội, mỗi thái độ, mỗi hành động là mỗi lời “ thưa Chúa, con không muốn làm theo ư Chúa”. Xin Chúa giúp chúng con luôn biết “ thưa vâng” với Chúa bằng cả giờ kinh nguyện và bằng đời sống của chúng con.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài soi sáng giúp chúng con nhận ra thánh ư Chúa trong những lời nói cũng như việc làm, trong những biến cố xảy ra trong đời sống của chúng con. Và xin ban cho chúng con được ơn can đảm, để chúng con chu toàn và thực thi ư Chúa qua việc làm chứ không phải ngoài môi miệng. Amen.


Đỗ Lực op

KHI NGÔN SỨ THỨC DẬY
(Mt 21:28-32)

 T́nh h́nh giáo xứ Thái Hà và Ṭa Khâm Sứ Hà Nội sôi động hẳn lên khi những sự kiện dồn dập xảy đến ngoài dự tính của nhiều người. Tất cả các hành động của nhà nước thật nhịp nhàng và có sắp xếp tính toán kỹ lưỡng. Từ việc dùng roi điện, dùi cui gây đổ máu đến việc quy tụ đám đông ḥ hét, đập phá trước hàng rào công an, chó nghiệp vụ v.v. đều răm rắp theo lệnh trên. Tất cả đều nằm dưới ảnh hưởng truyền thông “theo lề bên phải” và nền hành chánh ưa bạo hành.

Không những dùng đủ mọi thủ đoạn để chiếm đoạt đất đai Giáo Hội, nhà nước cố biện minh cho việc làm của ḿnh là chính đáng. Chưa xong, họ c̣n muốn lôi kéo Hội Đồng Giám Mục Việt Nam về phe minh để lên án Tổng Giám Mục Ngô quang Kiệt và linh mục Vũ Khởi Phụng cũng như các linh mục DCCT. Nhưng HĐGMVN đă thẳng thắn trả lời “không !”

Phải chăng các ngôn sứ trong Giáo Hội Việt Nam đă thức giấc sau đêm trường im hơi lặng tiếng ? Phải chăng Chúa Thánh Linh đang mở con đường công chính cho GHVN và toàn thể dân tộc bước vào ? Sự công chính đích thực có phải bao giờ cũng thuộc về số đông và những kẻ cầm quyền không ? Chúng ta cố gắng t́m hiểu qua dụ ngôn Chúa Nhật hôm nay và những giáo huấn của Giáo Hội về xă hội.

TRONG TRẦN AI, AI DỄ BIẾT AI ?!

Suốt lịch sử dân thánh, ngôn sứ đóng vai vô cùng quan trọng. Nếu không có ngôn sứ, chắc chắn dân tộc Do thái sẽ ĺa xa Thiên Chúa và lạc vào đường lối bất chính của dân ngoại. Sứ mệnh chính của ngôn sứ là “chỉ đường công chính.” (Mt 21:32).

Từ xưa, ngôn sứ Êdêkien đă biện hộ cho sự công chính của Thiên Chúa. Ông đưa ra hai h́nh ảnh người công chính và kẻ gian ác để mọi người thấy rơ con người phải thay đổi theo Thiên Chúa, chứ không thể ngược lại. Sau này, ông Gioan Tẩy giả cũng rao giảng và chết cho sự công chính. Gioan hiên ngang kêu gọi mọi người hối cải để chuẩn bị gia nhập Nước Trời do Chúa Giêsu mang đến. Nhưng hỏi có mấy người thực sự lắng nghe ? Chúa Giêsu đưa dụ ngôn hôm nay để làm sáng tỏ vấn đề công chính hơn.

Hơn ai hết, “các thượng tế và kỳ mục trong dân” (Mt 21:28) phải là những người hiểu biết sự công chính trong Kinh thánh và Luật lệ Thiên Chúa. Nhưng sự hiểu biết đó chỉ làm cho họ thêm kiêu ngạo và không thể lắng nghe hay hối cải được nữa. Ở đây Chúa Giêsu phân biệt rơ sự khác biệt trời vực giữa kiến thức và đức tin.

Nhờ kiến thức rộng về Nước Trời, họ đă bẻ cong sự công chính theo đường lối của ḿnh và t́m mọi cách biện hộ cho những tham vọng riêng. Chưa một ai dám đưa ra h́nh ảnh táo bạo như Chúa Giêsu khiến họ phải giật ḿnh : “Tôi bảo thật các ông : những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông.” (Mt 21:31) Hai hạng người này đều là những mẫu người bất chính. Chúa Giêsu không đề cao sự bất chính của họ, nhưng nhấn mạnh đến sức mạnh biến đổi con người, đó là đức tin (x. Mt 21:32). Chỉ có đức tin mới khiến con người hành động theo đường công chính. Chính v́ thiếu đức tin, chứ không phải kiến thức, các nhà lănh đạo đă không có sức mạnh hoán cải để vào Nước Trời. Không có đủ điều kiện gia nhập Nước Trời, làm sao họ có thể tin nhận sứ điệp Tin mừng của Chúa Giêsu ?

