Năm A

 
 

Chúa Nhật XVIII Thường Niên - Năm A
Is 55,1-3 / Rm 8,35.37-39 / Mt 14.13-21
 

An Phong op : Đức Giêsu Làm No Thỏa Cơn Đói Khát Tâm Linh

Như Hạ op : Thách Đố

Fr. Jude Siciliano op : Đức Giêsu Nhờ Các Môn Đệ Phân Phát Bánh và Cá

Fr. Jude Siciliano, op : C̣n quá nhiều người cần chúng ta lo cho họ

Fr Jude Siciliano op : Hăy nghe Ta để các con có sự Sống

Giacôbê Phạm Văn Phượng op : Thiên Chúa quyền phép

Phaolô Phạm Chung Kiên op : Biết Cho đi không tính toán

Đỗ Lực op : Sa Mạc Trần Gian

Fr Jude Siciliano, op : Chính Anh Em Hăy Cho Họ Ăn

Fr. Jude Siciliano, op: Hăy t́m kiếm những ǵ làm cho ta được no thỏa

 


An Phong op

Đức Giêsu Làm No Thỏa
Cơn Đói Khát Tâm Linh Của Ta

Mt 14.13-21

Tin mừng hôm nay ghi lại câu chuyện hóa bánh để nuôi dân chúng đang cơn đói ăn; đồng thời cũng báo trước bí tích Thánh Thể Đức Giêsu sẽ lập để nuôi chúng ta trong đời sống tâm linh.

Điều ǵ sẽ xảy ra khi chúng ta đói nhỉ ? Chắc hẳn là bao tử sôi lên, người mệt lả, khó chịu; đôi khi cơn đói hành hạ khiến chúng ta không suy nghĩ và hành động cho sáng suốt. Nhưng đói ăn chỉ là một trong vô vàn h́nh thức của cơn đói mà mỗi người chúng ta đều có kinh nghiệm. Con người không chỉ đói cơm bánh, nhưng c̣n đói chân lư, đói tự do, đói ḥa b́nh, đói hiểu biết, đói công lư, đói t́nh yêu… Như cơn đói cơm bánh, nếu những cơn đói khát này không được thỏa măn, con người sẽ khó chịu, mệt mỏi trong đời sống tinh thần.

Đức Giêsu đến trần gian để làm no thỏa cơn đói của chúng ta. Ngài là Bánh Hằng Sống, là Ánh Sáng trần gian, là sự Phục sinh; Ngài là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.

Nhưng Ngài không muốn làm một ḿnh và coi thường chúng ta như những đứa con nít. Ngài muốn chúng ta cộng tác vào công tŕnh cứu độ, để làm no thỏa những cơn đói khát tâm linh đó. Như thánh Augustinô nói : Thiên Chúa dựng nên chúng ta không cần chúng ta cộng tác; nhưng để cứu độ chúng ta, Ngài cần chúng ta cộng tác.
Như thế, Đức Giêsu đề nghị chúng ta cùng với Ngài làm việc để cho thế giới được "ăn", tức là làm no thỏa cơn đói khát tâm linh của con người; bằng cách :

"Đem yêu thương vào nơi oán thù
Đem thứ ta vào nơi lăng nhục
Đem an ḥa vào nơi tranh chấp
Đem chân lư vào chốn lỗi lầm.
Đem hy vọng vào nơi thất vọng
Đem ánh sáng vào nơi tối tăm
Đem ủi an đến chốn ưu sầu".

(Thánh Phanxicô Assidi)

Lạy Chúa Giêsu,
Con đă được ăn;
nhiều lúc con đă ăn để mà ăn, thế thôi;
ăn v́ đến bữa, ăn v́ được mời, ăn v́ lịch sự,
ăn để mừng chuyện này chuyện nọ;
và h́nh như con đă ăn nhiều quá;
trong khi xung quanh con,
không thiếu những người chẳng có ǵ để ăn.

Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đă nuôi con bao nhiêu ngày qua
bằng cơm bánh cuộc đời, bằng Ḿnh và Máu Chúa;
không phải chỉ để con no bụng, sung sướng;
nhưng c̣n để, qua con,
Chúa nuôi dưỡng những anh chị em của con.

Lạy Chúa,
xin cho con biết đón nhận những tấm bánh
và những con cá từ bàn tay Chúa, để
phân phát cho dân chúng, và ai nấy được no nê".


Như Hạ op

THÁCH ĐỐ
Mt 14.13-21

Bao nhiêu thách đố đă vùi dập con người. Nhưng cũng có bao nhiêu con người vượt qua thách đố. Tại sao ? Câu trả lời chỉ có thể t́m thấy trong t́nh yêu Thiên Chúa.

NỀN TẢNG CUỘC SỐNG

Tin Mừng hôm nay thuật lại Đức Giêsu đứng trước hai thách đố. Thách đố thứ nhất là "tin ông Gioan Tẩy Giả chết" (Mt 14:13). Đây là một biến cố báo trước thân phận Đức Giêsu. Trước những đe dọa mạng sống ngôn sứ, Đức Giêsu "xuống thuyền đến một chổ hoang vắng riêng biệt" (Mt 14:13) để củng cố niềm tin vào t́nh yêu Chúa Cha. Cái chết thật rùng rợn. Nhưng t́nh yêu Thiên Chúa c̣n mạnh hơn sự chết. Nhờ đó, Đức Giêsu đă vượt qua mọi thách đố và trở thành nền tảng vững chắc cho mọi Kitô hữu, đến nỗi thánh Phaolô dám quả quyết : "Ai có thể tách chúng ta ra khỏi t́nh yêu của Đức Kitô ?" (Rm 8:35). Từ nền tảng t́nh yêu vững chắc đó, thánh nhân đầy tin tưởng : "Trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đă yêu mến chúng ta" (Rm 8:37). Đức Giêsu đă trở thành sức mạnh áp đảo mọi kẻ thù.

Thách đố thứ hai chính là cảnh dân chúng say mê nghe lời Chúa, đến nỗi quên cả ăn uống. Thấy cảnh tượng ấy, "các môn đệ lại gần thưa với Người : 'Nơi đây hoang vắng, và đă muộn rồi, vậy xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn'" (Mt 14:15). Các môn đệ muốn kéo Thầy trở về thực tế. Nếu không, chắc chắn sẽ chứng kiến một thách đố lớn lao. Thay v́ tung hô, đám đông có thể quay ra đả đảo thày tṛ. Các môn đệ có vẻ nh́n xa trông rộng hơn Thày. Nhưng biết một mà không biết hai. Kiểu lo xa đó hướng cái nh́n của họ vào thực tế chung quanh, nhưng lại bỏ quên mất Thày là trung tâm cuộc sống. Thầy vội trấn an: "Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hăy cho họ ăn" (Mt 14:16). Thái độ thật b́nh tĩnh. Một nhà lănh đạo không thể lo lắng thái quá trước cảnh tượng như vậy. Đức Giêsu đă dạy cho các môn đệ một đức tính cần thiết cho người lănh đạo.

Tất cả những việc Đức Giêsu làm cho dân chúng đều chứng tỏ quyền năng Thiên Chúa lănh đạo dân tộc trên đường về Nước Chúa. Đến lúc ngắm nh́n cảnh "năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con" (Mt 14:21) "đều ăn và được no nê " (Mt 14:20), các môn đệ mới kinh ngạc trước quyền năng vô biên của Thầy. Quyền năng đó phát xuất từ tấm ḷng cảm thương trời bể, khi "Đức Giêsu trông thấy một đoàn người đông đảo" (Mt 14:15). Ḷng cảm thông chan ḥa khi Người "chữa lành các bệnh nhân của họ" (Mt 14:14). Khác hẳn các nhà lănh đạo trần gian, Đức Giêsu đă chăm sóc dân chúng đến nơi đến chốn. Cách Người lo lắng cho những kẻ theo Người cũng không giống với các môn đệ. Chỉ có một tấm ḷng và một quyền năng như Thiên Chúa mới có thể chăm sóc dân chúng quá ḷng họ mong đợi. Từ t́nh trạng đói lả đến lúc cảnh ăn uống phủ phê, dân chúng mới thấy chỉ cần một chút hồng ân cũng làm cho người ta dư dật. Thực vậy, sau khi ăn no, "người ta thu lại được mười hai giỏ đầy những mẩu bánh c̣n thừa" (Mt 14:20)

Nếu tin tưởng tuyệt đối nơi Đức Giêsu, người ta c̣n chứng kiến một phép lạ lớn lao hơn nữa. Không những có thể nuôi sống dân chúng về thể xác, Đức Giêsu c̣n có thể lấy chính thân ḿnh làm cho muôn dân thỏa mạn khát vọng về mặt thiêng liêng. Thế nên, từ niềm tin sâu xa và sống động nơi Đức Giêsu, Kitô hữu sẽ đọc được nơi phép lạ hóa bánh một dấu chỉ về bí tích Thánh Thể. Quả thực, chỉ có quyền năng Thiên Chúa mới có thể biến đổi bánh rượu nên Ḿnh Máu Chúa. Chỉ Thiên Chúa mới có thể săn sóc toàn diện đời sống dân chúng, cả Do thái lẫn dân ngoại, cả đời này lẫn đời sau. "Nếu việc nuôi sống dân chúng báo truơc tiệc Thánh Thể, th́ tiệc Thánh Thể cũng tiên báo bữa tiệc thiên sai trong Nước Chúa" (The New Jerome Biblical Commentary 1990:658). Trong đó, mọi người "sẽ được ăn ngon, được thưởng thức cao lương mỹ vị" (Is 55:2) v́ Thiên Chúa hoàn thành "giao ước vĩnh cửu" (Is 55:3) với muôn dân qua cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô.

LỰA CHỌN DỨT KHOÁT

Giống như đoàn người đông đảo theo Đức Giêsu ngày xưa, 800.000 bạn trẻ đă say mê nghe lời ĐGH Gioan Phaolô II. Họ thức suốt đêm tại Quảng trường Downsview. Dưới trận mưa to gió lớn, họ vẫn nhất quyết tham dự thánh lễ với ĐGH (Zenit 28/07/02) Nh́n thấy cả biển người trẻ trước mặt, ĐGH Gioan Phaolô đă nói : "Dù chỉ một đốm lửa cũng có thể làm cho cả đêm đen nặng nề bừng dậy. Bao nhiêu ngọn lửa sẽ cùng đốt lên, nếu các bạn liên kết trong t́nh hiệp thông với Giáo Hội ! Nếu các bạn yêu mến Đức Giêsu, yêu mến Giáo Hội ! Mặc dù đă sống qua những đêm tăm tối, dưới những chế độ độc tài khắc nghiệt, cha đă có đủ bằng chứng để xác tín mănh liệt rằng không có một khó khăn nào, một sợ hải nào lớn lao có thể dập tắt hoàn toàn niềm hi vọng đă bừng lên trong tâm hồn các bạn trẻ. Đừng để niềm hi vọng phải chết. Hăy liều mạng để đạt niềm hi vọng đó ! Chúng ta không phải là một tổng hợp những yếu đuối và thất bại; chúng ta là tổng hợp của t́nh yêu Chúa Cha đối với chúng ta và khả năng thực sự trở thành h́nh ảnh Con Chúa" (Zenit 28/07/02).

Một cuộc sống mới cũng vừa bừng lên nơi tâm hồn các bạn trẻ Canada sau ngày Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới tại Toronto năm 2002. Khởi đầu với con số bạn trẻ trên dưới 200.000. Ngày bế mạc, đă lên tới 800.000. Sau một tuần lễ sinh hoạt với ĐGH, Chính ĐTGM Marcel André đă thú nhận Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới là "một cuộc cách mạng thực sự" đối với việc mục vụ giơí trẻ tại Canada (Zenit 29/07/02). Không có một phép lạ nào. Nhưng phép lạ đó là từ t́nh trạng ù ĺ, "các bạn trẻ Canada giờ đây muốn tham dự vào việc phục vụ thực sự trong Giáo Hội" (Zenit 29/07/02). ĐTGM Gervais tiếp lời : "Bây giờ, các bạn trẻ biết rằng có thể phục vụ và các bạn muốn nhiệt t́nh tham gia. Họ đang có mặt tại đây và họ muốn làm những ǵ Đức Kitô đ̣i hỏi" (Zenit 29/07/02).

Sức sống vẫn bừng lên trong Giáo Hội như đă bừng lên nơi đám đông theo Đức Giêsu. Muốn cho mọi người thấy sức sống đặc biệt của Giáo Hội, Đức Thánh Cha đă đối chọi hai biến cố chính mới xảy ra : Năm thánh 2000 đă giúp khám phá ḷng đạo nhiệt thành, và biến cố khủng bố 11 tháng 9 lại là một việc thù hận. Đức Thánh Cha nói với các bạn trẻ rằng hai biến cố này làm thành hai cực của hành vi con người, và các bạn trẻ phải chọn giữa khuynh hướng sống tha hóa và cơ giới dẫn tới "văn hóa sự chết" và xác tín Kitô giáo sinh ra sự sống. Những người lănh đạo thiên niên kỷ mới sẽ trực diện với việc lựa chọn đó. Đức Thánh Cha nhấn mạnh : "Vấn đề vẫn c̣n đó, chúng ta nên xây dựng sự sống và đời sống cộng đoàn chúng ta trên những nền tảng nào, những mấu cứ nào ?" (CWNews 29/07/2002)

Chắc chắn Kitô hữu đă có câu trả lời khi xác tín vào t́nh yêu Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Không ai có thể trả lời hay hơn thánh Phaolô, đấng đă từng xác quyết : "Đối với tôi, sống là Đức Kitô" (Pl 1:21). Lư do v́ "Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống" (Ga 14:6). Nhưng hiện nay nhiều con đường đang bị tắc nghẽn v́ không c̣n dẫn các tâm hồn đến với Đức Giêsu nữa. Chẳng hạn, nhiều nhóm Tin Lành và các giáo phái tôn giáo đă thu hút được 30 phần trăm dân sô Guatelama trong suốt 30 năm qua. Guatelama đă trỡ thành thí điểm cho các nhóm quá khích xâm nhập Nam Mỹ. Tuy nhiên, khác với những tiên đoán quá lạc quan của các giáo phái Tin Lành, Guatelama hiện nay vẫn c̣n 70 phần trăm theo Công giáo. Nhưng "điều quan trọng nhất bây giờ là cần Công giáo có chất lượng" (Zenit 30/07/2002). Đó là điều giám mục Fernando C. Gamalero địa phận Escuintla quả quyết. Có lẽ điều đó sẽ thực hiện được sau lễ ĐGH Gioan Phaolô II phong thánh cho Pedro de San José Phép lạ không phải là bánh và cá cho trên dưới 20,000 người ăn no. Nhưng 700,000 người đầy hứng khởi khi nghe sứ điệp của ĐGH Gioan Phaolô II : "Gia sản của tu sĩ Pedro sẽ là nguồn động lực thúc đẩy các Kitô hữu và tất cả dân chúng muốn biến cải cộng đồng nhân loại thành một đại gia đ́nh, trong đó các tương quan xă hội, chính trị và kinh tế xứng hợp với con người." (Zenit 30/07/2002)                                          


Fr. Jude Siciliano OP

Đức Giêsu Nhờ Các Môn Đệ Phân Phát Bánh và Cá
(Mt 14,13-21)

Thưa quư vị.

T́nh thế đang trở nên hoàn toàn bất lợi cho Chúa Giêsu. Sau khi giảng xong các dụ ngôn, Ngài trở về thăm quê hương th́ bị ngay chính dân làng từ chối, khinh bỉ : "Ngôn sứ có bị rẻ rúng th́ cũng chỉ ở chính quê hương ḿnh và trong gia đ́nh ḿnh". (13,57). Họ đă vấp phạm v́ Ngài. Ngài không làm được phép lạ nào, v́ họ chẳng tin (13,58). Không khí thật ảm đạm. Các tác giả chú giải Thánh Kinh đặt tiêu đề cho đoạn này là : Người Nazareth từ khước Chúa Giêsu. Họ có lư. Chúng ta đang ở cuối bài thuyết giảng thứ ba, bước sang bài thứ tư. Như quư vị đă rơ, Chúa Giêsu bị thế lực đền thờ tẩy chay và hăm dọa giết chết. Bây giờ lại đến lượt dân làng Ngài khinh miệt. Thật là cạn tàu ráo máng. Ở giữa bài thuyết giảng thứ ba, Chúa Giêsu đột ngột quay mặt khỏi đám đông, tập trung rao giảng mầu nhiệm nước trời cho các môn đệ, hạt nhân của cộng đoàn Giáo Hội tương lai.

T́nh h́nh căng thẳng ngày một lớn dần. Hêrôđê chém đầu Gioan Tẩy Giả (14,1-12). Ngài phải lánh sang hoang địa bên kia sông Giođan. Thâu gom lại các môn đệ, nghiền ngẫm bước đi kế tiếp để làm tṛn sứ vụ rao giảng mà Cha Ngài đă trao. Ngài cần nhiều thanh vắng, cầu nguyện và cô đơn. Nhưng chẳng được toại nguyện. Năm ngàn người đàn ông không kể đàn bà con trẻ đang đón đợi (14,21). Ngài chạnh ḷng thương và chữa lành các bệnh nhân của họ (14,14).

Khi tôi ở thành phố San Louis người ta khuyên tôi hăy ra sông để ngắm tháp cầu vồng. Ở đây tháp cầu vồng và sông không có nghĩa bất cứ sông nào hay tháp nào của nhà hàng ăn Mc Donald. Nó là sông Missisippi hùng dũng và tháp cầu vồng vĩ đại bên bờ sông, ngoại ô thành phố, xa hàng chục cây số đă có thể nh́n thấy. Nói chung, bất cứ nơi đâu tôi viếng thăm đều có những công tŕnh to lớn như vậy. Xin kể : Tháp Sears ở Chicago, Golden Gate ở San Francisco, Rockies gần Denver, Grand Canyon ở Arizona và ở New York ! Xin đừng làm tôi hổ thẹn v́ đó là nơi sinh của tôi (Tác giả có ư ám chỉ Tháp đôi đă bị phá hủy hôm 11-9-2001).

Chúng ta đang ở trong một quốc gia ưa sính những công tŕnh vĩ đại, ngạo nghễ và hoang phí. Mỗi lần ngày lễ tạ ơn đến là y như rằng chúng ta cảm tạ thượng đế về những "ân huệ" khổng lồ đó. Nhưng hôm nay Chúa Giêsu cư xử khác hẳn : Trong khi thiên hạ ngưỡng mộ Grand Canyon (một thung lũng lớn và rất đẹp ở Mỹ) th́ Ngài lại trầm trồ về năm chiếc bánh và hai con cá nhỏ (!). Ngài đặc biệt lưu ư đến chúng. Giả như vào trường hợp chúng ta th́ khi nh́n thấy hàng ngàn người đói khát chờ được nuôi ăn mà chỉ có chút ít bánh và cá th́ hẳn chúng ta sẽ vô cùng thất vọng. Và giả như chúng ta là những môn đệ Ngài, ră rời và nhát đảm, chúng ta sẽ đề nghị "giải tán dân chúng để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn". Đó là giả pháp hợp lư nhất. Chúng ta sẽ nực cười đến vỡ bụng khi nghe Ngài trả lời: "họ không cần phải đi đâu cả, anh em hăy cho họ ăn." Đào đâu ra của ăn để nuôi ngần ấy người, dù chỉ là một bữa !

Trước cảnh tượng đông đúc như vậy và số lương thực ít oi như vậy, hẳn các môn đệ hoàn toàn bị thất vọng áp đảo. Cứ như cốt truyện hôm nay, không có mặt đứa trẻ cung cấp bánh và cá th́ chính các môn đệ phải nuôi họ. Nghĩa là phải lấy phần ăn của ḿnh phân chia, phần ăn họ mang theo cho chuyến du thuyết ! Liệu có phải Ngài đ̣i hỏi họ chia sẻ phần lương thực của ḿnh ? Liệu có phải Ngài buộc họ đánh liều ? Hy sinh tất cả để minh chứng ḷng rộng răi độ lượng cho thiên hạ ? Liệu có phải Ngài thách thức họ hăy cụ thể hóa ḷng cậy trông vào Thiên Chúa ? Nếu họ thực hiện được như vậy th́ quả đă là một phép lạ, phép lạ đổi thay được tư duy, cuộc đời. Họ đă nhận ra rằng bất cứ họ ra sao, có được ǵ, nhưng đem nhân với Chúa Giêsu th́ sẽ thành vô số, quá đủ để nuôi dưỡng cả thế gian ! Để có thể cộng tác với Ngài họ phải đổ chung thân phận ḿnh vào số phận của Ngài. Nếu không th́ chẳng thể sinh ra hoa quả chi hết. Tuần trước chúng ta đă được nghe dụ ngôn kho báu giấu trong ruộng. Người nông dân phải bán tất cả gia tài để mua thửa ruộng đó hầu có được kho báu. Cũng vậy, chúng ta phải tập trung đầu tư mọi sự : tiền tài, sức khỏe, trọn cả cuộc đời vào Ngài để được kho tàng ! Liệu chúng ta có dám không ? Nếu dám, xin hăy thực hiện ngay. Bởi Ngài chẳng làm ai thất vọng.

Thành thực mà nói, trước nhu cầu khổng lồ của thế giới ngày nay tôi rất thông cảm với các Tông Đồ. Thấy ḿnh quá bé nhỏ, bất lực, chỉ c̣n biết giơ hai tay lên trời đầu hàng và luồn lách cho cuộc sống riêng ḿnh sao cho được đầy đủ khá nhất. Các vị nguyên thủ 8 quốc gia kỹ nghệ hàng đầu tuần này nhóm họp ở Canada. Người ta hy vọng họ sẽ bàn tính về các nước Phi Châu nghèo khổ. Nhưng nhiều nhất họ có thể làm được là đấu vơ mồm như những lần trước kia ! Tôi thực sự đoan chắc như vậy. Những nước giàu có, hùng mạnh nhất thế gian mà chỉ làm được bấy nhiêu, th́ nhỏ bé như tôi, hỏi làm được chi ?

Không chắc chắn lắm, nhưng tất cả những điều tôi học được từ bài Tin Mừng hôm nay là như thế này : Chúa Giêsu cầm lấy hai con cá nhỏ và năm chiếc bánh dâng lời chúc tụng. Nghĩa là trước khi trao cho các môn đệ phân phát th́ Ngài cảm ơn Cha Ngài, Chúa tể của muôn loài muôn vật. Sau đó Ngài đưa cho họ phân chia cho dân chúng. Mọi người được ăn no thỏa và c̣n dư. Quá đủ, quá thừa. Thế th́ tôi không c̣n lư do thoái thác ḿnh yếu hèn chẳng làm được chuyện chi ! Hoặc với tài hèn, sức mọn tôi không thể kham nổi công việc, xin nhường để người khác. Ngược lại hăy can đảm học nơi Chúa Giêsu, dâng lời ngợi khen Thượng đế, rồi phấn khởi lănh nhận công việc giúp đỡ người khác. Tôi góp sức với mọi người thi hành nhiệm vụ, mọi sự sẽ trở nên dễ dàng. Một mục sư Tin lành có lần đă khuyên tôi : Nắm lấy góc cạnh gần nhất của vấn đề rồi tiến hành giải quyết ! Chúa Giêsu không tự ḿnh phân phát bánh và cá cho đám đông. Ngài nhờ đến các môn đệ. Một bài học để đời cho nhân loại. Phải biết cộng tác với nhau thi hành việc Chúa. Thực tế cho thấy nhiều vị chủ chăn độc tài cực đoan, coi rẻ con chiên như rơm rác ngược hẳn tinh thần của Chúa Giêsu, Đấng họ phục vụ.

Bài đọc từ sách tiên tri Isaia liệt kê những bất măn khi chúng ta t́m kiếm đáp ứng các nhu cầu ngoài Thiên Chúa. Chúng ta tự lừa dối và làm cạn kiệt sức lực khi thu tích những điều viển vông, phù phiếm. Duy chỉ một ḿnh Thiên Chúa mới có khả năng thỏa măn mọi ước vọng của trái tim con người, ngoài ra tất cả đều thất bại. Ngài ban cho nhân loại cơ man lương thực không phải trả đồng nào. Ngay cả khi chúng ta gặp thử thách nặng nề trên đường đời th́ lương thực của Chúa không hề thiếu. Của ăn thức uống trong sa mạc khô cằn là điều cực kỳ quư giá, nhọc nhằn lắm mới có thể kiếm được, vậy mà tiên tri vẫn bảo đảm đầy đủ cho dân Ngài. Chúa đă nuôi dân Israel 40 năm trong hoang địa là h́nh bóng Giáo Hội ngày nay cũng được Chúa Giêsu ban lương thực, thực phẩm để vượt qua sa mạc gian trần.

Thánh thể là thứ lương thực đó. Phép lạ nhân bánh ra nhiều tự nó không mang ư nghĩa nào nếu không quy chiếu về bí tích Ḿnh Máu Thánh Chúa Kitô mà Hội Thánh được vui hưởng ngày hôm nay. Trong bí tích này nhân loại không những được no đủ mà c̣n được dư thừa lương thực nuôi dưỡng sự viên măn và thánh thiện của mỗi linh hồn. V́ vậy trong Phụng vụ thánh lễ, mọi người được mời gọi tự vấn lương tâm xem chúng ta đă từng t́m kiếm những ǵ, hoặc nỗ lực theo đuổi những chi ? Những thứ đó có làm cho chúng ta được no đầy, thỏa măn thực sự hay chỉ là những điều hư ảo ? Xin hăy gẫm lại xem các tương giao của chúng ta thế nào ? Ưu tiên của chúng ta ra sao ? Giá trị của chúng ở đâu ? Trên những thành công giả tạo, nghề nghiệp phù phiếm ? Hay chúng ta đă đầu tư cuộc đời sai chỗ, sai nơi ? Dù thế nào đi nữa th́ xin đọc kỹ bài Phúc âm và luôn có ḷng tin cậy. Chẳng có nơi nào là hoang địa trong cái nh́n thương cảm của Chúa Giêsu Thánh Thể : "Ngài ra khỏi thuyền, trông thấy đám đông th́ chạnh ḷng thương" (14,14).

Cùng một mẫu mực đó, chúng ta coi lại công việc phục vụ các bệnh nhân, kẻ tàn tật, bất toại, tù nhân trong cộng đồng giáo xứ. Rơ ràng họ chẳng thể đến nhà thờ hiệp thông cầu nguyện, dự bí tích Thánh Thể với cộng đoàn. Họ ở ngoài, những nơi gọi là "hoang địa", bên lề xă hội, không được tôn trọng hoặc lượng giá đúng mức. Họ nghèo tiền của và nhân phẩm. Chúng ta có săn sóc họ đầy đủ không ? Có gởi các thừa tác viên Thánh Thể đến với họ không ? Để nói với họ rằng : Họ vẫn là thành phần của cộng đoàn, dân được Thiên Chúa nuôi dưỡng ! Họ không bị bỏ quên. Nhưng Bánh Thánh vẫn đến với họ, sự hiện diện của Chúa cũng như của chúng ta vẫn trải rộng tới họ. T́nh người vẫn ấm áp trên họ. Hy vọng và niềm vui của bữa tiệc Thánh Thể không hề rời xa họ.

Rồi đến những người đang hấp hối. Ngồi bên những bệnh nhân này, chúng ta nh́n thấy các ống dây trên rốn, kim tiêm trên tay họ, và cảm thấy bất lực trước đau khổ quá lớn của nhân loại, ấy là chưa kể sợ hăi và dằn vặt về đàng tinh thần. Thất vọng chăng ? Lui ra xa để các chuyên viên y tế làm việc một cách máy móc, vô cảm ? Vậy th́ làm chi lúc này ? Đúng lại là kinh nghiệm của các môn đệ trước đám đông đói khát ! Chúa Giêsu lại thúc giục chúng ta : "Họ chẳng cần đi đâu cả, anh em hăy cho họ ăn". Cho họ cái ǵ đây ? Trước khối lượng khổng lồ của đau khổ và nhu cầu ? Hiện tại chúng ta có chi th́ chia sẻ thứ ấy. Vậy là chúng ta c̣n có cái để cho. Đó là sự hiện diện của bản thân ḿnh. Quyết định dứt khoát. Chúa Giêsu cầm lấy, đọc lời chúc tụng, bẻ ra để chúng ta phân phát. Bỗng dưng lương thực trở nên dư thừa trong "nơi hoang vắng". Khi dâng hiến bản thân cho Chúa, chúng ta trở nên sự có mặt đích thực của Ngài cho tha nhân ! Đúng là Chúa Giêsu luôn thách thức chúng ta nh́n vào ḿnh và đưa ra những tài sản gần như vô nghĩa dâng Ngài. Rồi liều lĩnh đối mặt với "nhu cầu của đám đông". Amen.