Được kêu gọi gia nhập Nước Trời, chúng ta cần phải hành động để chứng tỏ niềm tin sâu xa và cầu nguyện cho những người đang ở ngoài. Khi kể dụ ngôn hôm nay, Chúa Giêsu không có ư đề cao hành động hơn đức tin. Nhưng thực tế, Chúa muốn cho mọi người thấy đức tin chân thật không thể nào không đưa tới hành động công chính. GHVN đang hành động và cầu nguyện cho mọi người thấy tất cả sức mạnh của đức tin.

TỪ ĐỨC TIN ĐẾN ƠN CỨU ĐỘ

Như thế, đức tin đóng vai quan trọng trong việc công chính hóa. Tại sao ? Thưa, “Ơn cứu độ do Thiên Chúa ban cho con cái Người, đ̣i họ phải đáp trả và chấp nhận cách tự do. Chính ơn cứu độ là nội dung của đức tin. Qua ơn cứu độ, ‘con người tự do phó thác toàn thể thân ḿnh cho Thiên Chúa,’ để đáp lại t́nh yêu hàng đầu và sung măn của Thiên Chúa (x. 1 Ga 4:10) bằng một t́nh yêu cụ thể đối với anh chị em, và bằng một niềm hy vọng vững chắc, v́ ‘Đấng đă hứa là Đấng trung tín.’ (Dt 10:23) Thực vậy, kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa không khiến con người rơi vào t́nh trạng hoàn toàn thụ động hay thấp kém hơn Đấng Tạo Hóa, v́ Chúa Giêsu Kitô mạc khải cho họ mối tương giao với Thiên Chúa và nhờ Chúa Thánh Linh, Chúa làm cho chúng ta tham dự vào mối tương quan, mối tương quan giữa con cái và cha mẹ. Đó chính là mối tương quan Chúa Giêsu đă sống với Chúa Cha (x. Ga 15-17; Gl 4:6-7)”[1] Không có đức tin, không thể nhận ra mội tương quan với Thiên Chúa và cả anh em nữa. Nếu không thấy những mối tương quan chồng chéo đó, con người làm sao có thể hành động chính xác và chính trực ?

Thực tế không có sự mâu thuẫn giữa đức tin và cuộc sống xă hội. Trái lại, “càng tin vào Chúa Giêsu Kitô chúng ta càng hiểu đúng về sự phát triển xă hội, trong bối cảnh một nền nhân bản toàn vẹn và liên đới. Về phương diện này, Huấn Quyền về xă hội của Giáo Hội đóng góp những suy tư thần học rất hữu ích : “trong khi soi sáng bản chất nội tại của sự phát triển, đức tin Chúa Kitô là Đấng Cứu độ cũng hướng dẫn chúng ta tham gia hành động.”[2] Càng bước theo Chúa Kitô, càng thấy bổn phận và đường lối nhập cuộc vào cuộc sống, v́ tự bản chất Đạo Chúa là đạo nhập thể và nhập thế.

Nhưng để có thể nhập cuộc hữu hiệu, “giáo dân được mời gọi nhận ra những bước phải theo trong những hoàn cảnh chính trị cụ thể để đem ra thực hành những nguyên tắc và những giá trị thích hợp với cuộc sống xă hội. Cần phải có một phương pháp biện phân về cuộc sống này, cả trên lănh vực con người lẫn xă hội : sự hiểu biết về hoàn cảnh phải được phân tích nhờ các khoa xă hội và các trợ cụ thích ứng khác; suy tư có hệ thống về các thực tại này dưới ánh sáng sú điệp thường hằng của Tin Mừng và giáo huấn xă hội của Giáo Hội; các lựa chọn phải được nhận định nhằm bảo đảm hoàn cảnh sẽ diễn tiến tích cực. Khi thực tại đă được cẩn thận xem xét và giải thích phù hợp, người ta có thể có những lựa chọn cụ thể và hiệu lực. Tuy nhiên, không bao giờ được gán cho những lựa chọn này một giá trị tuyệt đối, v́ không có vấn đề nào giải quyết một lần là xong. ‘Không bao giờ được giả định đức tin Kitô áp đặt một khung h́nh cứng ngắc trên những vấn đề xă hội và chính trị. Nhờ đức tin, Kitô hữu ư thức rằng hoàn cảnh lịch sử đ̣i con người sống trong những hoàn cảnh bất toàn và có thể thay đổi mau lẹ.”[3]

Sống giữa hoàn cảnh đó, càng tin vào Chúa Giêsu Kitô, con người càng sáng suốt nhận định t́nh h́nh và phản ứng mau lẹ trước những biến chuyển của hoàn cảnh xă hội. Lư do v́ tin Chúa Kitô là t́m được kho tàng khôn ngoan của Thiên Chúa. 

GIỜ ĐĂ ĐIỂM

Một khi lănh nhận được sự khôn ngoan của Thiên Chúa, Kitô hữu không c̣n giống những cánh bèo trôi giạt trong ḍng thời cuộc. Nhờ lời cầu nguyện, họ sẽ làm chủ t́nh h́nh bằng tất cả sức mạnh và khôn ngoan của Thiên Chúa. Sự thật đó được phơi bày rất rơ trong cả hai biến cố giáo xứ Thái Hà và Ṭa Khâm Sứ Hà Nội.