Fr. Jude Siciliano, OP.

C̣n quá nhiều người cần chúng ta lo cho họ
Mt 14, 13-21

Thưa quí vị,

Nhân nhịp đi thuyết giảng lưu động trong những hoàn cảnh khác nhau, tôi ngộ ra rằng diện mạo cảnh tượng bên ngoài có thể lừa dối. Thí dụ trong một cộng đoàn khá giả cũng có những cuộc đời rất tồi tàn nghèo khổ. Dĩ nhiên các cha xứ, các giám đốc trung tâm tông đồ, nhà cấm pḥng biết rơ chuyện này hơn. Nhưng người rao giảng lang thang như tôi thường được nghe tâm sự mộc mạc sau bộ mặt vui tươi mà người ta tŕnh bày với thiên hạ. Thường vài phút truyện văn, chúng tôi bắt đầu được nghe kể: Người cha già gia đ́nh này đang ṃn mỏi v́ bệnh Parkison chân tay run rẩy. Con trai người phụ nữ kia ly dị làm đau khổ cho cả đại gia đ́nh. Người mẹ trẻ này có đứa con đau màng năo. Em học sinh sáng dạ kia không có tiền lên đại học. Đôi vợ chồng đó lọc cọc không con. Người đàn ông trung niên ấy vừa chết vợ, một ḿnh nuôi hai cô con gái ăn học vân vân và vân vân.

Thường th́ các giáo dân chia sẻ câu truyện của họ với tôi ở cuối nhà thờ sau buổi rao giảng hay trong pḥng khách nhà xứ. Tôi thiết nghĩ những chỗ đó thuận tiện để thúc đẩy họ tâm sự và đưa Thiên Chúa vào câu truyện. Họ hy vọng Thiên Chúa nh́n qua các khủng hoảng và đau khổ của ḿnh mà giơ tay cứu giúp. Vấn đề là : Tại sao Thiên Chúa cho phép những khốn đốn xẩy đến với những linh hồn tốt lành ? Họ sợ hăi rằng Chúa phạt họ v́ lỗi lầm nào đó ? Họ thất vọng v́ cảm thấy không được Chúa yêu thương nữa.

Ngay lúc này tôi không có khả năng đưa ra câu trả lời thoả đáng hay làm nhẹ bớt nỗi lo âu cố hữu của họ. Chính tôi cũng có những vấn đề của riêng tôi và giống như họ, tôi cũng thưa lên cùng Chúa, khi cuối cùng được đối diện với Ngài. Tôi đă học được rằng ở dương gian này không thể có bảo đảm mọi sự diễn tiến có lợi cho người tin kính. Thực chất cả hai loại người tin và không tin đều gặp những khó khăn như nhau. V́ thế đă có lời cầu nguyện kêu lên rằng : Chúng con ở nơi khóc lóc (kinh Lạy Nữ Vương).

Tuy không có giải pháp dễ dăi cho những khó khăn của chúng ta, nhưng hy vọng bài đọc Kinh thánh Chúa nhật hôm nay không những đề cập đến chúng mà c̣n định h́nh và kiện cường đức tin của mỗi người qua nhiều lần nghe đọc. Chúng ta thực sự đang cư ngụ trong thung lũng đầy nước mắt. Khi tôi nhớ đến các vật lộn v́ đức tin của ḿnh và các đau đớn của kẻ khác, nhận được qua vô số cuộc truyện tṛ, th́ tôi nghe như Thiên Chúa của Kinh thánh đang vỗ về an ủi tôi và đồng đạo của tôi, nhất là những lúc xem ra Ngài vắng mặt tại hiện trường. Tôi không hồ đồ tưởng tượng mà như thánh Phaolô tuyên bố với tín hữu thành Roma (bài đọc hai). “Thưa anh em, ai có thể tách chúng ta ra khỏi t́nh yêu Đức Kitô ? Phải chăng là gian chuân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, guơm giáo ?... tôi tin chắc rằng cho dù sự sống hay sự chết, thiên thần hay ma vương qủi lực, hiện tại hay tương lai hoặc bất cứ sức lực nào…tách chúng ta ra khỏi ḷng mến Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”. Nghĩa là sức mạnh của ḷng mến Thiên Chúa c̣n vượt qua cả sự chết hay bất cứ quyền lực nào. Sức mạnh ấy được tỏ hiện nới Đức Giêsu Kitô.

Bài đọc 1 củng cố thêm ḷng tin cậy. Tiên tri Isaia thay mặt Giavê yên ủi tuyển dân đang trong cuộc sống lưu đày ! “Đến cả đi hỡi những người đang khát, nước đă sẵn đây.” Lưu đầy cũng là cuộc sống của chúng ta hôm nay, khi đau khổ và vong thân tàn nhẫn đè bẹp số phận nhiều tín hữu, đến nỗi nẩy ra những thắc mắc về đức tin. Vị tiên tri đề cập thẳng thắn đến bản chất và ḷng đoái thương của Thiên Chúa cho các câu hỏi nghi nan của chúng ta. Ông nói rằng : Thiên Chúa từng hứa nuôi sống những ai nghèo đói, bơ vơ, không phương tiện sinh sống. Lương thực Ngài ban không chỉ là những mẩu bánh, chén nước mà là bàn tiệc thịnh soạn với vô số của ăn thức uống, thịt th́ béo, rượu th́ ngon. Trong văn hoá chúng ta mọi người phải trả tiền cho những thứ ḿnh muốn, nhưng lương thực thực phẩm Ngài ban hoàn toàn miễn phí : “Dầu không có tiền bạn cứ đến mua mà dùng, đến mua rượu, mua sữa không phải trả đồng nào”.

Nhưng chúng ta phải làm ǵ để lănh nhận những thứ đó ? Biết chạy đến với ai để được xếp chỗ trong bữa tiệc thịnh soạn ? Vị tiên tri trả lời: Chạy đến với những người đói khát, vô gia cư “Hăy chăm chú nghe Ta th́ các ngươi sẽ được ăn ngon, được thưởng thức cao lương mĩ vị”. Như vậy chúng ta biết phải làm thế nào rồi. Trong Thánh lễ hôm nay, trước bàn Thờ Chúa chúng ta hăy tự hỏi : Ḿnh đă đối xử thế nào với tầng lớp hèn mọn trong giáo xứ ? Đă thất bại ra sao trong bổn phận nuôi dưỡng cô nhi quả phụ? Nhu cầu nào trong đời sống thiêng liêng mà chính Thiên Chúa mới đủ khả năng thoả măn ? Khi đă nhận ra những khoảng trống trong cuộc đời ḿnh, làm thế nào lấp đầy ? Chắc chắn Thánh Thể sẽ cho chúng ta câu trả lời. Liệu chúng ta có vững tin như vậy, ngơ hầu dọn ḷng sốt sắng lănh nhận ?

Xin cho phép tôi tiếp cận bài Tin mừng hôm nay với một chút khác thường. Cách đây phỏng hai năm, tôi theo dơi một loạt bài phóng sự trên radio về ngày lao động của Hoa Kỳ. Các bài đó ca tụng công nhân, nhất là các lao động chân tay. Mỗi ḱ về một loại lao động nặng nhọc. Một hôm phát ngôn viên tuyên bố : “Đây là chương tŕnh công việc bẩn thỉu nhất trong thành phố New York”. Lời loan báo khiến tôi chú ư lắng nghe. Bạn có thể tưởng tượng công việc ǵ không ? Đó là một phụ nữ làm việc giặt giũ cho một bệnh viện lớn. Những chiếc máy giặt khổng lồ, cồng kềnh, thời tiết ẩm thấp, nhiệt độ nóng bức và rất là bẩn thỉu. Những chiếc khăn trải giường, băng vải pḥng phẫu thuật, quần áo các bác sĩ, y tá, bệnh nhân … xin tưởng tượng tiếp, hàng trăm ngàn món hàng ô nhiễm, vây máu, kim tiêm c̣n sót trong các túi aó. Khả năng lây bệnh rất cao, từ các bệnh nhẹ như cảm cúm đến các bệnh nguy hiểm như ho lao, aids, lậu, phong …

Lương tháng cho những lao động tập việc rất thấp, chỉ đủ nuôi sống bản thân, mặc dù khả năng lây bệnh rất cao. Người phóng viên phỏng vấn một phụ nữ đến từ Dominica. Tiếng động ầm ầm của các máy giặt hầu như lấn át cuộc tṛ truyện. Nắng nóng mùa hè áp đảo, độ ẩm thấp lớn. Tôi mường tưởng bà vừa trả lời, vừa lau mồ hôi trán chảy xuống hai má, cằm, ngực. Họ hỏi bà tại sao nhận công việc này ? Bà trả lời : “Để nuôi chồng con và bản thân. Chúng tôi mong ước chúng nó được học hành.” Thế đấy, trái đất này đâu phải là Thiên đàng cho mọi người !

Lúc sau tôi bỏ nhà đi thăm một bệnh nhân của gia đ́nh cũng ở nhà thương đó. Tôi gặp các y tá, y sĩ, bác sĩ trong những bộ quần áo tươm tất, sạch sẽ, trắng thơm. Vào pḥng, là những khăn trải giường ủi phẳng, gấp nếp, đồ dùng gọn gàng ngăn nắp, khăn bông thơm tho, mọi sự đều hoàn hảo. Tôi nghĩ ngay tới người đàn bà vừa được phỏng vấn. Ai đă thực hiện những công việc đó ? Bà ta không đơn giản lao động để nuôi bản thân và chồng con, bà làm nhiều hơn nữa : chăm sóc mọi người. Công việc thật cao cả. Không ai có thể chịu đựng vải vóc ô nhiễm, quần áo dơ bẩn của bệnh viện. Mọi thứ phải được khử trùng và sạch sẽ.

Tôi nghĩ tới ngày Chúa nhật bà đi nhà thờ tham dự Thánh lễ và nghe công bố bài Tin mừng hôm nay. Liệu bà có phải là bạn hữu với Chúa Giêsu không ? Thương xót và chăm sóc những kẻ bệnh hoạn, tật nguyền, cho kẻ đói ăn, khát uống ? Liệu bà có xem công việc ḿnh giống như việc làm của Chúa Giêsu thực hiện cho những người bất hạnh trong thời đại Ngài ? Liệu bà có ư thức công việc làm của ḿnh là “bẩn thỉu nhất trong thành phố New York” ? Để giúp đỡ thiên hạ sống chết với đầy đủ nhân phẩm ? Tôi cảm thấy xấu hổ khi so sánh ḿnh với người phụ nữ đến từ Cộng Hoà Dominica. Đồng thời được an ủi v́ những vải vóc sạch sẽ của bà. Khi thăm viếng thân nhân trong bệnh viện, tôi được bảo đảm người thân của ḿnh luôn được chăm lo bằng những dịch vụ đầy yêu thường của các nhân viên sang hèn của nhà thương gồm cả người phụ nữ trên kia ! Tôi nghĩ đó là cách cụ thể nhất chúng ta suy niệm bài Phúc âm. Rao giảng suông chẳng có hiệu quả ǵ nhiều ! Có khi c̣n là viển vông.

Nói rộng hơn, chúng ta thường được Giáo hội khuyến khích cầu nguyện xin ơn kêu gọi. Dĩ nhiên mọi người đều hiểu là có thêm linh mục, tu sĩ nam nữ, phó tế, những người trực tiếp phục vụ Bàn Thánh. Nhưng từ cái nh́n khác tôi thiết nghĩ chúng ta chẳng bao giờ thiếu ơn gọi. Đă có vô số linh hồn t́nh nguyện hy sinh tiền bạc để làm việc ấy. Tuy nhiên có những thứ ơn gọi mà chúng ta bỏ quên. Những người phục vụ Chúa Giêsu như kiểu phụ nữ Dominica. Họ cũng cho kẻ đói ăn, khát uống, rách rưới ăn mặc, bệnh tật được chữa lành, đói rét được an ủi như Chúa Giêsu truyền lệnh cho các tông đồ hôm nay : “Chính anh em hăy cho họ ăn, họ không cần đi đâu…” Liệu quí vị có đồng ư với tôi như vậy ? Thế th́ chúng ta hăy bắt chước các anh em lao động mệt nhọc, đừng đ̣i hỏi an nhàn, sung sướng. Trái lại xả thân phục vụ những số phận kém may mắn trong xă hội, ít là bằng cách không bóc lột họ tinh vi, vô thức. Hăy nhường cơm, sẻ áo cho con cháu họ. Chớ tàn nhẫn đối xử với họ bằng quyền nọ, lợi kia. Đặc quyền đặc lợi không phải dành để cho những người môn đệ của Chúa Giêsu. Chính Ngài cũng chẳng có những thứ ấy khi ở trần gian, mặc dầu là con Thiên Chúa.

Ngài chịu đựng số phận nghèo hèn và luôn đấu tranh cho sự thật, giành lại nhân phẩm cho con người, nhất là hạng bần cùng, đói khát. Thực tế ơn gọi của mọi người là làm cho xă hội đầy đủ, hạnh phúc. Xin đơn cử thí dụ: Có bao giờ quí vị ướm hỏi một phụ nữ xem chị có muốn tham gia công tác hàng xứ không ? Trong khi hàng ngày chị phải săn sóc cha mẹ già ở nhà dưỡng lăo, cơm nước giặt giũ cho các cụ, báo cáo các bệnh tật với bác sĩ, mua bán những nhu cầu lặt vặt, thuốc thang khi trở giời, trái gió. Chị trả lời : “Thưa xin kiếu, hiện giờ con phải chăm sóc cha mẹ”. Đó cũng là một kiểu phuc vụ giáo xứ. Đúng vậy không ? Mà c̣n hơn thế nữa chị đang thực hiện ơn gọi của ḿnh theo như chỉ dẫn của Chúa Giêsu cho các môn đệ. “Họ không cần đi đâu cả. Chính anh em hăy cho họ ăn”.