Những biến động hiện nay như một món quà Chúa gởi cho GHVN. Sau bao năm tháng im lặng đến khó hiểu, các GMVN lên tiếng : “Giáo hội không có chức năng làm chính trị, nhưng cũng không đứng bên lề xã hội. ”[4] Như thế, từ nay giáo dân Việt Nam đă thấy rơ lập trường của các vị lănh đạo của ḿnh.

Giáo dân càng phấn khởi khi thấy các GMVN can đảm đề cập đến từng trường hợp và nhân tiện đề cập tới những vấn đề cấp thiết để cứu văn xă hội Việt Nam. Vui nhất là khi thấy các ngài đă dám lănh trách nhiệm. Đứng trên cương vị lănh đạo GHVN, các ngài đă thẳng thắn nhận định :

“Tình hình khiếu kiện đất đai kéo dài và chưa được giải quyết thỏa đáng là vấn đề thời sự, trong đó có đất đai của các tôn giáo nói chung và giáo hội công giáo nói riêng, cụ thể như vụ việc Tòa Khâm sứ cũ (số 42 Nhà Chung) và giáo xứ Thái Hà (số 178 Nguyễn Lương Bằng, Hà Nội). Chắc chắn có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, nhưng ở đây chúng tôi muốn lưu ý đặc biệt đến điều này: luật về đất đai tuy đã sửa đổi nhiều lần nhưng vẫn còn bất cập, chưa đáp ứng kịp đà biến chuyển trong đời sống xã hội, đặc biệt là chưa quan tâm đến quyền tư hữu chính đáng của người dân. Thêm vào đó, nạn tham nhũng và hối lộ càng làm cho tình hình tệ hại thêm. Thiết nghĩ không thể có một giải quyết tận gốc nếu không quan tâm đến những yếu tố này.”[5]

Sau đó, các ngài đă mạnh dạn nói rơ những đề nghị : “Nếu luật về đất đai còn nhiều bất cập thì nên sửa đổi cho hoàn chỉnh. Việc sửa đổi này cần phải quan tâm đến quyền tư hữu của người dân như Tuyên ngôn quốc tế của Liên hiệp quốc về Nhân quyền đã khẳng định : ‘Mọi người đều có quyền tư hữu riêng mình hay chung với người khác… và không ai có thể bị tước đoạt tài sản của mình cách độc đoán’ (số 17). Vì thế, chúng tôi cho rằng thay vì chỉ giải quyết theo kiểu đối phó hoặc cá biệt, thì giới hữu trách phải tìm giải pháp triệt để hơn, tức là để người dân có quyền làm chủ tài sản, đất đai của họ, đồng thời người dân cũng phải ý thức trách nhiệm của mình đối với xã hội. Đòi hỏi này lại càng khẩn thiết hơn trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày nay, khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu hơn vào nhịp sống chung của thế giới. Đây sẽ là tiền đề cho việc giải quyết tận gốc những vụ khiếu kiện về đất đai và tài sản của người dân, đồng thời góp phần tích cực vào tự tăng trưởng kinh tế và sự phát triển vững bền của đất nước.” [6]

Ngoài ra, trong t́nh h́nh hiện nay, ai cũng thấy vai tṛ truyền thông rất quan trọng. Một khi nằm trong tay những người không thiện chí, truyền thông có thể rắc gieo sự gian dối khắp nơi, khiến quần chúng có thể phạm những tội ác khôn lường. Nhận định về truyền thông trong nước hiện nay, các GMVN nhận thấy : “Trong tiến trình giải quyết những tranh chấp, một số phương tiện truyền thông thay vì là nhịp cầu liên kết và cảm thông thì lại gieo rắc hoang mang và nghi kỵ ... Ngày nay, một trong những điều gây nhức nhối lương tâm là sự gian dối trong nhiều lãnh vực, kể cả trong môi trường cần đến sự thật nhiều nhất là giáo dục học đường. Chắc chắn tất cả những ai tha thiết với tiền đồ của đất nước và dân tộc, không thể không quan tâm đến tình trạng này.”[7]

Quyết tâm của HĐGMVN càng thể hiện rơ trong những nguyên tắc sau đây : “Đạo đức nghề nghiệp đòi hỏi những người làm công tác truyền thông phải tôn trọng sự thật. Trong thực tế, đã có những thông tin bị bóp méo hoặc cắt xén, như trong trường hợp tranh chấp đất đai tại Tòa Khâm sứ cũ. Vì thế, chúng tôi đề nghị những người làm công tác truyền thông đại chúng phải hết sức cẩn trọng khi đưa tin tức và hình ảnh, nhất là khi liên quan đến danh dự và uy tín của cá nhân cũng như tập thể. Nếu đã phổ biến những thông tin sai lạc thì cần phải cải chính. Chỉ khi tôn trọng sự thật, truyền thông mới thực sự hoàn thành chức năng của mình là thông tin và giáo dục nhằm xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.”[8]

Đứng trước bạo lực và những đe dọa, các vị lănh đạo GHVN có sợ không ? Các ngài vẫn b́nh tĩnh xác định : “Cuối cùng, truyền thống văn hóa và đạo đức của dân Việt vốn nhấn mạnh đến tình tương thân tương ái và sự hài hòa trong xã hội. Tuy nhiên khi giải quyết những tranh chấp gần đây, đáng tiếc là đã có những hành vi sử dụng bạo lực, làm mất đi tương quan hài hòa trong cuộc sống. Vì thế, chúng tôi tha thiết mong ước mọi người hãy chấm dứt mọi hình thức bạo lực, trong hành động cũng như trong ngôn từ. Cũng không nên nhìn những tranh chấp này theo quan điểm chính trị và hình sự. Một giải pháp thỏa đáng chỉ có thể đạt được nhờ đối thoại thẳng thắn, cởi mở và chân thành, trong hòa bình và tôn trọng lẫn nhau.”[9] Chỉ những người không có chân lư mới sợ đối thoại. Họ chỉ c̣n một đường lối duy nhất để giải quyết vấn đề là bạo lực, lừa đảo và gian ác.

Nhờ truyền thông, họ đă nhồi sọ được đám đông và tự hào v́ những mưu ma chước quỷ. Là những nhà lănh đạo dân tộc, nhưng họ chẳng khác ǵ “những thượng tế và kỳ mục trong dân” Do thái xưa. Họ biết rất rơ những đ̣i hỏi của công lư và lương tâm, nhưng họ vẫn không thi hành.

Tóm lại, trước những hà lạm của những nhà lănh đạo Do thái đương thời, Chúa Giêsu đă lên tiếng thách thức và cảnh cáo về sự công chính giả hiệu của họ. Những hạng người bị họ kết án bất chính lại có thể chiếm được Nước Trời trước họ. Sự công chính thực sự phát xuất từ đức tin sâu xa, chứ không từ kiến thức hay truyền thống lỗi thời.

Trước những lời đe dọa đầy bạo lực của nhà nước và những thông tin đầy ác ư của giới truyền thông, hàng lănh đạo GHVN đă mạnh mẽ đ̣i hỏi công lư cho người vô tội và lên tiếng báo động Việt Nam đang trên bờ vực thẳm, nếu không sớm tỉnh thức trước tiếng nói lương tâm và những đ̣i hỏi chính đáng của con người. Chỉ những ai thành tâm thiện chí mới t́m thấy sự thật và sự công chính đích thực cho cuộc sống vươn lên.

Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đă cho các vị lănh đạo GHVN can đảm đóng vai ngôn sứ trước những thách thức của bạo lực hôm nay. Xin cho GHVN nghe được nhiều tiếng nói ngôn sứ hơn nữa. Amen.

đỗ lực, 28.09.2008

 


[1] Toát Yếu Học Thuyết Xă Hội Của Giáo Hội, 39.

[2] ibid., 327.

[3] ibid., 568.

[5] ibid.

[6] ibid.

[7] ibid.

[8] ibid.

[9] ibid.


Lm. Jude Siciliano, OP
(Chuyển ngữ:: Anh em HV Đaminh G̣-Vấp)

Hôm nay con hăy đi làm vườn nho
Mt 21: 28-32

Chắc chắn ai trong chúng ta cũng có thể kể về những người làm chúng ta thất vọng. Họ hứa với chúng ta nhưng chẳng bao giờ thực hiện điều đă hứa. Chúng ta tin tưởng họ, nhưng cuối cùng họ lại thất hứa. Chẳng hạn người bạn đời hứa yêu ta “cho đến chết” – và rồi chính người ấy rút lại lời hứa của ḿnh bằng chính hành động phản bội hoặc rơ ràng hoặc lén lút, mỗi ngày.

Thậm chí chúng ta có thể kể ra tất cả những lần ta bị người khác thất hứa từ thời c̣n nhỏ đến nay – những lời hứa “nếu không làm được tôi sẽ chết” chẳng bao giờ thành ấy cứ đầy cả ra. Hoặc sau này, có lúc trong đời, ta sẽ mất đi một người thân yêu, và những người tỉnh táo ngoài cuộc vỗ về chúng ta với những lời đầy cảm thông: “Nếu có bất cứ điều ǵ tôi có thể làm được, th́ đừng ngại gọi cho tôi nhé. Tôi sẽ đến ngay.” Sau đó, dường như họ bốc hơi vào không khí, để chúng ta ở lại loay hoay trong nỗi cô đơn, buồn khổ với một đời sống vừa đột ngột đổi thay. Họ đă hứa “tôi sẽ giúp bạn” nhưng rồi lại lặn mất tăm hơi.