Khi được hỏi về vai tṛ và trách nhiệm hàng đầu của ḿnh. Các tín hữu ít khi nghĩ về công việc hàng ngày, họ cũng không mấy nhận ra tính chất thánh thiêng của công việc ấy. Họ nghĩ tới những bổn phận đâu đâu măi tận trời xanh. Chúa Giêsu không mặc khải như vậy mà do giáo dục và thói quen giữ đạo truyền thống. Dụ ngôn người bị cướp đánh trọng thương nằm bên vệ đường từ Giêrusalem xuống Giêricô cho chúng ta một thí dụ. Bàn thờ lúc ấy không c̣n ở trong đền thánh nữa, mà là ở việc chăm sóc cho người bị nạn. Chị phụ nữ Dominica trong hầm giặt giũ đă làm những công việc bẩn thỉu nhưng cần thiết, để giúp đỡ các bệnh nhân sinh hoạt tốt hơn, chứ không nguyên kiếm tiền nuôi chồng con và gia đ́nh. Khi Chúa Giêsu rao giảng trong các hội đường do thái, Ngài thực hiện hầu hết các phép lạ ở ngoài nơi thờ phượng chính thức. Thí dụ phép lạ nhân bánh và cá lên nhiều hôm nay. Nó xẩy ra ở nơi “hoang vắng”.

Thánh Marco nói ở trên đồng cỏ xanh (6,4). Như vậy nếu ngày nay Người thực hiện các phép lạ, chắc chắn không phải ở nhà thờ mà nơi đâu có thợ xây, ngư phủ, nông dân, công nhân, nghĩa là những chỗ Ngài t́m thấy hàng ngàn, hàng vạn kẻ ốm đau, bệnh tật, những người có nhu cầu thể xác, tinh thần, những linh hồn khốn cùng. Ngài thấy và cứu chữa họ. Kẻ đói được no, kẻ khát được uống, kẻ đau ốm được lành, kẻ khốn khổ được ủi an. Tất cả đều miễn phí, đúng như lời ngôn sứ Isaia tiên báo : cứ đến mà mua không phải trả đồng nào.

Bây giờ tới lượt chúng ta : Những ai chúng ta được giao trách nhiệm cho ăn, cho uống, chữa lành, săn sóc, ủi an, khích lệ ? Và liệu chúng ta có thể làm việc ấy trong sinh hoạt nghề nghiệp hằng ngày ? Doanh nhân sản xuất, chúng ta đưa ra những mặt hàng đủ tiêu chuẩn chất lượng. Người sửa chữa, chúng ta bảo đảm máy móc hoạt động b́nh thường như cũ. Làm dịch vụ, chúng ta đẩy công việc đến hoàn thành tốt đẹp. Công chức, chúng ta phục vụ dân chúng với ḷng tôn trọng và nhân ái. Bất cứ công việc nào cũng có thể giúp đỡ và yêu thương tha nhân bằng tính cần cù và quan tâm của ḿnh. Có bầu khí lạc quan của ơn thánh trong vấn đề này. Thiên Chúa của Isaia và Đức Giêsu hôm nay, nuôi dưỡng đám đông th́ cũng Thiên Chúa ấy hiện diện trong các hoạt động của các môn đệ, khi họ vâng theo lời Đức Kitô: “Họ không cần phải đi đâu cả. Chính anh em hăy cho họ ăn”. Amen.


Lm. Jude Siciliano, OP (Chuyển ngữ FX Trọng Yên, OP)

Hăy nghe Ta Để Các Con Có Sự Sống
(Mt 14: 13-21)

Anh chị em thân mến,

Cách đây vài năm tôi đi giảng trong một thành phố. Ở đó có một nơi phát đồ ăn cho những người nghèo do các nữ tu công giáo phụ trách. Nhưng có sự khác lạ là nơi phát của ăn bố thí này lại giống như một tiệm ăn.  "Khách" bước vào thì có những tình nguyện viên của nhà thờ đón tiếp ở cửa, họ được mời ngồi vào bàn có trải khăn ăn. Rồi họ được xem thực đơn và có thể chọn món ăn. Có nhiều cách phát thức ăn cho người nghèo một cách mau lẹ hơn, nhất là lúc này có nhiều người vô gia cư, và đói khát ngồi dọc lề đường. Những chỗ phát cơm như vậy nhiều lúc không theo kịp số người đông đảo đến lẳnh thức ăn và xin quần áo. Hiện nay số người đói ngày càng tăng, và các cơ quan từ thiện xin thức ăn và quần áo chĩ vừa đủ để giúp những người trong trường hợp cấp bách.

Nhưng cách phát thức ăn như tôi nói ở trên là điều vẫn hằng ở trong tâm trí tôi luôn. Tôi xem đó là một dấu hiệu đẹp mà kinh thánh nói đến hôm nay về thức ăn và của uống nơi bàn tiệc Chúa. Ở bàn tiệc này chúng ta được xem như là khách quư, và ở đó không ai thiếu thức ăn hay quần áo.Theo như kinh thánh nói thì "tất cả các con cái Thiên Chúa đều sẽ có giầy dép". Đó là lời hứa mà chúng ta có thể tin cậy vững vàng. Chúng ta sẽ là những khách quư nơi bàn tiệc thánh và sẽ không một ai  thiếu điều gì cả.

Vậy chúng ta tin lời hứa đó hay chúng ta còn sống trong ảo mộng? Nghĩ đến biết bao nhiêu người nghèo, vô gia cư, bị bỏ rơi trong thế giới hiện nay, ai dám mạnh dạn hứa với họ một tương lai đầy đủ hơn, vì hiện trạng xã hội hiện nay rất tồi tệ?  Trong cách nói của ngôn sứ; Thiên Chúa và chúng ta sẽ cố gắng gây dựng nên một thế giới đẹp hơn; làm chúng ta nghe như trong mộng. Các ngôn sứ thật gan dạ, trong thời kinh thánh và ngay cả bây giờ cũng vậy, ngôn sứ nói như là những người tâm thần.

Ngôn sứ mà chúng ta gọi là "như Isaia" (thế kỷ thứ 6 trước T.C) sống với dân Giu Đa nơi bị đi đày. Việc nói tiên tri của ông ta không phải là để khiển trách dân Giu Đa vi họ thất trung nên mới bị đi đày, nhưng lời nói của ông là để an ủi họ, bằng cách cho họ biết là Thiên Chúa không quên họ, mặc dù các dấu chĩ đều đi ngược lại với lời an ủi đó. Ngôn sứ nói rằng họ sẽ bắt đầu một đời sống mới. Như những ngày trong sách Xuất Hành, Thiên Chúa sẽ cứu họ ra khỏi kiếp nô lệ, đem họ qua sa mạc, và sẽ cho họ nước uống và của ăn đường để đưa họ về tới quê nhà bình an.

Chính lúc này "Nhà Hàng" do các nữ tu và những tình nguyện viên phụ trách hiện ra trong trí tôi. Những người bị ruồng bỏ, bị thất bại, bị đày đọa, được mời vào tiệm như "khách" của Thiên Chúa . Họ được mời vào để ăn uống mà không mất tiền. "Hởi những ai đang khát, hãy đến uống nước đây. Cả những ai không có tiền cũng hảy đến! hảy nhận lấy mà ăn"

Với Thiên Chúa bao giờ cũng như thế. Khi nào chúng ta thất bại đến cùng cực: Bị đày đọa hay bị khốn khó, chúng ta dễ nhận được một thư mời chúng ta trở về quê nhà, và ở đó bữa cơm đã sẳn sàng cho đời sống chúng ta. Thư mời nói rằng "Cha không cần biết con đã làm gì, hãy trở về nhà. Để Cha cung cấp thức ăn mà con thèm muốn, mà con đã đi tìm không đúng nơi. Cha có những gì con cần và Cha muốn ban tặng cho con, con không cần phải trả tiền bạc gì cả. Thôi, con ơi, con hãy quên quá khứ đi, và Cha con chúng ta hảy nhìn về tương lai" Ở miền nam nước Mỷ người ta nói như sau "Thôi về đi. Về đây rồi ăn, có nghe không"? Câu nói của người miền nam kết thúc với chữ "nghe không?" (Chử đó có nghĩa là nếu người đó là dân từ Nửu Ước xuống miền nam thì ở đó không có chổ đứng cho bạn) "Con có nghe Cha nói gì không? Hãy tin lời Cha" hoặc "Cha nói thật với con đây" Trong bài kinh thánh Isaia lời Chúa nói như vậy lập đi lập lại ba lần": "Hãy nghe Ta...hãy ghé tai nghe Ta...hãy nghe..." Mặc cho hoàn cảnh họ đang sống, Thiên Chúa dùng ngôn sứ để cam kết với họ là những người đang bị lưu đày và muốn họ tin tưởng vào lời Chúa hứa là Ngài sẽ cứu ho, sẽ đem họ về quê nhà cho họ đủ ăn, đủ uống và không tốn tiền. Thiên Chúa không quên họ. Họ cần phải nghe lời Thiên Chúa và họ nên trả lời là chúng con nghe , "và chúng con sẽ về".

Qua Chúa Giêsu, như trong cựu ước; Thiên Chúa lại gởi lời mời  gọi đến chúng ta là "khách" đến bàn ăn. Thiên Chúa mời một bữa ăn đặc biệt, cho những người "khô khan cằn cổi" mà không phải trả tiền. Bề ngoài không có gì sang cả. Nơi đây không có bàn trải khăn và khăn ăn, không có "sơn hào hải vị" như trong bài ngôn sứ hứa cho dân của Chúa. Nhưng nơi Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều, lời Thiên Chúa hứa lại được thực hiện một lần nửa cho người đời. Và hình ảnh thức ăn tràn trề của Chúa  đúng là sự thật cho những ai có mắt mà xem, có tai mà nghe. Ngôn sứ Isaia một lần nữa khuyên chúng ta: "Hãy nghe Ta, các ngươi sẽ có thức ăn. và cao lương mỹ vị hưởng tùy theo sở thích" Hay như chúng ta nói ngày hôm nay "hảy nghe đi".

Phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều là phép lạ cả thể. Nhưng chĩ khởi sự với một hình ảnh khiêm tốn cùng với những người dân bình thường. Chúa Giêsu thường khởi sự một phép lạ như vậy, để dân chúng không tự cho là phép lạ bởi họ mà ra. Đấy mới là việc Thiên Chúa làm. Chính Ngài muốn cho những kẻ đói được ăn nơi phép lạ nầy.

Dù sao đi nữa, theo phúc âm thánh Matthêu thì dân chúng cũng dự phần vào phép lạ ấy, mặc dù là phần rất nhỏ. Các môn đệ thấy quần chúng quá đông, và các ông không đủ tiền để mua thức ăn cho cả khối người ấy.. Họ không còn gì hơn ngoài "5 chiếc bánh và 2 con cá mà thôi". Nhưng họ nghe lời Chúa Giêsu và thưa với Ngài biết những gì họ có. Đúng ra các ông có thể dựa theo nhu cầu bản thân để đem theo nhiều bánh và cá cho họ. Nhưng quần chúng đang đói, và họ phải lo đồ ăn cho những người đó, nên các môn đệ giao cho Chúa Giêsu chút đồ ăn họ đang có để tùy Ngài giải quyết.

Có những lúc chúng ta cần phải phó thác mọi sự cho Chúa, để tùy Chúa quyết định, và cộng tác với Chúa trong việc Ngài làm. Như trong tuần vừa qua chúng ta nghe dụ ngôn người bán tất cả gia tài để mua thửa ruộng, hay mua viên ngọc quư. Và hai tuần trước chúng ta cũng nghe lời Chúa Giêsu nói "ai có tai nghe thì hảy nghe" và Ngôn sứ Isaia cũng nói như vậy trong phép lạ làm bánh và cá hóa ra nhiều "Hãy nghe Ta, để các con có sự sống"

Vậy, Thiên Chúa muốn chúng ta dự phần vào việc Ngài làm. Chúng ta dâng tất cả những gì chúng ta có để làm việc Chúa, nhưng không phải chúng ta đứng sang một bên để Ngài làm hết mọi sự, nhưng Thiên Chúa xăng tay áo làm việc chung với chúng ta. Chúng ta phải tin tưởng vào điều đó. nếu không chúng ta không bao giờ tham dự vào những việc lớn lao mà chúng ta đang gặp trong thế giới hiện nay như nạn đói khắp thế giới, nạn kỳ thị chủng tộc, chiến tranh, sự xét xử bất công, nạn khủng bố, bệnh tật, bất bình đẳng trong xã hội, v.v....Chúng ta làm những gì chúng ta có thể làm được, mặc dù có vẻ nhỏ bé và không có kết quả mấy. Nhưng chúng ta giao cho Chúa vì Ngài đã bảo chúng ta "hãy đem đến đây cho Thầy" và chúng ta sẽ thấy Ngài làm hoàn tất những gì chúng ta đem đến.

Hôm nay nơi bàn tiệc thánh, lễ vật chúng ta dâng rất nhỏ bé, chĩ chút bánh và rượu, Chúng ta nhân danh Chúa Giêsu mang của lễ đến để chia xẻ với tất cả các anh em. Nơi đây chúng ta tất cả như nhau, mặc dù khác giai cấp trong xã hội, khác màu da nước tóc, khác dòng giống, khác ngôn ngữ. Chúng ta đều ngang nhau cả vì chúng ta đều cần  Thiên Chúa đến cho chúng ta ăn uống. Chúng ta ngang nhau vì lễ vật chúng ta dâng lên cho Chúa là những của bé mọn so với những nhu cầu to lớn của thế giới. Chúng ta cần "Thiên Chúa cộng tác" với chúng ta để giải đáp những gì chúng ta không làm được là nuôi sống tất cả những người nghèo đói khắp hoàn cầu, hay phát quần áo cho những người rách rưới như Chúa Giêsu đã dạy chúng ta phải làm (23:31-46).

Nơi đây chúng ta cảm thấy được an ủi vì chúng ta biết sự đói khát trong tâm hồn chúng ta hôm nay được no thỏa nơi bàn tiệc thánh. Chúng ta hảy nhớ Chúa Giêsu mở rộng lòng thương đến cả những nhu cầu vật chất của nhóm quần chúng đông đảo, lúc Ngài trông thấy họ khi bước ra khỏi thuyền. Thánh Matthêu nói rằng "Ngài chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân của họ". Sau đó Ngài cho họ ăn uống. Ngài chú ư đến những nhu cầu vật chất của họ.