Cũng có đó những thất vọng mà chúng ta phải đối mặt thường ngày. Chúng ta có thể đă hết sức cố gắng sắp xếp trong lịch tŕnh dày đặc của ḿnh một cuộc hẹn với một người, nhưng rồi họ lại không đến. Hoặc là, ta đi phỏng vấn xin việc, họ nói sẽ gọi điện thoại lại nhưng rồi điều đó chẳng bao giờ xảy ra. Cả trong đời sống gia đ́nh lẫn xă hội đang có đó những t́nh bạn khiến ta thất vọng, những thất tín tầm thường, những bí mật và chuyện đàm tiếu. Những lần thất hứa như thế ảnh hưởng sâu sắc đến chúng ta, đến nỗi chúng ta phải t́m cách khoắc lên ḿnh bộ áo giáp bảo vệ ḿnh khỏi những tổn thương sau này. Chúng ta chuẩn bị cho ḿnh như thế để khỏi quá ngạc nhiên khi nhận được những lời Vâng Dạ, nhưng rồi chỉ nhận được một chữ KHÔNG to tướng.

Khi chúng ta rơi vào t́nh trạng như thế, hăy thừa nhận những cách mà chính chúng ta đă không giữ lời, để tránh va chạm hay xung đột mà chúng ta nói Vâng Dạ nửa vời với ai đó hoặc về điều mà chúng ta chẳng bao giờ muốn thực hiện. Chúng ta đă tự hạ giá ḿnh để rồi người ta không thể mong ǵ nhiều nơi chúng ta; chúng ta không thể khiến người khác luôn tin tưởng. Chúng ta giống đứa con đă nhận lời cha nhưng chẳng bao giờ giữ lời. Chúng ta nói Vâng nhưng rồi lại thành ra là Không.

Dù chúng ta có là người bị hứa lèo hay là kẻ thất hứa hoặc hứa cho qua chuyện, th́ chúng ta vẫn cần được Lời Chúa hôm nay chữa lành và thúc đẩy. Sự hiện diện của chúng ta trong Tiệc Thánh Thể này nói lên tiếng Vâng của chúng ta; không chỉ là cầu nguyện hay tham dự vào nghi lễ, nhưng c̣n là biểu hiện sự dấn thân mỗi ngày trong đời sống chúng ta.

Ví dụ, khi chúng ta đón nhận Thánh Thể và thưa “Amen” là chúng ta cam kết trở thành môn đệ của Đức Giêsu và bắt chước Ngài sống phục vụ và hiến thân cho tha nhân. Liệu ḷng chúng ta có thực sự dành cho Đấng mời gọi: “Hăy theo Tôi” hay không? Liệu lời thưa Vâng của chúng ta trong Thánh lễ này có làm cho sự sống của Ngài được hiển hiện trong đời sống chúng ta hay không? Hay là lời thưa Vâng của chúng ta trong Thánh lễ lại hóa ra tiếng Không trong cuộc đời?

Bài Tin mừng hôm nay bắt đầu cho hàng loại những cuộc xung đột giữa Đức Giêsu với những kẻ chống đối Ngài. Đức Giêsu tiến vào Giêrusalem nơi Ngài xua đuổi những người buôn bán và đổi tiền khiến giới lănh đạo Dothái giáo lúc bấy giờ tức giận. Các trưởng lăo và tư tế đă đến đặt vấn đề với Đức Giêsu (Mt 21,23). Dụ ngôn của Đức Giêsu quả là một thách thức đối với họ. Ngài luôn phải đối diện với những người biệt phái luôn nói Vâng với Thiên Chúa bằng thái độ tuân giữ nghiêm ngặt luật đạo và thực hành các nghi lễ. Ngài tố cáo họ đă chất những gánh nặng lên vai người khác trong khi chính họ lại không thèm động đến dù chỉ bằng một ngón tay. Thế nên Đức Giêsu gọi những người Pharisêu và kinh sư là những kẻ giả h́nh. Họ là những người thưa Vâng với Thiên Chúa nhưng trong thái độ và hành động của ḿnh lại nói Không với những ǵ Thiên Chúa muốn họ thực hiện.

Người con thứ nhất có hoàn thành bổn phận mà cha nó yêu cầu hay không? Dụ ngôn hôm nay thật lạ v́ chúng ta không cho ta biết điều đó. Điều Đức Giêsu muốn nói không phải là mức thành công mỹ măn cho bằng nhắm đến sự sẵn ḷng đáp lại lời mời gọi phục vụ. Có lẽ ước muốn phục vụ của chúng ta là những ǵ Thiên Chúa mong chờ và chính ước muốn đó và những cố gắng của chúng ta tạo ra một khoảng trống cho Thiên Chúa bước vào và khỏa lấp mọi thiếu hụt.

Bài trích sách Êdêkien quay về ư niệm trong Cựu Ước. Vị ngôn sứ và những người cùng thời đang bị lưu đày, khóc thương cho sự sụp đổ của quê hương ḿnh. Ai phải chịu trách nhiệm cho việc họ bị thảm bại dưới tay quân Babylon? Trước hết sự trừng phạt dành cho tội lỗi do những sai lầm của cha ông họ - “đời cha ăn nho xanh, đời con phải ê răng” (Ez 18,2; Xh 34,7). V́ cha ông họ đă quay lưng lại với Thiên Chúa nên những người ở nơi lưu đầy cho rằng đó là lư do họ bị trừng phạt.

Nhưng như chúng ta nghe trong bài đọc hôm nay, Êdêkien nhấn mạnh đến trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với kết cục của cuộc đời ḿnh. Con người không thể tự nhủ: cầu nguyện đi; chay tịnh trong những ngày thánh; bỏ tiền thau,… Điều đó không tự nhiên giúp chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa. Điều đó cũng không đủ để trở thành Kitô hữu, hay để nói như Phaolô, “Đức Giêsu là Chúa!” Chúng ta phải hiện thực lời thưa Vâng bằng cách loan báo niềm hy vọng cho những ai thất vọng; cho kẻ đói ăn; giải phóng những ai bị áp bức; chữa lành kẻ yếu đau và mang lại ánh sáng cho kẻ mù ḷa.

Thư Philipphê ch o chúng ta một mẫu gương về một người con thứ hai thưa rằng: “Vâng, con sẽ đi”. Ngài đă đi và hoàn tất sứ vụ mà Thiên Chúa trao cho. Bài đọc bao gồm một bài thánh ca của các Kitô hữu xưa mà thánh Phaolô đưa vào trong lá thư của ḿnh. Đức Giêsu sẵn ḷng phục vụ Thiên Chúa đến nỗi Ngài không giữ lại bất kỳ một địa vị nào mà lẽ ra Ngài xứng đáng có. Ngài không chỉ hạ cố trở thành con người, nhưng trong sự vâng phục, Ngài chấp nhận chết trên thập giá.

Thánh Phaolô dùng h́nh ảnh Đức Giêsu như khuôn mẫu cho chúng ta, những người một lần nữa thưa Vâng với Thiên Chúa trong Thánh lễ này. Với ḷng khiêm nhường, chúng ta không đặt sở thích của ḿnh lên trên hết nhưng kiên quyết thưa lời Vâng với Thiên Chúa. Nghĩa là chúng ta hiến trọn con người ḿnh cho Chúa để phục vụ người khác.

Những người tốt dường như không thấy cần phải đáp lại lời mời gọi của Đức Giêsu hầu thay đổi cuộc đời ḿnh và bước theo Ngài. Nhưng, theo như những ǵ hôm nay Ngài nói hôm nay, những kẻ tội lỗi như: “những người thu thuế và các cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông”. Hai sự đáp trả với Đức Giêsu có thể đặt ra trước chúng ta hôm nay. Hăy để cho sự hiện diện của chúng ta trong phụng vụ trở thành dấu chỉ cho khao khát của chúng ta trong việc canh tân cam kết trở thành môn đệ của Đức Giêsu, không chỉ bằng lời nói, nhưng cả trong hành động nữa.

Khi nh́n lại những ngày tháng qua và nhận ra lối sống của ḿnh, với những suy nghĩ và hành động cho thấy chúng ta chỉ là những người môn đệ thờ ơ, th́ chúng ta cần một cơ hội thứ hai như dụ ngôn này mang lại chúng ta. Chúng ta muốn thay đổi quan điểm, hối cải và làm những điều tốt mà chúng ta biết ḿnh được mời gọi thực hiện – và làm với lời xin Vâng chân thành như Tin mừng đ̣i buộc chúng ta.


Lm. Jude Siciliano, OP.

Hăy đi làm vườn nho cho Chúa

 Ed 18,25-28; Pl 2,1-11; Mt 21,28-32

Kính thưa quư vị,

Hai ông bà Harry và Kate sắp sửa mừng kỷ niệm 35 năm hôn phối. Cả bốn người con và bảy đứa cháu của họ sẽ có mặt tại bữa tiệc. Mọi thành viên trong gia đ́nh và bạn bè quen biết hai người bấy lâu, sẽ đến chúc mừng trong dịp vui này. Đứa cháu gái Kathleen mới bảy tuổi đă sáng tác một bài thơ đặc biệt “Cây anh túc và người mẹ”. Mọi người ai nấy đều nói rằng hôn lễ của Harry và Kate được “tổ chức trên thiên đường”. Hai người là cặp đôi hoàn hảo ngay từ thuở đầu.

Nhưng thực ra, lúc mới quen nhau, không phải mọi sự đều êm đẹp như thế. Họ quen nhau trong trường Đại học, Harry là sinh viên năm đầu của trường Luật, c̣n Kate, khi ấy cô sắp tốt nghiệp với tấm bằng về công tác xă hội. Một công việc ở trung tâm phúc lợi xă hội đang đón chờ sẵn khi cô ra trường. Khi đă quen nhau khoảng một năm, Harry ngỏ ư xin cưới. Khi ấy, Kate nói rằng cô vẫn chưa sẵn sàng kết hôn và muốn theo đuổi ước mơ của ḿnh, đó là giúp đỡ những người bần cùng trong xă hội, những người mà kinh tế của họ c̣n quá khó khăn. Harry vẫn một mực đề cập đến chuyện kết hôn, nhưng Kate khăng khăng rằng cô “vẫn chưa sẵn sàng”. Câu chuyện của hai người c̣n dài, nhưng kết lại: họ đă cùng nhau thảo ra một kế hoạch. Harry sẽ làm công việc nhà, để Kate có thể làm công tác xă hội – Harry là người đàn ông rất vững vàng, kiên định. Lời từ chối “không” của Kate cuối cùng đă trở thành tiếng “vâng” chân thành. Điều này đă xảy ra cách đây 35 năm.