Và ngày hôm ấy không ai phải đói cả. "Ai nấy đều ăn và được no nê". Chúng ta nguyện cầu nơi bàn tiệc thánh hôm nay Chúa Thánh Linh hãy đến trên của lễ bé mọn, bánh và rượu chúng ta dâng để trở thành mình và máu thánh Chúa Kitô để nuôi chúng ta. Chúng ta cũng cầu nguyện xin Chúa Thánh Linh hảy đến trong tâm hồn chúng ta là những người đang họp nhau đây nghe lời Chúa, được hướng dẫn và  thêm sức mạnh để phục vụ Thiên Chúa. Ước gì "những chiếc bánh và cá" trong đời sống hằng ngày của chúng ta có thể nuôi những kẻ đói khát mà Chúa Kitô gởi đến để chúng ta nuôi họ trong thế giới ngày nay.


Giacôbê Phạm Văn Phượng op

Thiên Chúa quyền phép
(Mt 14,13-21)

Trong ba năm giảng dạy công khai của Chúa Giêsu, kể lại cho chúng ta biết hai lần Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Phép lạ kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay là lần thứ nhất, xảy ra vào tháng tư, gần lễ Vượt Qua của năm 29, tức là vào năm thứ hai đời công khai giảng dạy của Chúa. Với năm chiếc bánh và hai con cá của một em bé mang theo, do tông đồ An-rê t́m thấy, Chúa cầm số bánh và cá này, ngửa mặt lên trời tạ ơn, cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha, rồi trao cho các môn đệ phân phát cho dân chúng. Số người ăn là năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và trẻ em, mà đàn bà thường đông hơn. Có một linh mục kia khi giải thích cho các thiếu nhi phép lạ Chúa hóa bánh ra nhiều. Muốn cho các em có một ư niệm về con số tổng thể, tức là con số gần đúng những người đă được Chúa Giêsu cho ăn bánh hôm đó, vị linh mục đặt câu hỏi : “Nếu nói đến năm ngàn người đàn ông, các em thử đoán xem có bao nhiêu người đàn bà ?”. Cả lớp im lặng. Bất ngờ bé Tèo giơ tay nói : “Thưa cha, có tám ngàn người đàn bà”. Vị linh mục hỏi : “Làm sao con có thể tính ra được con số đó ?”. Bé Tèo trả lời : “Thưa cha, trong việc đó, đàn bà luôn luôn đông hơn đàn ông. Chúng ta cứ thử nh́n vào các cuộc đi rước hay đi kiệu th́ biết, đàn bà thường đi đông hơn đàn ông”.

Đây là một phép lạ lớn lao, rơ ràng và cụ thể, v́ tất cả đều được chứng kiến và được ăn bánh. Vậy mà có một số người cho rằng : phép lạ này là chuyện không có thực, cùng lắm chỉ là tác dụng tâm lư mà thôi, hay là “ăn tâm lư” mà thôi, nghĩa là họ cho rằng em bé kia đă chia phần ăn của ḿnh cho người bên cạnh, và thế là theo gương em bé này, mọi người chia cho nhau, nên ai cũng đủ thức ăn. Có một số nhà duy lư lại cho rằng : sự kiện kể lại hôm nay chỉ dạy tín nhiệm vào Chúa quan pḥng, chứ đâu có xảy ra thật như vậy, chẳng qua là v́ Chúa biết có lương thực giấu trong đám đông, đến lúc tiện, họ đưa ra ăn. C̣n những người không tin Chúa Giêsu là Thiên Chúa, không tin Ngài có quyền phép làm được những việc lạ lùng kể lại trong Tin Mừng, lại cho rằng : Chúa đă làm ảo thuật, Chúa đă làm phù phép che mắt dân chúng hay làm mê hoặc năm ngàn cái dạ dày các người ở đó, cho họ ăn no mà họ không biết.

Chúng ta thấy những lư lẽ trên đây không có bằng chứng và chẳng hợp lư tí nào, sự thật không phải như vậy. Bởi v́ sự kiện làm cho bánh hóa nhiều này là một trong những sự kiện lẫy lừng nhất, cũng là một phép lạ chắc chắn nhất Chúa Giêsu đă làm. Cả bốn tác giả Tin Mừng đều thuật lại một cách hoàn toàn giống nhau. Có người đă quả quyết : phải chối bỏ cả Tin Mừng th́ mới loại đi khỏi Tin Mừng sự kiện bánh hóa nhiều. Đàng khác, ảo thuật ǵ, phù phép ǵ mà có thể mê hoặc hàng ngàn người như thế ? bằng chứng : họ không có ǵ ăn, nếu có th́ đă ăn hết rồi, v́ họ đă đi theo Chúa đến ba ngày, chính các môn đệ chỉ t́m được năm chiếc bánh và hai con cá. Tin Mừng c̣n nói rơ : mọi người đều ăn no nê, chứ không phải ăn qua loa, nên không thể là chuyện tâm lư :  thấy người ta no th́ ḿnh cũng no. Rồi sau khi ăn, các môn đệ c̣n thu được 12 thúng đầy, nếu họ chia đồ ăn cho nhau th́ làm sao mà dư nhiều như vậy ? Sau hết, dân chúng thấy lạ quá nên phấn khởi muốn tôn Chúa làm vua nhưng Chúa không đồng t́nh. Những chi tiết rơ ràng như thế, th́ đây là một phép lạ thực sự, chứ không phải là chuyện tâm lư hay ảo thuật, phù phép. Đây là một sự kiện lịch sử có thực.

Mục đích trước mắt Chúa Giêsu làm phép lạ này là để cho đám đông dân chúng đến nghe Chúa giảng dạy, được ăn để khỏi đói. Ngoài ra, mục đích xa và cao sâu của Chúa là làm cho các tông đồ thêm ḷng tin vào Chúa và sửa soạn tâm hồn các ông có đủ điều kiện để tiếp nhận mạc khải của Chúa về phép Ḿnh Thánh sau này, và mục đích giáo dục của Chúa đă đạt được. Chính v́ thế mà ngày nay Giáo Hội cắt nghĩa phép lạ này như là tiêu biểu cho phép Ḿnh Thánh. Như Chúa đă dùng năm cái bánh và hai con cá để cho hàng ngàn người ăn thế nào, Ngài cũng sẽ làm cho bánh và rượu trở nên Ḿnh và Máu Ngài để nuôi các tín hữu như vậy.

Ngoài bài học chúng ta có thể rút ra được từ mục đích  trên đây về phép Ḿnh Thánh, bài Tin Mừng hôm nay c̣n nhắc nhở chúng ta một bài học khác, đó là hăy tin tưởng và cậy trông vào quyền phép vô cùng của Thiên Chúa. Thực vậy, lấy năm chiếc bánh và hai con cá cho hàng ngàn người ăn là một việc lạ lùng thật, nhưng hàng ngày Chúa c̣n làm cho của ăn do bùn đất sinh sản ra, nuôi sống tất cả các sinh vật trên trái đất, th́ lại không phải là việc lạ lùng lắm sao ? Chung quanh chúng ta đă thế, lại c̣n biết bao sự kỳ lạ khác trong chính bản thân chúng ta, chẳng hạn, các bộ phận trong cơ thể chúng ta là những bộ máy hết sức tế nhị và tinh xảo, không một pḥng thí nghiệm vật lư hóa nào có thể sánh kịp. Những bộ máy ấy, con người chưa khám phá ra hết những bí mật của chúng, và khi nhỡ ra do sự liều lĩnh, dại dột của con người, mà những bộ máy ấy hư hỏng hay lệch lạc, th́ con người cũng phải khó nhọc lắm may ra mới chữa nổi, nhưng thường là phải bó tay.

Những công việc kỳ lạ ấy, Thiên Chúa vẫn tiếp tục làm cho chúng ta, nhưng mấy người để ư tới ? Đă thế, con người c̣n tỏ ra vô ơn và coi thường Tạo Hóa, bằng cách chối bỏ Thiên Chúa hay quá đề cao những phát minh của ḿnh. Thay được một quả tim nhân tạo trong chốc lát, thay được một con mắt, phát minh được nguyên tử, hỏa tiễn, phi thuyền, bay cao và nhanh được hàng ngàn cây số. Con người đă lấy làm kỳ lạ, hănh diện, tự cao tự đại. Nhưng hiện nay, con người đă thoát ly ra khỏi trái đất được đâu ? Đang khi đó th́ các vệ tinh của Thiên Chúa vẫn hoạt động ngoài sức tưởng tượng của con người, lại c̣n biết bao nhiêu tinh vân, tinh cầu, mà các ống viễn kính mạnh nhất của con người cũng chưa nhận thấy. Hơn nữa, từ lâu rồi, Thiên Chúa đă cho mấy người thoát ly ra khỏi sức hấp dẫn của trái đất để du hành qua không gian đến thiên đàng, th́ con người lại cố sức chối bỏ : Chúa Giêsu lên trời, Mẹ Maria đă lên trời cả hồn lẫn xác. Đó không phải là những sự kiện lạ lùng quá sức tưởng tượng sao ? Thế nhưng được bao nhiêu người công nhận những sự kiện ấy ?

Tóm lại, nếu không suy tôn Thiên Chúa, con người sẽ suy tôn bản thân. Họ sẽ phải chọn một trong hai, không tài nào tránh được. Nhưng, ḷng vị kỷ là nhà độc tài khó tính nhất trong thiên hạ, càng được chiều đăi càng đ̣i hỏi, được voi th́ đ̣i tiên, được mặt trăng đ̣i mặt trời. Nếu chỉ biết suy tôn ḿnh mà quên mất Thiên Chúa th́ thật nguy hiểm. Cũng như chiến tranh nguyên tử, tựu trung chỉ là vấn đề một cây diêm. Bà nội trợ đánh cây diêm để thổi cơm cho gia đ́nh, tên bất lương đánh cây diêm để đốt nhà hàng xóm. Cũng đánh một cây diêm mà sinh hai hiệu quả trái ngược nhau. Sự kiện ấy là do người sử dụng cây diêm, chứ đâu phải do nơi cây diêm. Năng lượng nguyên tử cũng thế : trong tay những người kính sợ Thiên Chúa, sống trong t́nh yêu Ngài, nguyên tử lực sẽ phục vụ ḥa b́nh, thêm sức sống mặn nồng cho nhân loại. Trái lại, trong tay những kẻ đối lập với Thiên Chúa, sống ngoài lề các giới răn của Ngài, nguyên tử lực sẽ hủy diệt thế giới.

Như thế, không có lư do ǵ mà chúng ta phải sợ bom nguyên tử hay hỏa tiễn nguyên tử, hay vệ tinh nguyên tử,… Giờ đây, Thiên Chúa đang dùng nguyên tử lực để sáng soi và nuôi dưỡng các mầm sống trên thế gian. Đáng sợ là triết lư của những kẻ sử dụng nguyên tử lực. Đáng sợ là kẻ không tôn thờ Thiên Chúa : không có Ta, mọi sự đều huyền hoặc hư vô. Vậy, dù chúng ta là ai, sống ở đâu, làm việc ǵ, gặp hoàn cảnh nào,… chúng ta phải tin tưởng, cậy trông và cầu xin Thiên Chúa.


Phaolô Phạm Chung Kiên op

Cn 18 Tn : Biết Cho đi không tính toán

(Mt 14,13-21)

Tin Mừng hôm nay ghi lại câu chuyện Chúa hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng đang trong cơn đói ăn ; đồng thời cũng báo trước bí tích Thánh Thể Đức Giêsu sẽ lập để nuôi chúng ta trong đời sống tâm linh.

Qua phép lạ hoá bánh, một lần nữa, Chúa Giê-su giải thích cho chúng ta hiểu mỗi người phải làm ǵ. Chúa không đ̣i chúng ta những việc làm to lớn, nhưng đ̣i chúng ta phải biết san sẻ, phải biết cho những ǵ nằm trong tầm tay, năm trong khả năng của ḿnh. Phần c̣n lại, chúng ta sẽ được Chúa tiếp tay thực hiện.

Trong cuộc sống, xung quanh chúng ta vẫn c̣n nhiều người đói ăn. Nhưng thật đáng thương hơn khi con người không chỉ đói cơm bánh, mà c̣n đói chân lư, đói tự do, đói ḥa b́nh, đói hiểu biết, đói công lư, đói t́nh yêu… Như cơn đói cơm bánh, nếu những cơn đói khát này không được thỏa măn, con người sẽ khó chịu, mệt mỏi trong đời sống tinh thần.

Đức Giêsu đến trần gian để làm no thỏa cơn đói của chúng ta. Và Người muốn chúng ta cộng tác vào công tŕnh cứu độ, để làm no thỏa những cơn đói khát tâm linh đó. Như thánh Augustinô nói : Thiên Chúa dựng nên chúng ta không cần chúng ta cộng tác ; nhưng để cứu độ chúng ta, Ngài cần chúng ta cộng tác.

Như thế, Đức Giêsu mời gọi chúng ta cùng với Ngài làm việc để cho thế giới được “ăn”, tức là làm no thỏa cơn đói khát tâm linh của con người ; bằng cách :

“Đem yêu thương vào nơi oán thù

Đem thứ ta vào nơi lăng nhục

Đem an ḥa vào nơi tranh chấp

Đem chân lư vào chốn lỗi lầm.

Đem hy vọng vào nơi thất vọng

Đem ánh sáng vào nơi tối tăm

Đem ủi an đến chốn ưu sầu”.

(Thánh Phanxicô Assidi)

Phép lạ chính là những ǵ Thiên Chúa tạo nên nhờ sự cộng tác và đóng góp của con người. Trong đó, mọi người tín hữu đều được mời gọi để sống cho tha nhân. Ḷng quảng đại và sự đóng góp của chúng ta là những xúc tác cần thiết để Thiên Chúa tiếp tục thực hiện các phép lạ. Phép lạ diễn ra khi con người mở rộng tâm hồn đón Ngài. Chỉ cần một chút quảng đại và đóng góp của con người là đủ để Thiên Chúa thực hiện những phép lạ.

Năm chiếc bánh và hai con cá của em bé là biểu trưng của ḷng quảng đại cần thiết, để Chúa Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều cho hơn năm ngàn người ăn no. Cho dù chỉ là một chút quảng đại, th́ sự quảng đại đích thực nào cũng đ̣i hỏi nơi con người hi sinh mà không bao giờ tính toán. Như thế, hành động trao tặng mới là trọn vẹn, dù ḿnh chỉ có rất ít để cho.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng con đă được ăn; nhiều lúc chúng con đă ăn để mà ăn, thế thôi ; ăn v́ đến bữa, ăn v́ được mời, ăn v́ lịch sự, ăn để mừng chuyện này chuyện nọ ; và h́nh như chúng con đă được ban tặng nhiều quá ; trong khi xung quanh chúng con, không thiếu những người chẳng có ǵ để ăn.