Chẳng lẽ trong cuộc đời ḿnh, chúng ta lại không vui mừng khi có nhiều cơ hội để thay đổi suy nghĩ của ḿnh? Bằng cách nào đó, sau một thời gian dài chần chừ, chúng ta nắm lấy cơ hội và thưa “vâng” với ân sủng quan trọng, và điều đó làm thay đổi tất cả mọi sự: thay đổi trong một mối tương quan, một ơn gọi, hay trong khoảnh khắc hối hận về một hành động thực sự đáng tiếc ḿnh đă gây ra.

Các bậc cha mẹ sẽ rất dễ liên hệ bản thân với dụ ngôn ngày hôm nay: đứa con miễn cưỡng, lúc đầu không vâng lời cha mẹ, nhưng sau đó lại thay đổi suy nghĩ và làm những ǵ cha mẹ mong muốn. Trong khi đó, đứa con mới đầu xem chừng như ngoan ngoăn, đáp lại đề nghị của bố mẹ cách nhanh chóng “Vâng, thưa cha mẹ”, nhưng sau đó lại làm theo ư riêng của ḿnh.

Thưa quư vị, tôi xin được nói đôi lời về bối cảnh của đoạn Tin Mừng hôm nay. Đức Giêsu đến Giêrusalem. Đám người đông đúc bắt gặp Đức Giêsu khi Người vào thành. Thế rồi Đức Giêsu đi thẳng vào Đền Thờ. Ở đó, Người hành động như có trách nhiệm phải tẩy uế Đền Thờ khỏi những hoạt động thương mại (Mt 22,12-17). Đám đông tung hô Người, nhưng giới Lănh đạo tôn giáo th́ càng tức tối với sứ điệp Người rao giảng, với những hành động Người làm và với sự hiện diện của Người trong Đền Thờ. Ngày hôm sau, Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu nguyền rủa cây vả không sinh trái. Tin Mừng Mátthêu ám chỉ việc “trổ sinh hoa trái” là phải làm những việc tốt lành nhân danh Đức Giêsu. Sứ mạng người môn đệ là phải làm đúng như điều ḿnh tin; phải thưa “vâng” và làm đúng như lời ḿnh thưa.

Chính trong bối cảnh bị các nhà chức trách tôn giáo phản đối, Đức Giêsu kể dụ ngôn “người cha và hai người con”. Đức Giêsu hỏi những kẻ chống đối về quan điểm của họ, và câu trả lời hoá ra như một phán quyết về chính họ. Họ giống như người con đă thưa “vâng” cách kính trọng với cha ḿnh, nhưng cuối cùng lại không vâng lời cha. Họ thờ phượng Thiên Chúa trong Đền Thờ và chỉ thưa “vâng” với Thiên Chúa một cách h́nh thức bên ngoài mà thôi, nhưng thực tế họ không nghe theo lời mời gọi của ông Gioan Tẩy giả, đó là hăy đổi mới tâm can. Thiên Chúa xức dầu cho Đức Giêsu bằng Thánh Thần khi Người chịu phép rửa của ông Gioan tại sông Giođan. Đấng Mêsia đă đến, nhưng giới Lănh đạo tôn giáo đă không đón nhận điều mà ông Gioan đă loan báo và đă làm tại sông Giođan. Họ dường như có thưa “vâng” với Thiên Chúa, nhưng lại không đáp lời vị ngôn sứ đă được Thiên Chúa sai đến để nói với dân và loan báo về một Đấng Mêsia đang đến. Khi Đấng mà Thiên Chúa hứa ban cho dân đă đến và ở giữa họ, th́ họ phớt lờ, không đón nhận Người.

Giới lănh đạo Do Thái là những kẻ đạo đức giả. Dưới con mắt của Đức Giêsu, liệu có tội nào nghiêm trọng hơn tội đạo đức giả hay không? Nói cách khác, các môn đệ của Đức Giêsu phải hành động nhiều hơn là chỉ “thừa nhận Người là Đức Chúa”. Sau đó, chúng ta c̣n phải đi vào làm vườn nho, thực hiện điều đă thưa “vâng” ban đầu.

Rất nhiều người ở xứ đạo và trung tâm mục vụ học đường hẳn sẽ thấy rằng dụ ngôn hôm nay diễn tả đúng hoàn cảnh và tâm trạng của ḿnh. Trong các khảo sát được gởi đến cho những ai đang hoạt động ở giáo xứ, người ta nói rằng họ muốn giáo xứ có những hoạt động cụ thể – có những nhóm sinh hoạt giới trẻ, chương tŕnh tư vấn cho những người ly dị và goá bụa, tổ chức các lớp Kinh Thánh trong mùa Chay, rồi những khoá giảng dạy của nhiều chuyên viên ngoài giáo xứ,... Thế rồi, khi những chương tŕnh mới này được công bố trên nhà thờ, số người tham dự lại quá ít ỏi. Theo như sứ điệp của dụ ngôn hôm nay, hội đồng mục vụ hẳn sẽ nói rằng, “Chúng tôi nghĩ các bạn đă nói ‘vâng’, nhưng ngược lại là ‘không’”. Thật ngán ngẩm!

Có một yếu tố văn hoá trong bài Tin Mừng dường như sẽ rất ít quen thuộc với chúng ta, những người Phương Tây. Trong cách sống, người Trung Đông chuộng sự biểu lộ ra bên ngoài. Nếu được hỏi “Người con nào ngoan hơn?”, thính giả của Đức Giêsu sẽ trả lời người con thứ hai, v́ câu đáp ‘vâng’ của anh ta biểu lộ bên ngoài một thái độ tôn kính người cha. Trong suy nghĩ của người Phương Đông, sự tôn kính như thế cũng đủ rồi (Hăy “tôn kính cha mẹ” trong sách Đệ nhị luật 5,16). Người con thứ nhất không tôn kính cha của anh, bởi ban đầu anh từ chối, không làm điều cha anh mong muốn.

Thế nhưng, ở đây Đức Giêsu không quan tâm đến tiêu chuẩn văn hoá về chuyện tôn kính cha mẹ. Câu hỏi của Đức Giêsu tỏ lộ rơ ư định của Người: “Ai trong số hai người con này làm theo ư Cha?” Thính giả của Đức Giêsu đă trả lời chính xác: người con đầu, người con đă thay đổi suy nghĩ của ḿnh, làm theo ư của cha.

Nhóm chống đối – các thượng tế và kỳ mục, đă chất vấn Đức Giêsu về thẩm quyền giảng dạy của Người trong Đền Thờ. Quả nhiên, các thính giả của Người đă không bỏ lỡ cơ hội. Các viên chức thu thuế và gái điếm – những người mới đầu nói “không” với Thiên Chúa, nay tích cực đáp lại lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả, và bây giờ họ thực hiện đúng những điều ông Gioan giảng, những điều Thiên Chúa muốn.

Khi được hỏi tại sao họ không đi tới nhà thờ, rất nhiều người trả lời, bởi v́ họ thấy rằng các tín hữu là những người đạo đức giả. Có lẽ những người này làm việc hay học cùng trường với những người tự xưng rằng ḿnh chăm chỉ đến nhà thờ, nhưng rồi lại đi lừa đảo khách tiêu dùng hay lừa dối cấp trên, thiên vị tầng lớp xă hội, không tôn trọng đồng nghiệp, ... Những Kitô hữu như thế dường như thưa “vâng” với Đức Kitô, nhưng cuộc sống lại cho thấy câu trả lời ngược lại là “không”.

Có lẽ đấy cũng là điều mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô đă nhắc đến trong Tông huấn “Niềm vui Tin Mừng”. Tất cả những ai đă rửa tội đều được mời gọi trở thành người rao giảng Tin Mừng. Nếu chúng ta thưa “vâng” với Đức Kitô qua Phép rửa tội, th́ việc chỉ đi tới nhà thờ vào Chúa Nhật thôi, là vẫn chưa đủ. Lời thưa “vâng” của chúng ta phải được theo sau bởi hành động đi vào vườn nho “hôm nay”. Mỗi ngày, lời nói và hành động của chúng ta phải tương hợp với điều chúng ta tuyên xưng tin vào Đức Giêsu. Có một câu nói xưa rằng: “Giả như có một phạm nhân là một Kitô hữu, vậy th́ đă đủ bằng chứng để kết án và tống chúng ta vào nhà giam?”

Như Đức Giáo Hoàng đă nói, “Đọc Kinh Thánh cũng cho ta thấy rơ rằng Tin Mừng không chỉ thuần tuư là về mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa… cả việc rao giảng và đời sống Kitô giáo đều phải có một ảnh hưởng trên xă hội” (số 180). Dụ ngôn hôm nay nói về điều ấy theo cách như sau: “Nếu quư vị thưa ‘vâng’ với Đức Kitô, hăy ra đi và làm công việc Người mời gọi quư vị thực hiện”. Trong Bài Giảng Trên Núi, Đức Giêsu nói về điều đó theo cách khác nữa: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy ‘Lạy Chúa, Lạy Chúa’ là được vào Nước Trời cả đâu, nhưng chỉ có ai thi hành ư muốn của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, kẻ ấy mới được vào mà thôi” (Mt 7,21).

Quư vị hăy h́nh dung những lời nói như thế của Đức Giêsu đă gây nhức nhối cho những thính giả nhiệt thành của Người thế nào. Thư gởi tín hữu Philípphê đă tóm gọn lời thưa “vâng” của Đức Giêsu với Chúa Cha như thế này: “Đức Kitô đă từ bỏ chính ḿnh, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại c̣n hạ ḿnh, vâng lời cho đến nỗi bằng ḷng chịu chết, chết trên cây thập tự”.

Là những Kitô hữu, chúng ta không thể phán xét người khác, nhưng trước hết phải kiểm điểm lại đời sống của ḿnh. Chúng ta có theo gương Đức Giêsu, từ bỏ những đặc quyền bản thân và xa tránh mọi điều cản trở chúng ta yêu thương những người bị khinh miệt và nghèo khổ không?