Lạy Chúa Giêsu Thánh thể, Chúa đă nuôi dưỡng chúng con bao nhiêu ngày qua bằng cơm bánh cuộc đời, bằng Ḿnh và Máu Chúa ; không phải chỉ để chúng con no bụng, sung sướng ; nhưng c̣n để, qua chúng con, Chúa nuôi dưỡng những anh chị em của chúng con.

Xin Chúa cho chúng con luôn ư thức niềm vui biết cho đi mà không bao giờ tính toán. Và xin Chúa hăy tiếp tay trợ giúp chúng con ta để t́nh yêu thương nhân ái lan toả đến mọi người. Amen.


Đỗ Lực op

Sa Mạc Trần Gian
(Mt 14:13-21)

 Trong Ngày Quốc Tế Giới Trẻ tại Úc vừa qua, Đức Thánh Cha Benedict XVI: cho thấy : “Trong ḷng nhiều người sống trong xă hội ngày nay, bên cạnh sự thịnh vượng vật chất là sự lan rộng của sa mạc tâm linh, một sự trống rỗng nội tâm, nỗi sợ không tên và, một cảm thức lặng lẽ của tuyệt vọng.”[1] ĐGH đă nói đến một cơn đói khát không thể lấp đầy giữa một thời đại đầy đủ mọi tiện nghi vật chất.

 Phải chăng đây là lúc nh́n lại cảnh đói khát của dân chúng khi theo Chúa Giêsu vào “một chỗ hoang vắng” (Mt 14:13) ? Giữa hoàn cảnh đó, Chúa đă mạc khải tất cả tấm ḷng yêu thương và quyền năng của ḿnh. Chỉ có Chúa mới là nguồn sống đích thực đem lại cho mọi người hạnh phúc trọn vẹn. Tại sao ?  Chân lư này có tác dụng thực tiễn nào cho cuộc sống hôm nay không ?

T̀M VỀ NGUỒN SỐNG

Chúa Giêsu có một sức lôi hút đặc biệt đối với quần chúng. Không phải do h́nh dạng bên ngoài, nhưng chính từ một tấm ḷng. Sở dĩ Chúa chữa lành các bệnh nhân hay làm các phép lạ, chỉ v́ Người  luôn “chạnh ḷng thương.” (Mt 14:14) Không có t́nh yêu thực sự này, Chúa không thể tạo được niềm tin nơi quần chúng.

Chính nơi Chúa Giêsu, t́nh yêu đă chứng tỏ tất cả sức mạnh và mạc khải bản chất đích thực của Thiên Chúa. Nhờ t́nh yêu đó, Chúa trở thành nguồn sống có sức thỏa măn mọi ước vọng con người. Khi thấy dân chúng mải mê nghe lời Chúa đến quên thời gian, các môn đệ đâm lúng túng. Họ đề nghị Chúa ngưng ngay để dân kịp thời giải quyết vấn đề thực tế cuộc sống. Chúa đồng ư, nhưng không theo cách thức các ông đề nghị. Thay vào đó, Chúa muốn các ông phải tự lo liệu cho dân.

Nh́n lại số vốn ít ỏi của ḿnh, các môn đệ nhận thấy nhu cầu quần chúng quá lớn. Họ cảm thấy quá bất lực, không thể đáp ứng nổ ! Khác với các ông, Chúa có thể vượt qua giới hạn đó bằng quyền năng vô biên. Chúa đă chúc lành cho các tấm bánh và các con cá. Kết quả, dù có hàng chục ngàn người, nhưng “ai nấy đều ăn và được no nê” (Mt 14:20) mà “không phải trả đồng nào” (Is 55:1) Đúng là thời thái b́nh lư tưởng của vị Thiên Sai. Mọi người đều thỏa măn v́ được hưởng ơn lộc từ chính nguồn sống đích thực.

Sau khi ăn uống no nê, “những mẩu bánh c̣n thừa, người ta c̣n thu lại được mười hai giỏ đầy.” (Mt 14:20) Nói khác, mọi người được chia đồng đều. Không ai bị đối xử phân biệt. Không ai kiện cáo về bất cứ hành vi bất công chèn ép nào. Nếu không có  t́nh yêu Thiên Chúa, làm sao công lư có thể hiện diện để đem b́nh an cho mọi người ?

Từ cơn đói khát thể xác, dân chúng có thể nh́n ra được dấu chỉ một quyền năng tuyệt đối. Chỉ có quyền năng tuyệt đối mới có thể đáp ứng hơàn toàn nhu cầu thiết yếu của con người. Quyền năng đó là Thiên Chúa. Nhu cầu lương thực là một điển h́nh và là dấu chỉ nhu cầu cần một cái ǵ vượt ngoài con người, nhu cầu tuyệt đối cần đến Thiên Chúa. Nhưng mấy ai nhận ra nhu cầu tuyệt đối đó ?  

V́ không nh́n thấy dấu chỉ nhu cầu t́m kiếm Thiên Chúa, nên người ta dễ dàng dồn mọi nỗ lực đáp ứng nhu cầu trước mắt. Họ tiêu xài tiền bạc vào những thứ không phải là lương thực đem lại sự sống đích thực. Đồng lương đổ vào những thứ không đem lại sự thỏa măn. Cách đây ít năm, một thi sĩ nổi tiếng người Anh (tên T.S. Eliot) viết một bài thơ tuyệt vời, với tựa đề “The Wasteland.” Thi sĩ có cái nh́n bi quan về văn hóa ngày nay. Ông cho thấy chúng ta đang sống trong một sa mạc tinh thần giữa thế giới hôm nay, một miền hoang địa, và một nơi hoang vắng. Eliot đă nhắc lại tiếng kêu của ngôn sứ Isaia : “Sao lại phí tiền bạc vào của không nuôi sống, tốn công lao vất vả vào thứ chẳng làm cho chắc dạ no ḷng ?” (Is 55:2)

Ngày nay, chúng ta đang sống những giấc mộng vụn vỡ của hai thế kỷ vừa qua. Chúng ta tiến bộ về vật chất vượt quá những ǵ trước đây người ta mơ tưởng. Nhưng về mặt tinh thần, chúng ta thật đói khát. Nhiều người quay về với ông đồng bà cốt, phù thủy, tôn giáo dân gian, và nhiều người đang hướng tới cuộc sống tuyệt vọng hoàn toàn.

CƠN ĐÓI KHÁT

Giữa đám đông đang đói khát trong sa mạc trần gian đó, chúng ta có thể làm ǵ để thay đổi t́nh h́nh ? Chỉ Thiên Chúa mới cứu nổi con người. Nhưng làm sao t́m được Thiên Chúa, nếu không lắng sâu trong lời cầu nguyện ?  Phải chăng ngày nay chúng ta sợ sự thinh lặng ? Có lẽ trong một mức độ sâu xa hơn, chúng ta sợ cầu nguyện v́ lương tâm sẽ vạch trần con người chúng ta và v́ muốn tránh xa Thiên Chúa. Nhưng nên nhớ, Thiên Chúa mạc khải chính ḿnh ngay trong những thất bại và tội lỗi chúng ta. Ngay giữa những phường bất chính, Thiên Chúa cũng mạc khải sự công chính của Người.

Ngoài lời cầu nguyện, phải nói sao về những khoảnh khắc suy tư ? Kỳ hè là dịp để chiêm ngắm vẻ đẹp thiên nhiên, sông núi, biển hồ v.v. Nhưng tất cả đều là những vật bên ngoài. Nếu muốn cho tâm hồn phong phú, chúng ta cần phải nh́n vào nội tâm. Có nh́n vào nội khảm, chúng ta mới thấy ḿnh đói khát chừng nào.

Sống tự lập không phải là một điều xấu. Nhưng tự lập quá cũng chỉ đem lại sự trống rỗng. Một cơn cơn đói khát thiêng liêng sẽ trào lên. Càng nh́n ra chung quanh, càng thấy nhiều người đang t́m kiếm một cuộc sống có ư nghĩa và mục đích, một cuộc sống gần gũi Thiên Chúa, Đấng nuôi sống con người. Tất cả chúng ta phải chia sẻ lương thực của Người, tức là ḷng thương xót, sự hiện diện và t́nh yêu của Người cho tha nhân. Nếu không, thế giới chung quanh ta vẫn c̣n toàn người đói khát, đói khát sự công chính.

“Nhiều anh chị em nghèo đói đang chờ sự giúp đỡ. Bao nhiêu người bị đàn áp đang mong chờ công lư. Bao nhiêu người thất nghiệp đang mong có việc làm. Bao nhiêu dân tộc đang mong được kính trọng. Làm sao ngày nay vẫn c̣n có người chết đói, mù chữ ? Thiếu những phương tiện chăm sóc sức khỏe cơ bản nhất ? Không có mái nhà nương thân ? Những trường hợp điển h́nh này thường lâm cảnh thất vọng v́ cuộc sống vô nghĩa, sợ hăi bị bỏ rơi lúc về già hay bệnh tật, bị gạt ra ngoài lề xă hội hay bị kỳ thị ... Làm sao chúng ta có thể lănh đạm trước viễn tượng khủng hoảng môi sinh đang lan tràn khắp nơi khiến trái đất không thể cư ngụ và không c̣n gần gũi với con người ? Hay những vấn đề ḥa b́nh thường bị viễn tượng chiến tranh tàn phá ? Hay nhân quyền của biết bao người, nhất là trẻ em, bị coi thường ?”[2]

Tất cả hiện trạng đó vạch trần một sự thật : nhân loại đang đói khát công lư. Nếu có công lư hơn, con người sẽ không c̣n sống trong sự sợ hăi và trống rỗng nữa. Chẳng hạn, tại sao môi trường trở thành vấn đề nổi cộm nhất hiện nay, nếu không phải v́ có sự bất công rơ ràng đối với người nghèo ? Quả  vậy, “khủng hoảng môi trường và sự nghèo khó liên hệ với nhau v́ một số những sự kiện phức tạp và bi thảm. Những sự kiện này có thể được giải quyết nhờ nguyên tắc phân phối hàng hóa toàn cầu. Nguyên tắc này cho thấy một khuynh hướng đạo đức và văn hóa căn bản. Cuộc khủng hoảng môi trường hiện tại đặc biệt ảnh hưởng tới những người nghèo khổ nhất, hoặc họ đang sống trong những miền đất bị soi ṃn và sa mạc hóa, đang lâm ṿng xung đột vơ trang hay bị di dân cưỡng bức, hay v́ họ không đủ những phương tiện kinh tế và kỹ thuật để tự bảo vệ khỏi các tai họa. Vô số những người nghèo này sống trong các vùng ngoại ô thành phố đầy ô nhiễm, tạm thời sống  trong các khu dân cư hay trong những khu công nghiệp liên hợp các căn nhà đổ vỡ và không an toàn (nhà ổ chuột v.v.).”[3]

Trước cảnh nheo nhóc đó của nhân loại, Giáo Hội không thể khoanh tay đứng nh́n. “Vào đầu Tân Kỷ Nguyên, sự nghèo đói của hàng tỷ người là ‘một vấn đề thách đố lớn nhất đối với lương tâm con người và Kitô hữu chúng ta.’ Nghèo đói đặt ra một vấn đề bi đát vê công lư. Trong mọi h́nh thức và hệ quả, vấn đề đó có đặc điểm là sự tăng trưởng không đồng đều v́ không nh́n nhận ‘mọi người có quyền b́nh đẳng về chỗ ngồi trong bàn tiệc chung.’ Sự nghèo đói như thế không thể làm phát sinh nền nhân bản trọn vẹn mà Giáo Hội vẫn kỳ vọng và theo đuổi để con người và các dân tộc có thể sống trong những điều kiện nhân bản hơn. Cuộc chiến chống lại nghèo đói được thúc đẩy mạnh mẽ v́ Giáo Hội đă lựa chọn hay dành t́nh yêu ưu tiên đối với người nghèo. Liên tục tái xác nhận nguyên tắc liên đới, học thuyết xă hội của Giáo Hội yêu cầu hành động để thăng tiến ‘thiện ích của tất cả và từng người, v́ tất cả chúng ta thực sự có trách nhiệm đối với tất cả.’”[4]

Khi đă ư thức trách nhiệm đối với người nghèo như thế, Giáo Hội không thể làm ngơ trước sự lộng hành của các cơ chế bất công. Có thế, thực sự người nghèo mới có cơ hội thoát khỏi những bế tắc và cùng khốn hiện tại. Số phận người nghèo gắn liền với sứ mệnh Giáo Hội.

ÁNH SÁNG HY VỌNG ?

Sống giữa một đại dương nghèo đói, GHVN càng phải nỗ lực hơn mới có thể hoàn thành sứ mệnh làm chứng cho Chúa Kitô. Tới bây giờ, ánh sáng mới ló một chút cuối đường hầm.

Tuần qua, “Uỷ Ban Bác ái Xă hội thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam (UBBAXH/HĐGMVN) đă nhận được Công văn số 941/TGCP-CP của Ban Tôn Giáo Chính Phủ đề ngày 02-07-2008 cho phép UBBAXH/HĐGMVN được sử dụng tên Caritas Việt Nam và cho Caritas Việt Nam hoà nhập vào mạng Caritas Internationalis (Caritas Quốc Tế) cũng như các Caritas giáo phận được thành lập tại 26 giáo phận trên toàn quốc.”[5]

Một chiều hướng mới tưởng như đă mở ra. Nhưng thực sự vẫn c̣n có bức tường sừng sững ngăn trước mặt. Quả thế, nhà nước Việt Nam treo sẵn một dây tḥng lọng : "Tuy nhiên, hiện chưa có qui định Nhà nước về việc cho tổ chức phi chính phủ nước ngoài hay mạng lưới các tổ chức phi chính phủ nước ngoài lập chi nhánh hay tổ chức của ḿnh ở Việt Nam, nên không đặt vấn đề thành lập chi nhánh Caritas quốc tế tại Việt Nam."[6]

Như vậy, dù được tổ chức công cuộc bác ái giúp đỡ người nghèo, nhưng GHVN vẫn phải nằm trong khuôn khổ. Dĩ nhiên, có lẽ GHVN phải khéo léo lắm mới có thể hoạt động hữu hiệu giúp đỡ dân nghèo.

Trong thực tế c̣n phải “trầy da tróc vẩy,” GHVN mới có thể t́m được cơ hội phục vụ người nghèo hữu hiệu. Tấm ḷng bao giờ cũng có, nhưng phương tiện không dễ lọt vào tay GHVN ! Cuộc chiến đấu nhiều khi tưởng như hụt hơi. Rất may, vẫn có những môn đệ Chúa Kitô dấn thân chống lại bất công và tranh đấu cho Giáo Hội có cơ hội phục vụ người nghèo. Tuần qua, tại Hội nghị “Vai tṛ của tôn giáo trong việc xă hội hoá giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo” do BTG Chính phủ tổ chức ngày 24.07.2008, Ḍng Chúa Cứu Thế đă khẳng khái lên tiếng : “Chúng tôi phản đối việc gắn liền tiến tŕnh xă hội hoá giáo dục-y tế với việc cổ phần hoá các trường công và bệnh viện công. V́ như thế là tước mất cơ hội học tập và chữa bệnh của người nghèo. Cũng trong tiến tŕnh xă hội hoá giáo dục, y tế, chúng tôi đề nghị giao quyền quản lư và điều hành các cơ sở giáo dục - y tế mà chính quyền đă mượn của các giáo xứ, các ḍng tu, các giáo phận và Giáo hội Công giáo cho chính các tổ chức này.”[7] 

Thật là can đảm ! Hy vọng tiếng nói không rơi vào hư vô ! Trước những cảnh khốn cùng về mọi mặt của đồng bào hôm nay, biết bao việc cần phải làm gấp. Nhưng GHVN phải chờ đến bao giờ mới có cơ hội và phương tiện để phục vụ ?! Nếu chỉ nh́n trong khung cảnh hạn hẹp của 5 chiếc bánh và 2 con cá như các môn đệ Chúa thuở xưa, chắc chắn GHVN sẽ chẳng làm ǵ được để đáp ứng với nhu cầu quá sức lớn lao của quần chúng. Nhưng nếu có cái nh́n của Chúa, GHVN sẽ thấy ḿnh cần phải có một tấm ḷng và đặt niềm tin vào đúng chỗ. Chúa có những cách hành động khác hẳn Giáo Hội ! Vấn đề là tin Chúa tới mức nào và kiên nhẫn tới đâu để chờ ngày Chúa ra tay hành động !

Tóm lại, đứng trước đám đông, Chúa Giêsu thấy tất cả nỗi bơ vơ và vô định hướng của họ. Tất cả t́nh thương đă thôi thúc Chúa hành động. Chúa chữa lành mọi bệnh tật và mạc khải cho họ một hướng sống đích thực. Họ say mê nghe Chúa đến nỗi quên cả thời gian. Bởi thế, Chúa đă phép lạ để nuôi sống hàng chục ngàn người giữa cảnh hoang vu. Toàn dân và các môn đệ vô cùng kinh ngạc trước quyền năng Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Chỉ có Chúa mới đem đến cho dân tất cả những ǵ họ mơ ước. Chỉ một ḿnh Chúa mới nắm bí quyết và giải gỡ mọi vấn đề cho muôn dân.

Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn say mê lắng nghe lời Chúa và  đặt tất cả niềm tin nơi Chúa là nguồn sống đích thực của chúng con. Amen.

đỗ lực 03.08.2008


[2] Toát Yếu Học Thuyết Xă Hội Của Giáo Hội, 5.

[3] Ibid., 482.

[4] ibid., 449.

[6] Ibid.


Lm Jude Siciliano, OP (
Anh em Nhà học Đaminh G̣ Vấp chuyển ngữ.)

Chính Anh Em Hăy Cho Họ Ăn
Mt 14,13-21

Thưa quư vị,

Một người bạn của tôi làm cha sở ở vùng Raleig, Giáo phận Bắc Carolina. Cha nói với tôi rằng sau vụ tấn công ngày 11/9 người ta bắt đầu đến nhà thờ sau khi tan sở, sau giờ học ở trường Đại học, trường của xứ và khu vực lân cận. Trong lúc buồn khổ, có cái ǵ đó kéo chúng ta lại với nhau; chúng ta thích ở với những người có cùng cảm nhận như chúng ta.

Khi buồn khổ, chúng ta không hề muốn ở với những người hạnh phúc. Khi cha mẹ của tôi lần lượt qua đời cách nhau chưa đầy một năm, những tháng ngày sau cái chết của các ngài, nếu có ai đó nói về cái chết của người thân của họ, tôi có thể bật khóc. Chính nỗi đau của ḿnh giúp chúng ta nhạy cảm hơn với nỗi đau của người khác và điều đó kéo chúng ta lại gần nhau. Một người bạn theo giáo phái Baptist nói với tôi rằng: “Khi mẹ của tôi qua đời, người ta làm những việc mà những người theo phái Baptist thường làm, họ mang thức ăn tới. Chúng tôi quy tụ rất đông và có rất nhiều thức ăn – bạn có thể làm được ǵ nữa?” Đó có lẽ cũng giống như có “rất nhiều” thức ăn trong Tin mừng hôm nay.

Ngay phần mở đầu bài Tin mừng hôm nay đă có một giọng điệu riêng. Đức Giêsu nghe biết về cái chết của Gioan Tẩy Giả. Một nhân vật quan trọng đă qua đời. Một người đă can đảm lên tiếng đầy uy quyền, như một số người tin tưởng, là đấng Mêsia. Chúng ta biết tương quan của Gioan đối với Đức Giêsu – hai người là anh em họ. Quư vị c̣n nhớ Đức Maria đă đến thăm bà Êlizabet ở đầu sách Tin mừng không? Khi hai người gặp nhau, bà Êlizabeth đă nói với Đức Maria rằng đứa trẻ nhảy lên trong ḷng bà. Cứ như thể mối tương quan của các Ngài trở lại ngày c̣n trong ḷng mẹ. Gioan Tẩy Giả xuất hiện trước Đức Giêsu và, như nhiều người cho rằng, lúc đầu Đức Giêsu là môn đệ của Gioan. Thánh Gioan đă rửa tội cho Đức Giêsu tại sông Giođan, để khởi đầu cho cuộc đời sứ vụ công khai của Đức Giêsu. Thánh Gioan là một người quan trọng, xét ở nhiều cấp độ, trong cuộc đời của Đức Giêsu.

V́ thế, khi Đức Giêsu nghe tin Gioan chết, Ngài lánh đi đến một nơi hoang vắng riêng biệt. Đó là một thái độ trước nỗi đau thương, muốn được một ḿnh. Nhưng Ngài không phải là người duy nhất bị cái chết của thánh Gioan tác động. Đám đông bị mất người lănh đạo anh dũng của họ. Nếu người ta có thể giết Gioan Tẩy Giả, th́ hỏi ai có thể được an toàn? Tất cả đều có thể bị tấn công - kể cả chính Đức Giêsu.

Nhưng Đức Giêsu không thể ở một ḿnh, c̣n đó cả một đám đông mà Tin mừng đôi khi xem giống như “đàn chiên không người chăn dắt”. Khi Đức Giêsu thấy đám đông, “Ngài chạnh ḷng thương”. Từ “chạnh ḷng” có vẻ như chiếu cố. Chúng ta nói: “tôi không muốn ai thương hại!” Hay, khi nóng giận ta hay nói “thật đáng thương hại”. Đây không phải là lời khen ngợi hay chúc mừng, cũng chẳng phải là t́nh cảm thương mến hay quan tâm. Nhưng trong Kinh thánh, thương xót hàm ư một t́nh cảm sâu xa. Có lẽ một từ hay hơn có thể là “động ḷng trắc ẩn”.

Trong Sách thánh, ḷng trắc ẩn mô tả một t́nh cảm gần gũi gắn bó; một động thái tự nhiên từ sâu thẳm. Giống như người mẹ cảm nhận về đứa con trong ḷng ḿnh cách tự nhiên theo bản năng. Bà của tôi có một câu nói của người Ư có thể được dịch ra như sau: “Người mẹ hiểu được đứa con của ḿnh dù nó im lặng”. Người mẹ “cảm nhận” được con ḿnh muốn ǵ và cần ǵ ngay cả trước khi nó nói lên điều đó. Hoặc, giống như một lần một người cha nói với tôi. Khi ông đang trên đường đi làm về th́ đứa con gái bốn tuổi chạy ra đón ông. Cô bé trượt chân té và ông ấy nói với tôi: “trước khi con bé chạm vào nền xi măng th́ tôi đă cảm thấy nó bị đau”. Ḷng thương.

Nhạy cảm với nỗi đau của người khác là bản năng tự nhiên, đó cũng là những ǵ Đức Giêsu cảm thấy khi Ngài nh́n thấy đám đông kh người bước khỏi thuyền. “Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu trông thấy một đoàn người đông đảo th́ chạnh ḷng thương, và chữa lành các bệnh nhân của họ.”

Những người đau khổ hoặc thua thiệt th́ có khuynh hướng tụ họp với nhau – như đám đông ngày ấy trước mắt Đức Giêsu. Các môn đệ có vẻ như muốn tránh xa đám đông. “Nơi đây hoang vắng, và đă muộn rồi, vậy xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn.” Nghe ra có vẻ như các ông hơi hà khắc, nhưng có vẻ không hẳn thế. Nếu các ông là các môn đệ, có thể các ông cũng có cùng một cảm giác như Đức Giêsu. Các ông có thể bắt đầu học được cách suy nghĩ và cảm như Ngài đă làm. Đó chính là điều mà người môn đệ thực hiện, là bản mô tả công việc của chúng ta – hăy học biết cách suy nghĩ và hành động như Đức Giêsu – để lớn lên trong ḷng trắc ẩn.

Các môn đệ chắc đă phải cảm thấy ngợp trước những ǵ ḿnh thấy, “một đoàn người đông đảo”. Làm thế nào các môn đệ ít ỏi này có thể dù chỉ là gọi tên những như cầu, thể lư và tinh thần, mà những người này đang chờ đợi? Làm thế nào mà các ông có thể giải quyết được?

Chúng ta cũng giống như các môn đệ ấy. Chúng ta nh́n vào cuộc đời ḿnh, những người xung quanh và nhu cầu của thế giới. Có một “đám đông” người và những vấn đề cần kể ra: trong gia đ́nh ḿnh, công việc, những vấn đề về tài chính, tương lai của các con, bạn bè ở trường, nhu cầu sức khỏe và tinh thần của những người nghèo,… Như người môn đệ, chúng ta quan sát và cảm thông khi thấy quá nhiều những nhu cầu. Đó là cả một đám đông. Các môn đệ không vô tâm, chúng ta cũng vậy. Với biết bao những vấn nạn như thế cả ở trong đất nước chúng ta cũng như khắp nơi trên thế giới, chúng ta dường như cần một đội quân và các tổ chức lớn để giải quyết. Và chúng ta đúng, các tổ chức đó nên chỉ ra những vấn nạn về giáo dục, chăm sóc người bệnh, già nua, di dân, vô gia cư và cả những gia đ́nh bị lụi bại về tài chánh,… Nhưng chúng ta cũng nên làm cái ǵ đó, như chúng ta nghe thấy lời vọng của Đức Giêsu nói với các môn đệ là chúng ta, “chính anh em hăy cho họ ăn”.

Tôi đă có một buổi nói chuyện với mục sư phái Baptist, một buổi nói chuyện có thể để lại cho quư vị cảm giác thất bại và không thể giúp ǵ được. Chúng tôi nói về các vấn nạn lớn, vấn đề của thế giới và của thành phố chúng ta đang sống đây. Tôi hỏi ông ta: “Mục sư làm ǵ với một nhu cầu lớn như thế?” Những lời của ông ấy đă đọng lại trong tôi và cho tôi một hướng đi. Ông nói: “Tôi xử lư góc nhỏ của mảnh vải ở gần tôi nhất”. Đó, quư vị làm ǵ đó tại đây và ngay bây giờ, rất nhỏ và tầm thường trong viễn cảnh của những vấn nạn của thế giới. Quư vị làm ǵ đó, dù chỉ như năm chiếc bánh và vài con cá trước đám người đông đảo.

Đức Giêsu không dựng cảnh khi Ngài đối diện với những người đang đói này. Ngài dùng những ǵ chúng ta có và qua chúng ta Ngài trao ban chính ḿnh cho người khác. Cuối cùng th́ cũng đủ cho mọi người – hơn cả đủ. Thiên Chúa có mối tương quan ruột thịt với chúng ta: chúng ta là con cái của Chúa và Chúa biết những đói khát của chúng ta trước cả khi chúng ta tỏ ra. Thực sự, Thiên Chúa biết cơn đói khát sâu thẳm nhất của chúng ta và biết cho chúng ta loại thức ăn nào. Thứ thức ăn đó quá đủ cho chúng ta – thức ăn của đời sống vĩnh cửu là Đức Giêsu Kitô.

Gần đây tôi đến một nhà thờ mà ở đó không đủ bánh thánh cho mỗi người lên hiệp lễ. Thế nên, tôi phải bẻ nhỏ bánh ra. Những mẩu bánh trông không lớn lắm; một số người lên rước lễ có bàn tay rất to nên những mẩu bánh trông lại càng nhỏ hơn và ít trang trọng hơn! Nhưng có ai thấy ḿnh nhận được một Giêsu ít hơn không? Thưa không, Ngài trao ban tất cả ḿnh Ngài cho chúng ta trong những mẩu bánh; chúng ta có thừa để ăn. Hôm nay, Ngài cũng trao ban trọn vẹn ḿnh Ngài cho chúng ta, như Ngài luôn làm thế. Ngài giúp chúng ta nh́n theo cách mà Ngài nh́n, để có “t́nh cảm ruột thịt” với những người xung quanh. Ngài có thể khiến những nỗ lực của chúng ta tăng lên bội phần, dù là trong những việc nhỏ bé chúng ta làm cho những người đang thiếu thốn. Với sự hiện diện của Ngài th́ sẽ có mọi thứ hơn cả đủ dùng.

Lm. Jude Siciliano, O.P.

 

Hăy t́m kiếm những ǵ làm cho ta được no thoả

Is 55,1-3; Tv 145; Rm 8,35.37-39; Mt 14,13-21

 

Kính thưa quư vị,

Bài đọc ngôn sứ Isaia hôm nay chỉ cho thấy những cảm giác thất vọng khi người ta đi t́m hạnh phúc ở những nơi khác chứ không phải nơi Thiên Chúa. Chúng ta tự lừa dối và tiêu hao sức lực trong một cuộc t́m kiếm những thứ mà ngoài Chúa ra không ǵ có thể làm thoả măn được. Thiên Chúa ban cho chúng ta một thứ lương thực dồi dào, mà không phải trả tiền, một nguồn lương thực mà dẫu cho cuộc đời có đẩy đưa chúng ta thế nào, cũng không bao giờ cạn kiệt. Chúng ta đang được tặng ban thứ lương thực bảo đảm rằng dù trải qua thử thách sa mạc, chúng ta vẫn sẽ t́m được những phương tiện cần thiết cho cuộc sống ḿnh. Thiên Chúa đă nuôi dân Israel trong sa mạc, và bài Tin Mừng hôm nay nhắc chúng ta rằng, chúng ta cũng được nâng đỡ, dưỡng nuôi, nhờ Đức Kitô.

Những cử chỉ và lời nói của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay gợi nhớ về Bữa Tiệc Ly. Tác giả Tin Mừng cho thấy câu chuyện phép lạ ám chỉ Bí tích Thánh Thể. Làm sao ngày hôm nay chúng ta có thể đọc câu chuyện này mà không nhận ra được một Thiên Chúa nhân từ (Đức Chúa của ngôn sứ Isaia) cũng đang nói với chúng ta rằng: “Đến cả đây, hỡi những người đang khát, nước đă sẵn đây”?

Đám đông dân chúng nhận ra rằng, Đức Giêsu có ǵ đó để trao tặng họ đang khi họ ở trong “những vùng đất khô cằn” của chính ḿnh. Đức Giêsu không đơn thuần cho họ no nê cơm bánh. Bởi lẽ, cuộc đời của họ tựa như sa mạc bị lăng quên. Họ không phải là những người giàu có, nổi tiếng, học thức hay quyền lực, song, là những người đang đau khổ, đầy ưu phiền, những người ở bên lề xă hội. Dường như cuộc sống đă lăng quên họ, nhưng Đức Giêsu th́ không. Ngài quan tâm đặc biệt đến họ, và đến lượt ḿnh, họ cũng nhận ra được một điểm tựa nơi Người, một nơi chốn mà họ sẽ được chăm sóc, một nơi mà những đói khát sâu xa được no thoả. C̣n lư do nào khác để họ ở lại đó rất lâu, trong nơi hoang mạc khô cằn này để lắng nghe Đức Giêsu nữa không? Họ đă không phải thất vọng, v́ cuối ngày họ được ăn no nê. Đức Giêsu đă nh́n thấy trong số họ có rất nhiều người bị đói và Người đă cho họ ăn: “Ai nấy đều ăn và được no nê”. Phép lạ này nhắc chúng ta nhớ về việc Đức Chúa nuôi dân Israel trong sa mạc. Thiên Chúa của Giao Ước đă không bỏ rơi những kẻ Người đă chọn trong hoang địa, nhưng từng ngày, Người vẫn tiếp tục dưỡng nuôi họ bằng lương thực không gây nhàm chán.

Liệu chúng ta có đang loay hoay t́m kiếm những nguồn lương thực ở những nơi rốt cuộc chỉ làm ḿnh thất vọng không? Ai hoặc điều ǵ sẽ bồi bổ chúng ta khi chúng ta rơi vào đau khổ, rơi vào chính “hoang địa cằn cỗi” riêng của ḷng ḿnh? Tất nhiên, chúng ta cần một nguồn lương thực hằng ở cạnh chúng ta trong hoang địa ấy. Ai rồi cũng sẽ có lúc phải đi qua một hoang địa nào đó của cuộc đời. Và Tin Mừng đă cho chúng ta thấy, Đức Kitô có thể trao cho chúng ta một nguồn lương thực sẽ thực sự làm chúng ta no thoả. Phép lạ trong Tin Mừng hôm nay cũng là một dấu chỉ đảm bảo với chúng ta một lần nữa rằng, khi “ngày sa mạc” ấy đến, Thiên Chúa sẽ biết chúng ta cần ǵ, như Đức Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, và Người có một trái tim “chạnh ḷng thương” với chúng ta. Chúng ta sẽ không cô đơn trong những nơi hoang địa khô cằn như thế, lương thực sẽ luôn dư tràn để bồi bổ và tăng sức cho chúng ta. Đây không phải là câu chuyện “chỉ-đủ-no”. Nhưng là một câu chuyện “hơn-cả-no” nữa. Sau khi mọi người được no nê, vẫn c̣n  lại nhiều mẩu bánh thừa. Nơi Thiên Chúa, không ai phải thiếu và bị bỏ rơi, tất cả đều cảm thấy được dư đầy. C̣n nơi nào khác hay một thứ ǵ khác có thể đáp ứng cho ta như thế nữa chăng? Hăy nhớ lại câu hỏi chất vất của ngôn sứ Isaia: “Sao phải phí tiền bạc vào của không nuôi sống?”

Bánh ḿ thể lư trong câu chuyện phép lạ ngày hôm nay chỉ là những thứ lương thực mang giá trị tạm thời. Chúng không thể làm no thoả những đói khát thâm sâu được. Song, chúng lại là dấu chỉ cho thấy Đức Giêsu là Đấng có thể thoả măn những đói khát đó, đồng thời cho thấy ḷng thương xót Người dành cho chúng ta. Hăy chú ư cách thức mà Đức Giêsu cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá: một sự kính trọng giống hệt với sự kính trọng mà Người dành cho đám đông dân chúng, những kẻ mà Người biết, đều là những người con yêu dấu của Thiên Chúa. Phép lạ hôm nay đă chỉ ra rằng, chúng ta cũng là những người con yêu dấu của Thiên Chúa và chúng ta sẽ không bị đói khát bao giờ.

Các môn đệ đă hết sức bối rối trước t́nh huống này, giữa một bên là đám rất đông dân chúng và một bên là số lương thực ít ỏi mà họ có trong tay. Trong tŕnh thuật Tin Mừng hôm nay không có nhân vật bé trai mang đến những ổ bánh ḿ và những con cá để phép lạ được thực hiện. Nhưng nói đến các môn đệ có sẵn thức ăn. Phải chăng đó là lương thực riêng mà họ mang theo cho chuyến hành tŕnh? Đức Giêsu có yêu cầu họ chia sẻ những của ăn đó không? Thưa rằng, Người có yêu cầu họ liều lĩnh cho đi tất cả, để có cơ hội thể hiện một sự hào phóng phung phí không? Và có lẽ chính điều này cũng là một phép lạ, đó là, những của ăn ấy đă thực sự làm nên một sự thay đổi nơi các môn đệ của Đức Kitô, những người mà giờ đây đă học được bài học rằng, tất cả những ǵ mà các ông có sẽ vượt trên mức đủ dùng khi các ông biết cộng tác với Đức Kitô. Các môn đệ đang học để biết cho đi thật nhiều cùng với Đức Kitô, để liều lĩnh những ǵ họ có trong hành tŕnh sứ vụ của Người. Như chúng ta đă được nghe tuần trước, có một người phát hiện ra kho báu trong một thửa ruộng, ông về nhà bán mọi sự ḿnh có để mua cho được thửa ruộng ấy. Các môn đệ cũng đă được mời gọi đầu tư tất cả những ǵ họ có vào Đức Kitô. Chúng ta có như thế không? Hăy bán tất cả. Hăy đầu tư chính ḿnh vào Đấng Duy Nhất, Đấng không làm chúng ta thất vọng bao giờ.

Chúng ta có những vị thừa tác viên Thánh Thể trong các giáo xứ, họ là những người mang tấm bánh hiệp thông ra ngoài cộng đoàn để mang đến cho những ai đang sống trong các “hoang địa cằn cỗi”. Cằn cỗi là t́nh trạng mà những người bệnh tật, những kẻ hấp hối, bị tù đày, và những người già nua trong xă hội chúng ta thường nhận ra. Họ cảm thấy ḿnh đang ở ngoài ŕa cuộc sống, ít được cảm thông và tôn trọng. Chúng ta gởi các thừa tác viên Thánh Thể đến với họ cùng với sự hiệp thông của chúng ta để những người ấy biết rằng, họ vẫn là một phần của chúng ta, là một phần của đám dân được Thiên Chúa nuôi dưỡng. Họ không bị lăng quên trong những nỗi khó khăn, vất vả của họ. Tấm bánh Thánh Thể không chỉ mở rộng sự hiện diện của Đức Kitô, mà c̣n mở rộng sự hiện diện của chúng ta. Ngày hôm nay, chúng ta hăy mời các thừa tác viên Thánh Thể đến với những người bệnh tật để chia sẻ câu chuyện Tin Mừng này và nói cho họ biết, cộng đoàn chúng ta vẫn đang cầu nguyện và chia sẻ cuộc sống của chúng ta với họ, chia sẻ nguồn lương thực bồi dưỡng ḷng cậy trông.

Nhiều người trong chúng ta đă từng đứng kề cận những người bệnh tật và hấp hối. Chúng ta đă nh́n thấy họ với những chiếc ống gắn vào mũi và rất nhiều mũi kim trên cánh tay. Chúng ta cảm thấy ḿnh vô dụng và yếu ớt trước sự hoành hành dữ dội của đau khổ và sợ hăi họ đang chịu. Điều nên làm đó là đứng sang một bên để các chuyên viên y tế thực hiện các công tác chuyên môn, liệu chúng ta có thể làm ǵ khác nữa? Các môn đệ trong bài Tin Mừng hôm nay đă cảm nhận cùng một cảm giác bất lực như thế, quá ít thực phẩm trong khi lại có quá nhiều người đói. Song, Chúa Giêsu lại giục: “Chính anh em hăy cho họ ăn”. Hăy trao cho họ những ǵ anh em có. Dường như chúng ta cảm thấy ḿnh không có ǵ trước những thiếu thốn quá sức tưởng tượng của họ. Tuy nhiên, chúng ta thực sự có cái để trao ban, đó chính là sự hiện diện của chúng ta, cũng nghèo nàn như những cảm nhận đó. Và như vậy, chúng ta trao ban chính ḿnh. Rồi ḱa Đức Kitô cầm lấy những thứ chúng ta có, chúc phúc, bẻ ra và trao cho tất cả những người đói, cho họ được no nê, dư đầy ngay trong chốn hoang địa cằn cỗi. Và trong khi trao ban chính ḿnh, chúng ta trở thành những “hiện diện thực sự” của Đức Kitô cho người khác. Khi nh́n vào những vốn liếng ḿnh có, những nguồn lực không thấm vào đâu, th́ liệu chúng ta có thoát khỏi sự thử thách chăng, và dám lo cho một “đám đông dân chúng” hay không?

Tôi có biết một cô y tá làm việc trong khu vực dành cho bệnh nhân giai đoạn cuối tại một bệnh viện gần đây. Trong khi làm việc, cô cố gắng tranh thủ bao nhiêu thời gian có thể để ở bên những người hấp hối đang trong những giờ phút cuối cùng. Cô luân phiên làm công việc ấy vào buổi tối, khi khoa của cô đă yên ắng và cô có thể có một chút thời gian rảnh rỗi. Đây cũng là khoảng thời gian mà những người hấp hối cảm thấy cô đơn nhất, tất cả những ǵ người ta nghe được là hơi thở nhọc nhằn của họ. Cô y tá lúc ấy có thể nắm lấy tay họ, hay có lẽ chỉ ngồi đó với họ. Thói quen đạo đức của cô là đọc kinh Chúa Giêsu, đó là lời kinh mà cô thường thầm thĩ suốt ngày. Trong khi trông nom người hấp hối, cô đọc lời kinh này hết lần này đến lần khác. “Lạy Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Cô nói rằng, ở bên cạnh những người đang ĺa bỏ cuộc đời là một đặc ân. Cô hy vọng sự hiện diện của ḿnh có thể giúp được họ điều ǵ đó. Với những người lo sợ cái chết, cô cầu nguyện và trấn an họ, giúp họ xóa nỗi sợ hăi ấy ra khỏi tâm trí. Khi ai đó đang trong khoảnh khắc cuối cùng, c̣n điều ǵ khác cần thiết và đáng mong chờ hơn thế nữa? Tất cả những thứ chúng ta gom góp, dành dụm để mua lấy, tất cả những tham vọng, những thành tựu nghề nghiệp, tất cả những thứ đó sẽ là ǵ? Chúng có lợi ǵ cho chúng ta vào những khoảnh khắc như thế? Ngôn sứ Isaia đă nghiêm túc nhắc nhở chúng ta ngày hôm nay rằng: “Sao lại phí tiền bạc vào của không nuôi sống? Tốn công lao vất vả vào những thứ chẳng làm cho chắc dạ no ḷng?” Những ǵ cô nữ y tá trên đây trao tặng, sự hiện diện âm thầm, sự hiện diện của một con người có niềm tin, đă có thể đáp ứng được nhu cầu đó của người hấp hối. Chúng ban tặng một sức mạnh mà không ǵ khác có thể. Dường như người ta cảm thấy bất lực như khi chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá, khi đứng trước quyền lực của sự chết, thế nhưng, lời cầu nguyện của cô nữ y tá ấy là một lời nhắc nhở rằng, có một Đấng nào khác vẫn đang ở đây, để nhân lên những của ăn các môn đệ mang đến, làm cho chúng nên nhiều vượt sức tưởng tượng. Liệu những nhà giảng thuyết có thể tưởng tượng những cách thế khác để những sự giúp đỡ đơn sơ của con người có thể được nhân rộng đến những ai cần kíp không?

Bích tích Thánh Thể giống như lời của Thiên Chúa qua miệng ngôn sứ Isaia, mời gọi chúng ta hăy bỏ đi những ǵ không làm ta no thoả mà chỉ gây thất vọng. Buổi cử hành phụng vụ hôm nay giúp chúng ta kiểm nghiệm lại những ǵ mà chúng ta đang nỗ lực t́m kiếm để đạt được và kiểm nghiệm xem chúng ta có thực sự được thoả măn sau những cố gắng ấy không. Kế đó chúng ta cần suy nghĩ lại những mối quan hệ không lành mạnh hay những mối quan hệ không thật của chúng ta, những ưu tiên sai lầm, những giá trị hay thành tựu, những nỗi ám ảnh gắn liền với sự nghiệp mỗi người – bất kỳ những nỗ lực và đầu tư bị đặt sai chỗ bởi chính chúng ta. Chúng ta cũng tin rằng không có hoang mạc nào nơi ḿnh lại ra khỏi ánh mắt nhân từ của Đức Kitô nơi Bí tích Thánh Thể. Bởi lẽ, “… Người nh́n thấy một đoàn người đông đảo th́ chạnh ḷng thương….”